Tanh Khong Luan

Home Thuyet Phap TTDongChanh99 Tho, Van ... Hoi Vien Gia Dinh Phat-Tu English Sutras Diem Sach Book Review Dharma Talks Diem Bao NEFBA Feedback Our Members Our Activities Ngoai Dien Kinh Tieng Viet Sinh Hoat Hoi PGDBF Tin Tuc Phat-Giao

 

Tánh  Không  Luận  Là  Ǵ ?
 
TUỆ  SỸ

(I)
  (MARTIN HEIDEGGER, Aus der Erfahrung des Denkens)  
 

Có thể vay mượn những lời như vậy để khởi đầu cho sự chờ đợi tiếng vọng đáp ứng của những ǵ đó đang ẩn ḿnh trong bóng tối. Những lời được vay mượn ấy không nhất thiết phải là đồng thanh với những cái sắp đáp ứng. Sự tựu thành của những cái đáp ứng này sẽ không xuất hiện trong những tiếng động náo nhiệt. Đây là sự tựu thành của một cơn mưa như thác lũ, khi con bướm mùa hè đă chịu khép lại đôi cánh mỏng để lắng nghe trong thầm lặng hơi thở của cỏ nội. Chờ đợi; kiên tŕ và dừng lại trong sự bế tắc của một thời chỉ có ánh sáng vĩnh cửu của mặt trời. Kiên tŕ và dừng lại để chờ đợi trong sự bế tắc là liều lĩnh thác ḿnh cho một cuộc chơi ngoạn mục của thiên diễn, là liều lĩnh đứng lại giữa ḷng thác đổ của vạn hữu. Đó là một thái độ bướng bỉnh, không chịu tiệm tiến từng bước vững chắc như những đợt nhảy của con chim hồng: nhảy bên bờ nước, nhảy đến tảng đá, nhảy trên đất cạn, nhảy lên cành cây, nhảy lên g̣ cao và cuối cùng bay trong thương khung để lông cánh làm đẹp cho bầu trời (1). Chờ đợi trong sự bế tắc là những bước thụt lùi của con chim hồng, từ trên cành cây rơi trở xuống đất cạn (2). Từ trên cành cây rơi trở xuống đất cạn để chập chững như cưu mang một cái ǵ đó có vẻ ngược ngạo; đó là sự tiến tới bằng những bước thụt lùi, bởi v́ thuận theo sự bế tắc (3).

 Mượn một kinh nghiệm tư tưởng để nói về một kinh nghiệm tư tưởng, đó là một sự vay mượn nghịch lư ngang ngược; vay mượn đă là một điều bất khả, mà nói về lại cũng là điều bất khả. Bất khả cho nên bế tắc. Bế tắc cho nên không t́m thấy một lối trung chính để vào tư tưởng (4).

 Như thế là đă khởi đầu bằng một sự bất chính. Đằng sau sự bất chính này không có che dấu một ẩn nghĩa nào hết để biện minh cho nó. Nhưng, Tánh Không luận là ǵ? "Khi con bướm mùa hè dừng lại trên đóa hoa, khép lại đôi cánh, và đong đưa theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn…"



(II)
 (MARTIN HEIDEGGER,  Im Denken Wird jeglich Ding einsam und langsam)


 

 Từ khi Nagārjuna (Long Thọ) xuất hiện ở miền Nam Ấn độ, đến nay đă 18 thế kỷ qua, và suốt một ṿng cung ba phần tư của toàn bộ Á châu, Tánh Không luận (Sūnyavāda) đă trở thành một thứ khí giới vô cùng sắc bén được trang bị cho một nền triết lư chuyên môn phá hoại. Với những kẻ chống đối nó, phá hoại là phá hoại. Nhưng những kẻ tán thưởng nó th́ nói phá hoại tức là thiết lập. Với cả hai, phá hoại là điều đáng sợ và nên tránh. Chính thực, Nagārjuna đă cố ư binh vực cho một chân lư nào bằng khí giới Tánh Không luận? Người ta đă từng nghĩ, chính Tánh Không (Sūnyatā) là chân lư đó. Bởi v́, người ta có thể t́m thấy, với bằng chứng vô cùng xác thực của văn nghĩa, rằng chính Nagārjuna đă coi phương tiện và cứu cánh là một. Nói cách khác, chính chân lư của Tánh Không tự bảo vệ lấy nó, tự binh vực cho chính nó, không một cái ǵ khác.

 Những học giả hiện đại chuyên môn về Tánh Không luận với những đại biểu có thẩm quyền như T. R. V. MURTI, Ed. CONZE, J. MAY, và có thể kể thêm những vị ở ngoài lănh vực chuyên môn này nhưng cũng được coi như là có thẩm quyền như  STCHERBATSKY, J.TAKAKUSU, vân vân, đều đồng thanh công nhận Tánh Không luận như là Biện chứng pháp (dialectique). Những người đi sau, bám chặt vào danh từ này – Biện chứng pháp – để hiểu Tánh Không luận. Đó quả là một sự vay mượn vô cùng thận trọng. Người ta đă t́m được cho Tánh Không luận một sự đồng thanh tương ứng. Như vậy là "Ngh́n tầm gởi bóng tùng quân (5), tuyết sương che chở cho thân cát đằng".

 Ed. Conze nói đến sự táo bạo của những hiền triết Đông phương là tư tưởng bằng mâu thuẫn. Bởi v́, chính luật mâu thuẫn cho phép người ta nói: phương tiện là cứu cánh, cứu cánh là phương tiện. Phá hủy trong phương tiện, nhưng lại là thiết lập trong cứu cánh. Phá hủy và thiết lập là một. Như thế h́nh như mâu thuẫn đối chọi với đồng nhất. Đây là lư lẽ mà ngươi ta hay dựa vào đó để phân biệt tính cách dị biệt của tư tưởng Đông phương và tư tưởng Tây phương. Người ta thường lư luận theo một tiêu thức điển h́nh nhất như sau: với Tây phương, ce qui est est, ce qui n'est pas n'est pas (của Parménid), đó là tư tưởng trên nguyên tắc đồng nhất; với Đông phương th́, Đạo khả đạo phi thường Đạo, danh khả danh phi thường danh (của Lăo Tử), đó là tư tưởng trên nguyên tắc mâu thuẫn. Bởi v́, nguyên tắc mâu thuẫn như thế là dung nạp tất cả mọi tương phản, tất cả mọi cái không phải là nó, cho nên người ta nghĩ nếu công nhận rằng Đông phương luôn luôn tư tưởng trên nguyên tắc này th́ tư tưởng Đông phương lúc nào cũng có thể dung nạp được tư tưởng Tây phương với tất cả nhũng dị biệt của chính nó. Và ngược lại; v́ nguyên tắc đồng nhất không dung nạp những tương phản. Nguyên tắc đồng nhất đưa đến chỗ đ̣i hỏi sự nghiêm xác của khái niệm. Merleau Ponty: "Có cái ǵ đó không thể thay thế trong tư tưởng Tây phương: (…) sự nghiêm xác của khái niệm…"(6)

 H́nh như chúng ta vừa đưa ra một tràng, ngắn, những lư luận có vẻ rất mạch lạc. Nếu nói cho chí lư, th́ kiểu lư luận này là điều tối kỵ của các nhà Tánh Không luận, kể từ Aryadeva, xuống Buddhapalita, qua Bhavaviveka cho đến Candrakīrti (những truyền nhân của Nagārjuna). Nhưng nói vậy cũng không được. V́ đó cũng chỉ một cách nói áp dụng luật mâu thuẫn một cách mạch lạc. Như vậy, chính mâu thuẫn đă phối trí thành một trật tự mạch lạc để cho mâu thuẫn là mâu thuẫn. Tức là, mâu thuẫn chỉ được thừa nhận như là mâu thuẫn thực sự khi người ta có thể t́m được mạch lạc của nó trong một trật tự nào đó. Bởi v́, nếu không có sự mạch lạc giữa những mâu thuẫn và không mâu thuẫn, làm thế nào ta nhận biết đó là mâu thuẫn?

 Vậy th́, Tánh Không luận là ǵ? "Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô liêu và lững thững."



(III)


 Những vay mượn đă không thể tránh và những thành kiến nặng như ch́ cũng chưa thể từ bỏ được. "Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới nhỏ này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây"(7). Người học về Tánh Không cũng như kẻ học bắt rắn bằng hai tay không.

Nagārjuna là ai?

 Những thiên tài lớn đều xuất hiện trong cơn thịnh nộ. Héraclite trong b́nh minh của Hy lạp với cơn thịnh nộ như những ngọn lửa tàn bạo; ông đă muốn tống cổ Homère ra khỏi những cuộc chơi chung bởi v́ lời cầu nguyện của Homère muốn cho mối bất ḥa giữa các thần linh và loài người hăy chấm dứt. Zarathoustra xuống núi, cùng với sự xuất hiện của Siêu nhân, sau khi đă nổi cơn thịnh nộ với mặt trời. Những con sâu con ngủ suốt cả một nùa đông để chờ đợi những tiếng sấm đầu tiên của tiết kinh trập tháng hai. Nhưng, "Một khi sinh ra, họ muốn sống để rồi chịu đựng sự chết, hay để rồi đi t́m sự yên nghỉ. Và họ để lại những con cháu cùng chia xẻ số phận như vậy." (Héraclite) Những con sâu con chỉ trở ḿnh trong giấc ngủ triền miên, c̣n phải đợi bao giờ cỏ cây nứt vỏ sau tiếng sấm của kinh trập rồi mới trổi dậy: giải chi thời đại hỉ tai! "Thiên địa giải nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác nhi bách quả thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời đại hỉ tai!" (quẻ Lôi Thủy Giải, Kinh Dịch).

 Nagārjuna xuất hiện như một con voi dữ trong truyền thống Phật học và tư tưởng triết học Ấn độ. Đương thời, đối với các nhà hiền triết Ấn, Nagārjuna được xếp vào hàng những tư tưởng gia Phật học lỗi lạc bậc nhất. Nhưng ngay trong hàng ngũ này. Nagārjuna lại được kính trọng như một tên phá hoại đáng sợ. Người sợ đầu tiên có lẽ chính cao đệ của ông là Aryadeva. Ngay trong tên gọi đă có sự trái ngược. Cái tên Nagārjuna ám chỉ cho một thứ rắn dữ. Bởi v́ Nagā có nghĩa là rắn dữ. Nhưng Aryadeva lại hàm ư là một thiên thần thánh thiện. Hai thầy tṛ này, một con khủng long và một vị thiên thần, phải chăng là hai nếp gấp tư tưởng: Huyền chi hựu huyền.

 Nhiều huyền thoại đă được dựng lên chứng tỏ rằng đă có nhiều phép lạ hiện ra để hạ bớt thái độ ngông cuồng của Nagārjuna, khi ông quyết định bỏ cả núi cao, cả rừng rậm và cả đất liền để xuống biển cư ngụ cùng loại rắn dữ (8) . Như vậy người ta mới có đủ lư do để xác nhận rằng ông quả là một tư tưởng gia Phật học khi ông chịu nghe theo lời khuyến cáo của vua rắn mà trở lại đất liền. Ông quả thực là một tư tưởng gia Phật học chính thống. – bởi v́ chính thống cũng hảm ư là ngoan ngoăn mặc dù lối xử sự của ông đôi khi có vẻ ngược ngạo.

 Từ lúc mà Nagārjuna trở lại đất liền, nhiều vấn đề trong truyền thống Phật học và nền minh triết Ấn Độ được đặt lại: Tánh Không luận là ǵ?

 Dường như có một sự lửng lơ và bất khả nào đó; lửng lơ như chính đời sống và bất khả như chính tư tưởng, Nagārjuna từ sương mù của b́nh minh và nắng quái.

 Yathā māyā tathā svapno gandharva-nagaram yathā tathospāda tathā sthānam tathā bhanga udāhritah.

 Như quáng nắng, như giấc mộng, như thành phố giữa sa mạc: tất cả sự hiện khởi, tồn tục và biến mất đều như vậy (9).

(IV)
 

 Trong Đại tạng kinh Trung hoa, được ấn hành dưới sự điều khiển của J. TAKAKUSU, một học giả Phật học người Nhật, có một tác phẩm đứt đoạn mang tựa đề là Lăo tử hóa Hồ kinh, được xếp vào loại những tác phẩm ở bên ngoài Phật học (Ngoại giáo bộ, DTK. 2139; tập 54; tr. 1266 và tiếp). Tác phẩm đứt đoạn này nói Lăo tử cưỡi trâu bỏ xứ Trung hoa đi về phía Tây bắc và giao hóa cho những giống dân man di ở phương này. Môn đệ lớn nhất của ông là Thích ca. Đó là một sự lửng lơ của huyền sử và cũng là một điều bất khả của tư tưởng. Nhưng, mười thế kỷ sau, một người v́ kính trọng Nagārjuna mà phải từ bỏ quê hương của ḿnh để sang cư ngụ và chết ở Trung hoa. Đó là Kumarajiva. Cái tên này lại ám chỉ cho sự trường thọ của trẻ thơ (10).  Có lẽ Nagārjuna hóa thân làm Lăo Tử tại đất Tàu để nói cho một phân nữa Á châu nghe lại cái diệu chỉ "huyền chi hựu huyền" trong câu hỏi "Tánh Không Luận là ǵ?"

 Và như thế, trước câu hỏi "Tánh Không luận là ǵ?" nhưng vay mượn đă không dễ ǵ tránh khỏi và những thành kiến cũng chưa dễ ǵ từ bỏ được:
 "Cũng ví như một người đánh cá lành nghề hay người học đánh cá vung lưới trên mặt hồ nước nhỏ này với một tấm lưới có mắt lưới sít sao. Người ấy nghĩ: Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây."

 Đó là những lời kết luận của kinh Brahmajāla-sutta. Và kinh chấm dứt như thế này:

 Imasmim ca pana veyyākaranasmim bhannamane sahasi loka-dhātu akampitthāti. "Trong khi kinh này được truyền thuyết, một ngàn thế giới đều rung động,"

                                                                                               TUỆ SỸ

Chú  thích
1
) Thứ tự của sáu hào trong quẻ Phong Sơn Tiệm của Kinh Dịch: sơ lục, hồng tiệm vu can; lục nhị, hồng tiệm vu bàn; cửu tam, hồng tiệm vu lục; lục tứ, hồng tiệm vu mộc; cửu ngũ, hồng tiệm vu lăng; thượng cửu, hồng tiệm vu qú.
2 ) Hào cửu tam và hào lục tứ của quẻ Phong Sơn Tiệm đảo ngược thành hào lục tam và cửu tứ của Thiên Địa Bỉ.

3 ) Quẻ Thiên Địa Bỉ: lục tam, bao tu; cửu tứ, hữu mệnh.
4 ) Quẻ Thiên Địa Bỉ: Bỉ chi phỉ nhân (…) Thiên địa bất giao nhi vạn bất thông dă.
5 ) Và đây cũng là một đồng thanh tương ứng: "Đời vốn như thế. Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây tỉa hột, nhưng gnày tháng trôi, năm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công tŕnh; cây rừng bị chặt; bạn hữu từng người rơi rụng xuống. Bóng tùng quân ngh́n tầm xiêu đổ, cái con người trơ trụi sẽ c̣n nghe rơ trong hoang liêu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất." (Saint-Exupéry, Cơi Người Ta, Bùi Giáng dịch).
6 ) "II y a quelque chose irremplaçable dans la pensée occidentale: (…), la rigueur du concept,…" (MP. Signes, Gallimard, p. 174)
7 ) Trường Bộ kinh, kinh Phạm Vơng (Brahmajāle. Sutt); T.T. Minh Châu dịch.
8 ) Viết phỏng theo "Long Thọ Bồ Tát truyện" của Kumarajiva D.T.K. 2047; tập 50, tr. 184 và tiếp.
9 ) Nagārjuna, Madhyamika – Kārikā, VII, 34.
10 ) Đồng Thọ, cũng mường tượng như chữ Lăo Tử.
 
 
 
 [V
ề đầu trang]

[Xem tiếp TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI DIỆN VỚI HƯ VÔ]

 
 
 

 Up DL Ram Thang Gieng Muoi Dieu Bien Ma Phap Mon Tu Tat Vong Kien Tanh Khong Luan Luoc Su Phat Thich Ca Bat Nha Tam Kinh - Su Co Nhu Thuy So Sanh Phap Cu Khuyen The Ca 1