TÔI CƯỚI VỢ
(Thái Quốc
Mưu)
Hồi học lớp
đệ tứ (lớp 9 bây giờ), tôi có
đọc đâu đó truyện ngắn tựa
là "Lấy vợ miền quê", của
tác giả nào tôi quên. Tôi rất
khoái truyện ngắn nầy và định bụng
lớn lên mình cũng “lấy vợ miền
quê” như tác giả kia. Nói thì
hơi xấu hổ, vừa đậu Tú Tài phần
hai, lúc đó tôi mới 18 tuổi tây, tức
19 tuổi ta, mà tôi đã ..."muốn vợ"!
Con trai mà “muốn" chuyện gì thì
thường vòi vĩnh với mẹ, như chiếc
xe đạp, đồng hồ, quần áo mới, kể
cả chiếc solex cáu cạnh tôi đang chạy,
mà chỉ hàng “thiếu gia” ... ở tỉnh như tôi mới
có.
Những thứ
đó tôi đều mạnh dạn nói với
mẹ, và lần nào cũng vậy, mẹ
tôi không cần suy nghĩ mà “ô
kê” liền. Còn cái vụ "muốn vợ"
nầy, tôi có miệng mà chẳng thốt
nên lời! Tôi định bụng lúc nào
mẹ vui và khi chỉ có hai mẹ con ở
nhà thì tôi "tâm sự" liền. Mẹ
lúc nào lại không vui! Vả lại tôi
là con một trong gia dình, chỉ cần ba tôi
đi uống cà phê hay đi đâu
đó thì có biết bao nhiêu dịp
… may!
Thế mà khi
thấy mẹ ngồi, tôi vừa xề lại
thì bao dũng khí đã tiêu tan! Bao lần
như vậy, dường như bà để ý,
giọng ngọt ngào cố hữu:
- Gì đó con trai cưng? Muốn
gì nữa phải không?
Lúc đó tôi chỉ cần một
“gờ-ram” dũng khí, thêm một tiếng
"vợ" sau tiếng "muốn" của me
tôi thì đòn cân cục diện
đâu lại vào đấy rồi.
Đàng nầy tôi lại
nhút nhát, rụt rè! – Điều nầy,
vốn không phải là bản tính của
tôi:
- Dạ ... có "muốn" gì
đâu mẹ!
Trả lời xong tôi thấy ấm ức,
giận mình sao quá yếu gan! Thì may thay, vợ
chồng anh hai Trân tới chơi. Anh với tôi
là chú bác ruột tôi. Hai Trân là
con trai trưởng của bác hai, còn cha tôi
đến thứ chín, nên ảnh nhỏ hơn
cha tôi chẳng bao nhiêu. Anh rất vui tính, cởi
mở, lẹ làng, sốt sắng. Cái gì cũng
chịu hoạch toẹt, không chịu úp úp mở
mở, nên có khi hơi lố lố. Vậy
mà tôi lại quý mến anh ở điểm
nầy nhất, mới lạ!
Chưa chào hỏi mẹ tôi, anh
nhìn tôi bôm bốp:
- Đậu (Tú Tài ) rồi hả
mậy? Là người lớn rồi, cưới vợ
được rồi đó nghen!
Thuở đó đậu Tú
Tài cũng oai lắm, kiếm việc làm dễ
như chơi. Trong thân tộc có người
đậu tú tài là niềm hãnh diện
chung. Nghe anh nói, tôi khoái chí tử,
nhưng cũng làm bộ:
- Mới bây lớn mà có vợ
gì anh ơi!
- Sao lại “bây lớn"? Hồi
tao cỡ mầy là con cu biết gáy rồi. Mầy
hỏi chú Chín ....
Chị hai thúc mạnh vào
hông chồng:
- Nói bậy không hà! Thím
Chín kìa! .. Chú nó còn nhỏ ...
- Nhỏ nhỏ cái gì? Cỡ tuổi nó tôi có con rồi!
Tôi mỉm cười, thấy
thích anh lạ! Anh hai quay sang mẹ tôi:
- Thím Chín! Em lớn rồi nghen
thím. “Nam đại bất hôn như liệt
mã vô cương” đó thím. Em nó
đẹp trai, học giỏi, nhà giàu, mà
thím không chịu cưới vợ cho nó
là có ngày có người bồng
cháu nội về cho thím nuôi đó!
Chị hai nạt:
- Nói bậy không hà! Cái
tật không bỏ!
Anh hai nói chuyện thường
chêm vào mấy câu chữ nho, những lần
đó tôi cũng bực mình, vì có
câu tôi cũng không hiểu nghĩa rõ
ràng.
Câu anh vừa nói tôi hiểu,
xem ra nó cũng hay đó chứ! Còn chị
hai, là người phụ nữ nết na, đẹp
lại hiền, hay kìm chế chồng những khi anh
quá trớn. Đặc biệt lần nầy tôi
lại thấy chị hơi … quá trớn!
Mẹ mỉm cười:
- Biết nó chịu không mà
cưới?
Tim tôi đập thình thịch. Không
ngờ diễn tiến lại thuận lợi như vậy.
Mẹ nói thế tức là nếu tôi "chịu"
thì mẹ cưới chứ gì? Ôi con
đường ... cưới vợ sao mà hanh
thông như vậy!
Anh hai quyết liệt:
- Sao lại hổng chịu thím? Hỏng
lẽ nó muốn vợ nó lại la làng
lên sao? Hồi trước con muốn vợ, con cũng
đâu dám nói cho má con mà phải nhờ
chú Chín mở hơi giùm. Thím quên rồi
sao?
Quay qua tôi, anh dịu giọng:
- Nè cưng, anh hai hỏi thiệt
nghen, cưng có muốn cưới vợ không?
Phải nói là nhờ anh Hai
mà lòng tôi tràn dũng khí. Tôi quyết
không bỏ lỡ cơ hội. Chỉ cần tôi
nói một tiếng "muốn" là bài
toán có đáp số ngay, và bao nhiêu
đè nén trong lòng bấy lâu chắc chắn
giờ đây tan biến! Nhưng như vậy xem
phàm phu quá! Tôi cười cười, đợi
cho mọi người chờ một lát, thần khẩu
xui tôi phát ra một câu quá tuyệt vời:
- Thì hồi trước anh Hai sao
thì giờ em vậy thôi!
Mọi người cười rần
và mang ý nghĩa khác nhau. Tôi cười
cho ... đỡ mắc cở. Chị Hai cười
xòa góp phần vui; anh Hai cười ngất,
cười sặc sụa của người thích
chí; còn mẹ thì cười hiền
hòa, sung sướng, lấy tay áo chậm hai
khóe mắt rưng rưng. Tôi thấy
thương mẹ vô cùng, sà vào
lòng mẹ. Dù là một cậu tú,
nhưng với mẹ, tôi vẫn thường
thích mẹ vuốt ve như thuở lên ba. Mẹ
vò tóc tôi, nói với anh chị Hai:
- Bây thấy hôn? Nó làm
còn như nhỏ lắm vậy!
Mẹ hỏi tôi:
- Bộ con có để ý bạn
gái nào ở trường hả?
Tôi lắc đầu. Mẹ bảo:
- Vậy thì mẹ biết ai mà
cưới cho con?
Anh Hai nhanh nhẩu:
- Thì làm mai! Hồi trước
chú Chín cũng vậy, con cũng vậy. Có ai thương yêu ai trước
đâu? (liếc sang chị Hai) Chừng về ở
chung cũng khoái thấy mồ ...
Anh phủi bàn tay chị Hai định
nhéo vào hông anh:
- Vậy chớ hỏng phải sao?
Rồi quay sang tôi, anh lại ngọt
ngào và xôm tụ:
- Nè, bây giờ em chưa quen ai phải
không? E hèm! Hồi trước anh cũng vậy
thôi. Có sao? Nhưng em phải cho thím Chín
và anh chị Hai đây biết mẫu người
em ưng thế nào thì ở đây mới kiếm
cho em được chứ! Thí dụ, hồi trước
anh ra tiêu chuẩn là phải vừa đẹp, vừa
hiền, vừa có chút học vấn. Em thấy
hôn, chị Hai đúng bon tiêu chuẩn đó,
Anh thấy là khoái liền. Hề hề …!
Tôi thấy mặt chị Hai đỏ
lên vì sung sướng:
- Nói không biết mắc cở
....
Sẵn đà, tôi tiếp:
- Mà phải ở miệt vườn
nữa em mới chịu.
Anh Hai có vẻ cụt hứng,
còn mẹ thì có vẻ vui:
- Phải đó à bây, con
gái ở vườn nó nết na, thùy mị,
giỏi giang.
Anh Hai cười, lại xông xáo:
- Trúng tủ bả rồi! Mà cũng
dễ thôi! Thím bán tạp hóa lớn, mối
mang miệt vườn biết bao nhiêu, nhờ họ
mối lái giùm.
Chị Hai:
- Sao hăng hái dữ! Mai mốt anh
Hai chịu lạy đó nghen!
- Tất nhiên! tất nhiên!
Thói thường người ta tin
tưởng vào những gì mình hy vọng,
và sợ mất những gì mình có. Mẹ
đã xong rồi, còn ba thì sao? Ba thường
hay chiều ý mẹ dù đôi khi ý mẹ
có đôi chút ông chẳng hài
lòng, nhưng đó là những việc nhỏ
đời thường, còn đây là
"hôn nhân đại sự", liệu ba
có còn chiều mẹ hay không?
Ngày hôm sau, tôi thấy ba
có vẻ khác khác - vậy là mẹ
nói với ba rồi! Ba ít nói, có chiều
nghĩ ngợi. Khi giáp mặt tôi, ba mỉm cười
khó hiểu. Phúc hay là họa đây!
Rồi ngày tôi chờ đợi
cũng đến. “Phái đoàn” gồm
ba mẹ, anh chị hai và tất nhiên có vai
chánh là tôi. Thật khó tả được
bao cảm xúc bồn chồn lo lắng, hồi hộp,
đủ thứ lộn xộn trong lòng tôi. Mẹ
tôi cứ dặn dò đủ mọi việc, hết
chuyện nọ tới chuyện kia, đến nỗi
khó mà nhớ hết; còn anh Hai thì cứ
lải nhải bên tai "bình tĩnh, bình tĩnh,
đừng có run".
Nhà ông nhạc tôi (tạm gọi
vậy) ở xã Ngũ Hiệp, cách thành phố
Mỹ Tho 30 cây số về hướng tây. Chợ
Ngũ Hiệp nằm bên kia sông, muốn qua phải
nhờ một phà nhỏ. Từ chợ, theo lời
bà mai, chúng tôi phải đi bộ thêm gần
ngàn mét nữa. Nghe vậy anh Hai nói với
tôi:
- Như vậy là "vườn
trong vườn" rồi phải không cưng? Tiêu
chuẩn một đạt hai trăm phần trăm rồi
hén!
Chị Hai cau mặt:
- Cái ông nầy lúc nào cũng
đùa được.
Thật vậy, đây là
vùng trù phú đất đai, cây
lành trái ngọt. Không biết cơ man
nào là cây trái quả mọng trĩu
cành! Cam, bưởi, sa bô, dừa, vú sữa,
nhãn, chôm chôm ... nhất là sầu
riêng cây nào cây nấy chân tay đeo
đầy nghẹt quả, theo gió thơm lừng. Bà
mai chỉ tay về căn nhà ngói kiểu xưa
(kiểu "chữ đinh") nói:
- Nhà đó đó.
Tất cả dừng lại “hội
ý”. Mẹ lo lắng thấy rõ, lại dặn
dò:
- Nhớ những gì mẹ dặn
nghen con!”
- Dạ!
Anh Hai cũng thì thào:
- Nhà cất kiểu nầy mà gặp
ông già củ tỏi thì mệt lắm à
nghen!
Chị Hai nạt nhỏ:
- Ông lo cái miệng ông
đó. Vô đó nói bậy đi!
Bà mai vô trước, mẹ sửa
lại áo quần tôi chưa xong thì có
người ra mời vào. Giờ phút nầy
tôi càng thấy tình mẫu tử bao la như
thế nào. Mẹ hồi hộp như sắp bước
vào nơi hang hùm nọc rắn không bằng,
điệp khúc "Nhớ nghe con!" lại
phát ra!
Vừa vào cổng, tôi bị hốt
hồn vì hơn hai chục cặp mắt, đủ
hạng tuổi, nhiều nhất là trẻ em chăm
chú vào tôi, một bà trạc tuổi mẹ
có lẽ thông cảm được điều ấy,
bèn rầy đám nhỏ:
- Nè, mấy đứa làm
gì tụ tập lại đây dữ vậy? Có
đi hết không?
Đám trẻ tản đi vài
bước rồi bẽn lẽn đứng nhìn.
Phòng khách được bài
trí hai bàn. Bàn giữa gồm ba mẹ
tôi, bà mai, ông bà nhạc và hai vị
cao niên. Bàn bên có anh chị hai tôi
và bốn người bên gái cùng trang lứa.
Phần tôi nghe lời mẹ là
không được ngồi, mà đứng sau ghế
cha mẹ, hai tay xếp lại để dưới bụng
(nếu đã mời trà xong), tư thế y
như lính hầu ở phủ huyện, hay các
thái giám ở cung đình hầu hạ đức
vua!
Theo cách nói chuyện… lại
có dịp đứng trước nhạc phụ mẫu;
tôi biết ông bà là người cởi mở,
dễ tính. Câu chuyện của hai "sui"
càng lâu càng khởi sắc tốt đẹp.
Dần dà khách khí không còn, mà
như đã quen nhau từ trước vậy.
Bỗng Ông nhạc gọi:
- Con hai đâu, châm trà mới
đi con!
Một tiếng "dạ" thảnh
thót không kém Điêu Thuyền thời Tam
Quốc từ nhà dưới vọng lên làm
tim tôi rộn ràng. “Phái đoàn”
nhà trai ai cũng hồi hộp chờ đợi. Bởi
ai cũng biết bảo “châm trà” chẳng
qua là lời nói khéo cho con mình ra
chào để nhà trai “coi mắt”
đó thôi!
Mẹ quay lại nhìn tôi mỉm
cười, thầm bảo "hãy xem kỹ vì
thời gian không lâu". Tôi chưa kịp mỉm
cười với mẹ thì rèm hoa lay động,
một kiều nữ vận bộ bà ba, không phấn
không son mà má phấn môi hồng. Tóc
dài kẹp gọn gàng bởi chiếc kẹp
vàng có đính bông hồng chói lọi.
Thoạt trông, tôi giật nẩy người,
đến nỗi bố vợ nhìn thấy. Đợi
giai nhân châm trà xong, ông vội bảo:
- À quên nữa, cháu qua
bên ngồi uống nước, hay cứ ra ngoài dạo
cho thoải mái.
Mẹ lại quay ra tôi, nhướng
mày, thầm bảo “hãy đi đi con”,
vì thực ra, ông nhạc cũng ngầm ý cho
tôi và vợ tôi gặp nhau để
“tìm hiểu”, dù thời lượng
ít oi, nhưng nếu tri túc ắt tiện
túc mà thôi! Mọi sự đều được
người lớn sắp xếp có bài có bản
và, có màn có lớp hẳn hoi!
Không khí bên ngoài thực
thoải mái. Nhiều loại cây trái lớn
nhỏ thi nhau che rợp ánh mặt trời làm
mát rượi cả một không gian rộng. Vài
tia sáng yếu ớt cố gắng chen vào đất
tạo thành những đốm trắng lưa
thưa đây đó tựa rải hoa. Mùi sầu
riêng thơm lừng. Hàng sa-pô thẳng tắp
trái nặng sai oằn. Mấy nhánh ổi cho
trái bóng láng no tròn, rục mềm
rơi rụng tứ tung, tỏa hương thơm
bát ngát. Chim hót líu lo, bướm vờn
thẳng cánh. Đàn ong tranh nhau hút mật của
trăm ngàn hoa đủ sắc đủ màu. Rõ
ràng là vùng đất lành thừa mứa
cây lành trái ngọt.
Bên sau một giọng êm đềm:
- Biết người ta ưng hay không
mà dám đi hỏi vậy?
Tôi quay lại, thì ra là vợ
tôi, (tạm gọi vậy), mà cũng là Vi,
người đã làm tôi kinh ngạc đến
đánh thót cả người khi nãy!
Vi là bạn học cùng lớp với
tôi hồi năm đệ tứ. Hồi đó lớp
đệ tứ được xem là cái “mốc”
của sự chia tay. Bởi con trai, nếu thi rớt
thì cha mẹ thường cho nghỉ để học
nghề, còn thi đậu (cấp bằng Trung Học
Đệ Nhất Cấp) thì cũng mỗi người
một hướng đi: Vào sư phạm hoặc
ngành nghề nào đó, hoặc học tiếp
ba năm nữa để lấy Tú Tài rồi
lên đại học. Con gái thì ít
người được học đến chốn
đến nơi. Rớt hay đậu cũng thường
bị cha mẹ cho nghỉ mà lo phụ việc
nhà, viện lẽ con gái “học cao”
khó có chồng! Vi cũng nằm trong số phận
nầy. Bởi vậy cuối năm đệ tứ,
chúng tôi thường trao nhau lưu bút, mọi
người đều nắn nót tuồng chữ cho
trang mình, thường tặng cả ảnh, dán
vào giữa trang viết, dưới đề:
"Thương nhau mới tặng ảnh nầy,
Để làm kỷ niệm những ngày xa
nhau'
Dù cho ảnh có phai màu,
Cũng đừng xé bỏ mà đau
lòng người!”
Không biết bốn câu thơ ấy
là của tác giả nào, sáng tác tự
bao giờ, mà đến nay, thỉnh thoảng tôi
lại thấy sau bức ảnh "tặng nhau" của
các em cũng có đề như vậy.
Hơi lạc đề, nhưng nói
thêm cho vui: Hồi đó tôi cũng có quyển
lưu bút, tất nhiên khi ai nhận thì cũng
nắn nót từng chữ và giữ sạch sẽ
như nói ở trên. Khi tôi đưa cho thằng
Nhứt, ngày sau nó trả (thường thì vậy),
nó viết vào trang đôi mấy chữ tổ
bố: “Lưu niệm làm cái xê bình
phương gì?" (c .. c ..), rồi láu cá
ký tên giáp cả hai trang giấy!
Tôi xem giận run. Cự nó. Nó
cười: “Để sau nầy mầy nhớ
tao”.
Tôi nghe cũng xìu lòng. Quả
thật, đến giờ, nó là người
tôi nhớ nhất. Và đến ngày cuối,
chúng tôi tổ chức tiệc liên hoan cuối
khóa tại lớp. Văn nghệ xung quanh các
bài hát về “mùa chia tay”, “tạm
biệt”, “nỗi buồn hoa phượng”... Tôi
có sở trường ngâm thơ, ngâm hai
bài thơ Đường luật, bài đầu
của thầy H.C, giáo sư sử địa ,
bài nầy tôi chỉ nhớ hai câu cuối:
"... Rồi đây nếu chẳng sau mùa phượng,
Tất cũng mai kia ở chợ đời!"
Và bài họa của tôi:
"Việc
cũ, ngàn sau vẫn đổi dời.
Chút
tình tâm huyết nói sao vơi?
Luyến
lưu kẻ ở đôi dòng lệ,
Tiếc
nhớ người đi một góc trời
Chín
tháng vui buồn trong một lớp,
Vài
giây ly biệt rẽ ngàn khơi,
Đường
mây một kẻ hanh thông bước,
Một
kẻ lang thang giữa chợ đời!
(Thơ
Kha Tiệm Ly)
Đám con gái mắt đỏ
hoe, có đứa khóc thành tiếng. Chúng
tôi lại tặng quà lưu niệm cho các bạn
“nghỉ luôn”. Tôi tặng Vi cái kẹp
tóc bằng vàng 14 (tôi là ... “thiếu
gia” mà!) Vàng hồi đó rẻ lắm,
đàn bà con gái chẳng thấy ai đeo,
có đeo thì cũng sơ sài, đeo nhiều
mắc cở, bị coi là “quê”; không
thấy ai đeo cục cục như giờ. Vi tặng lại
cho tôi cây bút Pilot nắp vàng, loại cao
cấp nhất thời ấy.
- Sao không trả lời?
Vi nghiêm trang như thuở nào,
tôi hơi chột dạ:
- Thật lòng tôi không ngờ
mình đi hỏi cưới Vi. Đã bao năm rồi,
vả lại lúc đó mình còn nhỏ cả
mà!
- Bộ mấy năm qua không nhớ
chút gì về Vi sao?
- Vẫn nhớ về người bạn
nhỏ hiền lành, nhiều nước mắt.
Vi vừa đưa tay rút cây viết
trên túi áo tôi, vừa nói:
- Xin lỗi nghe, cho Vi mượn.
Rồi xoay cán viết, nhìn những
dòng chữ khắc trên ấy, Vi có vẻ
xúc động:
- Vẫn còn giữ của Vi à?
Tôi không đáp, nhìn hai
rèm mi chơm chớp, tôi thấy Vi đẹp
não nùng. Tôi nắm lấy tay Vi:
- Không ngờ lại gặp lại Vi.
Chẳng phải không có duyên số hay sao? Vi
đồng ý nhé!
Vi tủm tỉm cười:
- Nếu em không ưng thì sao?
- Thì anh về, nhưng xin gởi
trái tim anh lại.
Lại cười:
- Rõ là thi sĩ! Em đã
đồng ý từ khi bà mai nói chuyện với
ba mẹ, đâu phải đến bây giờ.
- Không biết mặt làm sao
ưng?
Vi kéo mái tóc về phía
trước ngực:
- Khờ quá đi! Mọi người
ở đây ai không biết con trai một của
tiệm tạp hóa Vạn Phát, chứ em thì
rành lắm. Vị “công tử” ấy
còn tặng cho em chiếc kẹp xinh đẹp nầy
nữa phải không?
Trên đường về, mẹ luôn
miệng với ba:
- Con nhỏ xem nết na và "lịch
sự" (đẹp)
ghê ông há?".
Lại lo ngại:
- Hổng biết nó có ưng thằng
con trai cưng tôi không nữa?”
Nãy giờ tôi lặng thinh, nhớ
lại những lời nói của Vi mà thấy
lòng hân hoan lạ. Nhưng thấy mẹ cứ lo
lắng mãi, tôi mới nói:
- Chắc ăn rồi mẹ ơi! Mẹ
đừng lo!
Mẹ nghi ngờ. Anh Hai nói:
- Hồi nãy ngoài vườn tụi
nó nói chuyện, chỉ cần khi về,
đá lông nheo một cái là kể như
xong. Thím lo gì!
Ba châm vào:
- Hồi trước bả cũng vậy,
sao bả mau quên quá!
Không biết mẹ đánh hay phủi
bụi cho ba:
- Cha già mất nết!
oOo
Thế là chậm lắm khoảng một
tuần, mươi ngày tôi đều đến
thăm nhạc gia, nhạc mẫu. Ba mẹ vợ tôi
đều nhân hậu, nghiêm khắc với con
cái nhưng xem chừng "dễ" với thằng
rể tương lai.
Trước khi đi, ba tôi dặn. Con
đến đó thấy cái gì làm
được thì làm, chứ đừng lấy
mắt ngó là không được! Ngày
xưa trước khi cưới, phải làm rể
ba năm: Chẻ củi, vác lúa, cày bừa,
làm đủ thứ nặng nhọc, chứ chẳng
phải chơi đâu!
Nhưng tôi biết cái gì
mà làm, mà phụ? Lần đầu đến,
tôi thấy ba vợ tôi đang chài cá, thấy
tôi sựng rựng, ông hiểu ý, nói:
- Con đứng chơi, ba vãi vài
chài nữa ba vô.
Thế coi sao được! Đợi mỗi
khi ba kéo chài lên, tôi phụ gỡ
cá, mà có được đâu! Tôi
đụng tới con nào thì con ấy giãy rồn
rột, rách cả tay, có khi phóng lại xuống
mương; trong lúc ông bỏ vào giỏ lia lịa
như bỏ đá vào vậy!
Một lần thì thấy ông
đang chiết nhánh cây, cái nầy tôi
càng mù tịt, nhưng cũng có việc
làm là ... đưa dây cho ba tôi cột
“bầu”; cái công việc không cần
người phụ tá!
Ba vợ tôi rất điệu đời,
ông thường bảo vợ tôi dắt tôi ra
vườn xem có “cái gì nó
thích thì hái nó ăn”. Tôi biết
ba tạo điều kiện cho chúng tôi chuyện
trò. Ông dư hiểu, bởi nói tiếng
là thăm cha mẹ vợ, nhưng chủ yếu của
chàng rể tương lai nào cũng là
thăm ... vợ cho đỡ nhớ mà thôi. Nếu
không, tại sao mỗi lần đến thăm
mà cha mẹ vợ đi vắng thì chàng rể
lại hớn hở trong lòng!?
Vườn nhà vợ tôi đủ
loại cây nên có trái quanh năm,
chúng chen chúc nhau nên chỉ cách hơn
mười thước là không thấy dáng
người. Tôi có cảm tưởng như
hoàng tử gặp công chúa trong rừng vậy!
Đến hàng dừa tơ, quày ôm trĩu
trái màu vàng rực, sai oằn đụng tới
mép mương, Vi đưa tôi dao, bảo:
- Chặt dừa uống nhé!
- Trái nào đây?
- Thì tùy chọn
Khổ sở lắm tôi mới đem
được hai trái dừa rời quày
được. Dùng dao chặt phần đầu
có cuống. Dao bén ngót mà tôi phạt
năm bảy nhát liền mà vỏ dừa chỉ
dập dập, trầy trầy, tung mấy miếng
văm! Vi cười khoe hai hàm răng đều
như hạt bắp:
- Để nô tì giúp cho,
thưa công tử!
Giành lấy dao, Vi chỉ phập ba
nhát nhẹ nhàng mà vỏ dừa tách ra
từng mảng lớn, nhát thứ tư, nhẹ
hơn, chạm vào gáo, Vi thuần thục
lách nhẹ lưỡi dao, để lộ phần
“cái” trắng bóc mịn màng, bao
quanh phần nước sóng sánh trong veo! Một
tay đưa dừa cho tôi, tay kia chỉ chỉ
vào trái dừa bảo:
- Chặt dừa phải chặt đầu
lớn nầy nầy, Lưỡi dao phải để
hơi xiên. Ai đời ở trên bổ xuống
... 90 độ. Làm sao đứt được?
Lợi dụng, tôi nắm lấy cổ
tay tròn trịa mịn màng của Vi, ghé mũi
xuống hít một hơi dài. Vi vẫn để
yên nhưng bặm môi:
- Có thấy con dao ở đây
không thì bảo?
Rồi cùng cười, tôi
hít mũi chọc:
- Còn ngọt hơn cả nước
dừa!
Đến địa phận chuyên trồng
sầu riêng. Ôi! hàng hàng thẳng tắp.
Không biết cơ man nào là trái đậu
trên cành! Toòng teng nhỏ to đủ cở,
lủng la, lủng lẳng tầng thấp tầng cao, xem
vô cùng ngoạn mục. Tôi hỏi:
- Nghe nói sầu riêng chỉ rụng
về đêm, phải không?
- Sao lạ vậy?
- Thì ... trời khiến để
đừng bể đầu người!
Vi cười ngặt ngoẻo:
- Sao trái dừa vẫn rụng ban
ngày? Bộ trái dừa không làm bể
được đầu người? Chủ vườn
nói vậy để cho mấy thằng ăn trộm
không dám lẻn vào đó thôi!
Rồi chỉ vào phía trước,
bảo:
- Có hai trái rụng kìa! Anh lại
lượm đi! Coi chừng nó "bịch" một
cái là hết có vợ đo .. o .. ó!
Tôi nhìn lên, thấy hàng
trăm trái lòng thòng, gai tua tủa, giống
như những quả chùy của các võ
tướng ngày xưa. Nói dại, nếu
nó mà "phịch" xuống một cái
như lời Vi nói thì dù không bể
đầu, thì mặt mũi chắc cũng khó
coi! Dợm chạy đi, bỗng luồng gió
quái ác từ đâu lùa tới, bèn
chột dạ, tôi dừng lại. Vi cười ngất:
- Coi vậy mà cũng sợ mất vợ
hén!
Tôi chữa thẹn:
- Vậy chớ vợ như Tây Thi
thì chết sao đành!
Má Vi càng đỏ thêm, nắm
tay lại giá giá vào tôi:
- Cái tật nịnh .......
Tôi vừa đặt hai trái sầu
riêng xuống thì Vi bảo:
- Tách ra đi!
Nói đoạn lại bờ rào
tìm hái những nhánh bông. Tôi lui cui lấy
dao chặt phình phịch vào đầu lớn
trái sầu riêng, dao cũng để xiên một
góc mà xem ra vỏ sầu riêng còn dai
hơn cả vỏ dừa. Thật tình, sầu
riêng tôi ăn có hàng trăm nhưng mỗi
lần đều được mẹ bóc sẵn bỏ
vào tủ lạnh, nên có biết gì
đâu!
Tôi lật qua, lật lại, chợt
nhớ tới cái vỏ sầu riêng mẹ
bóc xong đâu có trầy trụa, hay mất một
góc đàng đầu trái, mà xem ra
nó còn nguyên vẹn giống như một chiếc
xuồng! Tôi sửa lại rồi dùng dao bổ
theo chiều dọc, cũng chẳng ăn thua! Mệt,
tôi định gọi cầu cứu, thì Vi
đã đứng sát bên tôi bụm miệng
cười tự lúc nào ...
Rõ ràng là Vi biết tôi
không làm được mà cố chọc
chơi! Bèn ngồi xuống, lấy dao, vừa
làm vừa dạy đời:
- Hồi nãy em bảo công tử
“tách” ra chứ có bảo “chặt”
đâu mà làm như bửa củi vậy? Đây
nè, chỗ nầy lúc nào cũng có một
khe hở. Chỉ cần để mũi dao vào
đây rồi dùng đòn bẩy Ạc-Shi-Met
là xong. Làm rể kiểu nầy mất vợ
như chơi.
Tôi bá lấy cổ Vi:
- Giỏi quá, để anh thưởng
cho một cái.
Vi nhắm mắt, lắc đầu quầy
quậy:
- H .. ô .. ông ..!
Đợi khi tôi “chụt”
xong, Vi mới mở mắt ra, chỉ tay vào vỏ sầu
riêng, nói:
- Cái vỏ sầu riêng nầy
mà vô mặt thì còn hơn té
thùng đinh nữa đó!
Lần nào cũng có chuyện
tương tự như vậy, thử hỏi sao tôi
không khoái về thăm ... ông bà nhạc?
Gần tới ngày cưới, tội
nghiệp Vi gầy thấy rõ. Sau nầy tôi mới
biết, là con gái trưởng trong gia
đình, Vi lo lắng sắp xếp mọi thứ, lại
nghĩ tới ngày theo chồng, xa mẹ bỏ em
nên đủ thứ tình cảm ray rứt trong
lòng. Vậy mà trò chuyện với tôi một
hồi, mặt hoa lại rạng rỡ, nói nhỏ
cho tôi vừa nghe, như một chuyện gì quan
trong lắm:
- Làm rể mà lỏng nhỏng
không động móng tay, cứ đeo sát con
gái người ta hoài không sợ bà con họ
nói sao?
Ba vợ tôi thường bảo
tôi: “Con ở chợ không quen việc ở
vườn. Con cứ về thăm, khỏi làm
gì hết, đừng ngại, cứ coi như ở
nhà con”.
Tôi đem lời nầy nói cho vợ
nghe, rồi châm thêm:
- Vậy chứ anh có việc gì
để làm?
- Em chỉ cho. Gần tới ngày
cưới rồi, phải có củi để nấu
chứ! Hay là anh chịu khó ra chẻ một mớ
....
- Ở đâu?
Vi chỉ tay về một hàng củi
được chất ngay ngắn từng ô một,
dài chừng ... vài chục mét, khúc
nào khúc nấy cỡ bắp đùi ... voi. Tôi
chột dạ:
- Chẻ hết sao?
Vi làm mặt nghiêm:
- Ừa! ... thì tới đâu hay tới
đó! Ngày còn dài mà! ....
Tôi xách búa đi mà
tác phong rời rã như Hạng Võ tại bến
Ô Giang! Nhưng muốn ăn phải lăn vào bếp,
muốn cưới được vợ thì phải
bửa củi, cày bừa … Thì ra lời ba
tôi nói chẳng sai, bằng chứng là
tôi cũng không ngoại lệ!
Tôi cởi áo sơ mi máng
trên cành bưởi, còn lại chiếc
áo thun ba lỗ trắng tinh, vốn là
mô-đen của con nhà giàu mới có
áo lót bên trong. Dù là “công tử”,
nhưng tôi thường tập tạ nên bắp
thịt coi cũng ngon lành. Tôi đếm thầm:
Một, hai, “phập!”; một, hai “phập!”
Có cái “phập” làm củi vỡ ra,
có cái “phập” thì búa lại
dính khắn vào củi, gỡ ra cũng tróc
vẩy trầy vi! Khi độ mệt đã
choáng váng mặt mày, nhưng còn đủ
để nhận được tiếng ông nhạc ở
sau lưng:
- Bây làm cái gì vậy?
Tôi quay lại chào ông bà
vừa đi xóm về, rồi trả lời với
giọng điệu của người vừa lập
nên công trạng:
- Dạ, vợ con biểu chẻ củi
để khi đám cưới có mà
xài!
- Thôi, thôi! Bây “bị”
nó rồi! Đi vô! Đi vô uống nước
con!
- Dạ, để con chẻ thêm một
mớ nữa, ba!
- Củi nầy ba để bán cho
lò bánh mì, đâu cần chẻ! Còn
củi dùng cho đám cưới thì để
trong nhà kho kia, có xài mười đám
cũng không hết!
Bà nhạc lắc đầu:
- Cái con nhỏ nầy …
Vào nhà bà nhạc rầy Vi:
- Chồng của mầy nó không
quen làm việc nặng. Xúi dại rủi nó
trợt chân trợt cẳng thì sao?
Bà nhạc dùng tiếng “chồng
mầy” tôi thấy ấm áp lạ lùng! Còn
vợ tôi thì chúm chím cười,
còn liếc qua tôi với ánh mắt còn
bén hơn ... lưỡi búa, lại chu
đôi môi đỏ au chế nhạo.
Thế là bao mệt mỏi trong
tôi biến mất tiêu!
Phải nói trong đời thường,
về sự thông minh, lúc nào vợ cũng
hơn tôi một bậc. Khi về làm dâu vợ
tôi đã chứng minh đầy đủ điều
đó. Ngoài sự hiếu thảo với cha mẹ
chồng, vợ tôi còn nhiều đức
tính như nhân hậu, cần kiệm ...
Thuở đó, ở thành phố
“nhà giàu” mới có tủ lạnh
(ti vi chưa có), còn dưới quê thì
tuyệt đối không, bởi có điện
đâu mà xài! Nên những ngày đầu,
tủ lạnh đối với vợ tôi là một
phát minh khoa học lớn lao, nó đủ
công năng, nên có cái gì cũng
“thồn” vô trong đó. Có lần mẹ
tôi mở tủ lạnh, rồi nói với vợ
tôi:
- Tô mắm nêm nầy, con đừng
có để vào đây, nếu không tất
cả cái gì trong nầy đều có
mùi mắm nêm hết.
Chỉ chờ có dịp nầy,
tôi cười hí hí:
- Trái cây mà có mùi mắm
nêm ăn càng ngon chứ sao mẹ?
Mẹ cười, còn vợ tôi cứ
đem cái sở trường là bắn nửa mắt
vào tôi.
Tôi khoái chí, nói theo kiểu
đá banh thì “gỡ” được một,
nhưng dường như chỉ có một mà
thôi!
Khi con chúng tôi đã lớn,
tuổi có thể về quê thăm ngoại một
mình, thế mà một tối cả nhà xem ti
vi, không biết nhằm đoạn hài gì
mà vợ tôi cười ngất. Con hỏi,
“sao tự nhiên mẹ cười?” Một
lát vợ tôi mới trả lời được:
- Mẹ thấy bộ tướng ông
thái giám đứng khúm núm kia giống
"mấy thằng cha" lần đầu coi mắt vợ
quá! Hi! Hi!
Biết bị xỏ ngọt nhưng
tôi biết gì hơn ngoài làm ...thinh! May
sao đến chương trình quảng cáo, quảng
cáo tủ lạnh, tôi nói tỉnh bơ:
- Tủ lạnh đời mới coi bộ
tốt à nghen! Nó tự khử mùi, dù
"mấy con mẹ" ở vườn có để
mắm nêm vô đó cũng không sợ
hôi. Ha! Ha!...
Tức thì vành tai tôi bị
kéo ra cả thước, tiếp theo là một giọng
tru tréo, muốn nổi da gà:
- Trời .. u . u ..i! Chuyện cũ nhắc
hoài! Nhắc hoài!
Vậy đó, “chuyện
xưa” thì vợ tội nhắc được,
còn “chuyện cũ” tôi nhắc thì
như bị muốn nhai xương!
Có vợ miệt vườn, miệt
quê là vậy đó!
THÁI QUỐC MƯU
(Trịnh
Cuối Huôn sưu tầm và chuyển)