ĐÓI
(Huy Phương)
Xin hãy xem kỹ bức ảnh trên
đây, bức ảnh chụp một em bé
gái ở Sudan, đói trơ xương đang kiệt
sức gần một trại thực phẩm của
Liên Hiệp Quốc, sau lưng em bé là một
con chim, “kên kên” (vulture) đang đứng
chờ lúc em bé khốn khổ này ngã xuống
chết là nó vồ lấy mà rỉa lấy
thịt. Bức ảnh làm rúng động thế
giới loài người. Tác giả
bức ảnh là Kevin Carter (1961-1994) một nhiếp ảnh
gia Nam Phi không mấy tăm tiếng, đã đi
thăm Sudan
vào năm 1993. Không ai biết số phận
em bé trong bức ảnh ra sao, vì Kevin Carter
đã rời nơi ấy sau khi chụp bức ảnh
này. Bức ảnh này đã
được đăng lần đầu trên tờ
New York Times và đã được giải nhiếp
ảnh đặc biệt “Pulitzer Prize” năm 1994.
Xin hãy đọc những dòng chữ gần
như được coi là “tuyệt mệnh”
sau đây của nhà nhiếp ảnh Kevin Carter: "Lạy Thượng Đế, con
xin hứa sẽ không bao giờ phí phạm thức
ăn dù dở đến mấy
đi nữa hay dù đã quá no. Xin Thượng
Đế che chở đứa bé này, hướng
dẫn và đưa nó ra khỏi cảnh khốn
cùng. Cầu xin chúng ta sẽ ý
thức nhiều hơn đến thế giới chung quanh
và không bị mù quáng vì bản chất
và quyền lợi ích kỷ của chúng ta.
Hy vọng bức ảnh này sẽ nhắc nhở
chúng ta là chúng ta đã được
may mắn như thế nào và đừng bao giờ
cho rằng mọi sự tự nhiên mà có. Xin
tiếp tục chuyển bức ảnh này đến
bạn bè của chúng ta, và xin hãy cầu
nguyện cho những nỗi khổ đau bất cứ
nơi nào và lúc nào trên quả địa
cầu này. Hãy suy nghĩ và
nhìn vào bức hình này... mỗi khi
chúng ta phàn nàn về những thực phẩm
mà chúng ta đã phung phí hằng
ngày."
Hai tháng sau, nhà nhiếp ảnh
Kevin Carter đã tự sát vì không chịu
nổi sự khủng hoảng tâm lý đã
dày vò ông ta.
Vậy mà ở đây, trung bình ít
nhất mỗi tuần người ta phải dọn sạch
tủ lạnh, vứt bỏ những thức ăn thừa còn để lại từ
tuần trước. Nào là món cơm
chiên thập cẩm, đĩa tôm rang mặn
“to go” về từ một bữa cơm gia
đình nào đó, món canh chua cá
bông lau còn dư lại hai hôm trước,
đĩa mì xào hay bát cơm đã
khô quắt, cái bánh kem sinh nhật hãy
còn cả tuần nay, bình sữa đã
quá hạn dùng và nhiều thức ăn
“bị bỏ quên”. Nếu chiếc
tủ lạnh chưa đầy ắp thì có lẽ
chúng còn nằm đó lâu thêm một
thời gian nữa. Trong túi
chúng ta có ít bạc lẻ, trong nhà
băng vẫn còn tiền, quán xá chợ
búa không xa, kỳ lương cũng sắp đến,
kẹt lắm cũng còn nơi nhờ vả, vay
mượn. Bao gạo gia đình cũng
còn một nửa, thùng mì gói chưa hết,
gói lạp xưởng sắp mốc, trong tủ
trà còn bánh kẹo. Điều may mắn
hơn hết là chúng ta đang ở Mỹ,
không phải ở Bắc Hàn, Sudan, cũng
không phải ở các làng quê xa các
đô thị “phồn vinh” của Việt Nam
phải ăn xương rồng hay nòng nọc thay bữa,
vậy thì làm sao chúng ta có thể bị
đói và nghĩ đến cái đói
được.
Trên đời này có người
chưa bao giờ phải chịu đói một
ngày nào nên chưa biết cái
đói nó như thế nào, cảm giác
của người bị đói ra sao, nhưng
là một người Việt Nam bình thường
trong một đất nước chiến tranh, loạn lạc,
mất mùa, tù đày, vượt biển...
như Việt Nam thì ít ra một lần cũng
biết thế nào gọi là đói. Ở Bắc
Việt, năm Ất Dậu (1945) hơn hai triệu đồng
bào của chúng ta chết đói, xác nằm
vương vãi trên hè phố, đường
làng đã là một trang sử bi
đát, thê thảm của dân tộc, nhưng
nếu chúng ta biết được những con số
chết đói kinh hoàng sau đây thì
chúng ta sẽ thấy đất nước và
dân tộc chúng ta cũng còn chút may mắn.
Trên thế giới đã
có 57 triệu người chết đói, trong đó
có 10, 5 triệu trẻ em dưới 5 tuổi. Chỉ trong một năm mất
mùa 2003 ở Niegera, Châu Phi, quốc gia này
đã giết mất 150.000 trẻ em. Chúng ta
không bao giờ dám nghĩ rằng trong một
phút, trên thế giới có 23 đứa trẻ
chết vì đói, và tối nay, trên thế
giới có hàng trăm triệu trẻ em lên
giường hay nằm vật vạ ở một xó
xỉnh nào đó mà không có gì
để bỏ vào trong miệng, nằm mơ
có một miếng bánh mì, một củ
khoai, nhưng giấc mộng không bao giờ trở
thành sự thật.
Nhân vật trong câu chuyện
“Đói“ của nhà văn Thạch Lam chỉ
đói có một ngày thôi, mà
cái đói đã xé ruột gan, làm
tay chân run rẩy, mắt hoa lên. Ở miền Bắc
XHCN người ta đã đói dài dài,
mà sau ngày “giải phóng” miền Nam cũng
đói theo. Cái đói của
người tù trong các trại cải tạo miền
Bắc sau năm một nghìn chín trăm bảy
lăm là cái đói âm ỉ, như
cơn sóng ngầm làm hao mòn thể lực.
Vậy mà khi về đến nhà, khi sang đến
Hoa Kỳ, những người tù “cải tạo”
như tôi, khi ăn vẫn không vét sạch
chén cơm, sau bữa ăn vẫn thản nhiên vứt
thức ăn thừa vào thùng rác mà
không chút mảy may động lòng khi nghĩ
đến những ngày đói khát.
Ở đất Hoa Kỳ này, tỷ phú
thì cũng ăn ngày ba bữa, có bữa cũng
chỉ dùng một cái hamburger, nghèo thì cũng
hai bữa một ngày, để mua được một
cái bánh mì thịt băm cũng không
khó. Ở quê nhà của chúng ta, thời
buổi đói kém, người Việt chúng
ta đói không có cơm ăn, đành phải
ăn khoai sắn. Không có tới
khoai sắn thì chúng ta ăn rau
hay bắt cóc nhái ngoài đồng. Khi chung
quanh không còn gì để quơ quào cho
vào miệng, quá đói thì phải
ăn những gì không ăn được như
thân cây xương rồng, lá sắn hay cả
con nòng nọc, nhưng bọn cầm quyền lại
rượu thịt ê hề, cá độ một
trận bóng tròn lên hơn triệu bạc.
Nạn đói phần lớn không do tài
nguyên mà do chính sách cai
trị. Muốn
cho dân khỏi đói thì phải thay đổi chế
độ chính trị, phải đập tan bọn cầm
quyền vô lại. Sudan, Bắc
Hàn hay Việt Nam
cũng vậy thôi.
HUY PHƯƠNG
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)