ĐI LẤY CHỒNG XA...
(Huy Phương)
LGT: Từ một ngẫu nhiên nhưng sâu sắc
tình nghĩa như những đường nét hữu
duyên của định mệnh, chúng tôi
được hân hạnh đọc bài viết
"Đi Lấy Chồng Xa" trong cuốn "tạp
ghi" cùng tên của nhà văn Huy
Phương. Xúc động trước những thao
thức chân thành mà tác giả gửi gắm
trong bài viết, chúng tôi vội tìm hiểu
thêm về ông, và được biết,
ông tên thật là LÊ NGHIÊM KÍNH,
nhà giáo động viên vào khóa 16 Thủ
Đức, từng là Biên tập viên báo
chí và đài phát thanh Quân đội,
Tổng thư ký toà soạn Nguyệt san Chiến
Sĩ Cộng Hoà và tạp chí Tiền Phong,
Trưởng phòng Tâm Lý Chiến và
Chính Huấn tại TTHL Quang Trung; và sau 1975,
ông đã bị 7 năm tù cải tạo
trước khi định cư tại California, Hoa Kỳ.
Giới thiệu về ông, ngay trang đầu của
cuốn tạp ghi "Đi Lấy Chồng Xa",
Nhà Xuất Bản Nam Việt viết:
Thời niên thiếu, ở Huế, người
ta biết đến Huy Phương như một người
làm thơ và viết tùy bút. Bài của
ông đến với người thưởng
lãm rất sớm, khoảng năm 1952, trên tuần
báo Đời Mới (Saigon)
do Trần Văn Ân chủ
trương. Cũng như đa số thanh niên lớn
lên cùng thời với ông, cho tới khi trở
thành một thầy giáo tỉnh lẻ, ông
đọc và chịu ảnh hưởng của Tự
Lực Văn Đoàn và nhiều nhà thơ
tiền chiến. Tác phẩm hay khuynh hướng
sáng tác của ông, lúc khởi đầu,
chưa bộc lộ những nét đặc thù
riêng. Ông có xuất bản thơ và truyện,
nhưng không thực sự gây tiếng vang
trên văn đàn. Sau này, qua những trải
nghiệm trong hơn mười ba năm quân ngũ rồi
bảy năm với nhà tù Cộng Sản từ
nam ra bắc, ông đã kinh qua bao nhiêu dời
đổi, thăng trầm, nhìn rõ được
bộ mặt cuộc đời và lòng người,
đau khổ, hận thù, xót xa, cay đắng.
Định cư tại Hoa Kỳ năm 1990, cầm bút
trở lại, ông tự xác lập ngay cho
mình một đường hướng sáng
tác mới, dùng ngòi bút trực tiếp
đề cập tới những vấn đề xẩy
ra hàng ngày, trước mắt, phê phán
những hiện tượng tiêu cực, minh họa những
xót xa ẩn khuất của đời người
mà ông tế nhận được bằng cảm
xúc tinh vi của một người viết nhập
cuộc. Ông chọn Tạp Ghi là lối viết
thẳng vào sự việc, không hư cấu,
quanh co. Do vậy, có người phê phán
văn phong ông cay đắng, mỉa mai, nhưng đồng
thời cũng nhiều người cho là dí dỏm
và đầy tình nguời. Nói như
nhà văn Phan Nhật Nam, "Huy Phương
đã viết tận chân tình", viết
"vì bổn phận của người được
sống sót." Ký mục gia Bùi Bảo
Trúc, ngòi bút "phiếm" nổi tiếng,
nhận định về ông: "Huy Phương
là người viết Tạp Ghi hay nhất trong
làng báo hải ngoại". Chúng tôi xin
chân thành cảm ơn những ân tình
sâu nặng mà nhà văn Huy Phương
dành cho Sàigòn Times, và sau đây, xin
trân trọng giới thiệu cùng qúy độc
giả bài viết Đi Lấy Chồng Xa của
ông...
*
“Lấy chi trả
thảo cho cha,
Đền ơn
cho mẹ, con ra lấy chồng”
(Ca dao)
Lúc tôi mới
lên ba thì chị đã mười tám tuổi.
Ngày ấy khi cha tôi dạy học ở Bố Trạch,
Quảng Bình thì chị tôi theo chồng về
tỉnh lỵ Đồng Hới, con đường từ
nhà mẹ ra nhà chồng cũng chẳng bao xa.
Tôi nghe nói ngày chị đi lấy chồng,
mẹ tôi khóc nhiều vì chị là con
đầu lòng, mà chị tôi cũng sụt
sùi không kém. Vài năm sau, cha tôi
đổi về quê quán Thừa Thiên cho gần
gũi với bên nội, thì khoảng cách giữa
chị tôi và gia đình xa thêm một khoảng
đường. Năm 1954, đất nước bị
chia cắt, chị tôi và mẹ ở hai miền
Nam Bắc phân ly không hy vọng có ngày
đoàn tụ.
Trong suốt một thời
gian dài, mẹ tôi xót xa coi như mất một
đứa con không bao giờ có thể thấy mặt
lại. Hai mươi mốt năm sau, khi chị tôi về
lại quê nhà thì cha mẹ tôi đã
qua đời. Dù có hạnh phúc với chồng
con đi nữa, suốt cuộc đời, chị
tôi vẫn mang trong lòng một sự ân hận,
là phải đi lấy chồng xa để khuya sớm
không được gần gũi với cha mẹ.
Và mẹ tôi trước khi thở hơi cuối
cùng giã từ cuộc đời vẫn thường
nhắc đến chị tôi, trong lòng còn
thương nhớ khôn nguôi.
Ngày cha tôi từ
giã cõi đời, con cái ông đang ở
mỗi đứa một nơi, đứa cam phận
tù đày, đứa phiêu bạt rời bỏ
quê hương, trong những ngày hiu quạnh cuối
cùng chắc ông buồn lắm. Thế hệ
ngày trước, lớn lên, sống và chết
trong cùng dưới một mái nhà, có lẽ
không ai muốn con thành đạt để đi
xa, mà chỉ muốn con cái quanh quẩn bên cạnh
như đàn gà dưới cánh mình,
dù đôi lúc sức lực cha mẹ
không còn che chở được gì cho
con cái..
Không ai muốn gả
con đi lấy chồng xa, không phải vì
còn nhờ cậy lúc tuổi già “gả
con thì gả chồng gần, có bát canh cần
nó cũng mang cho”, mà chính vì mối
tình cảm quyến luyến giữa mẹ con, gia
đình: “mẹ ơi đừng gả con xa, một
mai cha yếu mẹ già ai trông ?”
Có phải ngày
nay tấm lòng con không phải còn chơn chất,
đơn thuần như ngày trước không,
hay là vì tấm lòng cha mẹ đã
đổi thay. Cái trò chơi háo hức
làm người dự thí để được
trúng tuyển lọt mắt xanh được một
ông chồng Đại Hàn, Tàu Cộng hay
Tàu Quốc rồi bây giờ tới Mã Lai,
Singapore đã trở thành một câu chuyện
“thường ngày ở huyện”, không dở
không hay, không vui mà cũng không buồn.
Nó đã trở thành một nếp sống,
nói theo chữ dùng của bên nhà là
“nếp sống văn hóa”, đương
nhiên phản ảnh con người và tư tưởng
của cái xã hội ấy.
Trong cái xã hội
mới cách đây vài chục năm ngắn
ngủi thôi, cái lễ nghĩa, liêm sỉ khi
trong một gia đình có đứa con gái gọi
là “bị chửa hoang” hay “làm đĩ”
được coi là “bôi tro trát trấu”
lên mặt mày cha mẹ và danh giá gia
đình, thì ngày nay nó lại là chuyện
đương nhiên, nếu việc ấy đem về
cho gia đình một số lợi nhuận, để
cái nhà mình có thể cất lên cao
đẹp hơn những cái nhà khác trong
xóm, và mặt mày cha mẹ cũng hãnh
diện ngẩng cao hơn.
Có nỗi đau
đớn nào hơn:
- “Mẹ cha
ơi hỡi mẹ cha,
Nghèo gần
không gả, giàu xa đem đày !”
- “Mẹ em thấy
của thì ham
Hang hùm cứ
tưởng hang vàng ép con.
Nói ra thẹn
với nước non
Ngậm vào cay
đắng lòng con
đêm ngày !”
Trong truyện Kiều,
vướng nỗi oan ức, “....thằng bán
tơ kia giở giói ra, làm cho bận đến cụ
Viên già” thì nàng Kiều mới
đành phải bán mình chuộc cha. Đời
này chúng ta có hằng chục nghìn
cô Kiều cũng trẻ thơ xinh đẹp, cha mẹ
chưa hề mắc vòng lao lý hay phải hầu
cửa quan, chưa vướng lụy nỗi oan gia,
mà cũng tự nguyện bán mình. Lý do
mà quí cô đưa ra là nghèo
đói làm không đủ ăn, không
có tiền cho cha mẹ trả nợ hay cần sửa
nhà, sửa cửa, mua xe. Xem ra thì những
lý do đó vẫn quanh quẩn chung quanh chuyện
tiền. Trong thời chiến tranh người ta mừng
vì sinh con gái khỏi phải cầm súng ra mặt
trận, ngày nay đông con gái cũng là
điều mang giàu sang lại cho nhiều gia
đình.(!)
Thời chiến tranh,
Thượng Nghị Sĩ Mỹ McGovern khi sang thăm Việt
Nam chỉ mới nói một câu: “Saigon là
một ổ điếm” mà những người
có liêm sỉ đã thấy giận đỏ
mặt. Hôm nay đất nước này coi chuyện
bán thân, làm đĩ là chuyện
bình thường thì chúng ta còn dám
ngẩng mặt lên nhìn ai nữa !
Ngày nay những
người chị của tôi lớn lên trong tuổi
thanh xuân sẽ không có mối tình
duyên đẹp đẽ, hoa mộng nào nữa.
Chị lo trau dồi sắc đẹp, giữ gìn thể
xác và nguyện lòng chẳng hề yêu
ai, để một ngày kia chị sẽ không
còn nỗi vướng bận nào khi chị ra
đi, làm như đời chị sinh ra được
sắp đặt tới một tháng ngày
nào đó, như một món hàng, người
ta xuất cảng chị ra nước ngoài, để
đem về cho chính phủ của chị một
món ngoại tệ, cho cha mẹ một số tiền
trả ơn trả nghĩa phải chăng. Có
hàng nghìn người chị đã bỏ
xóm làng ra đi, chị bỏ cái cuốc cầm
tay, gánh hàng trên vai hay mái chèo nơi
một con đò ven sông, và nhất là chị
phải bỏ những mối ràng buộc yêu
thương, liên hệ gia đình để tới
một nơi xa lạ, lạ những phong cảnh, thế
tục, lạ cả tiếng người. Cũng có
thể những người chị này đã
để lại bao nhiêu mối tình thơ mộng
sau lưng cho những chàng trai đã ngày
nào yêu chị. Rút cuộc, người ta nhận
ra rằng, không còn gì giữ chân chị
lại được, ngoài đồng tiền ra.
Ngày nay không phải
thân phận chị chỉ được rao bán tại
quê nhà mà chị như kiện hàng
được đem ra nước ngoài, để
trên kệ hàng, tủ kính có ánh
đèn màu hấp dẫn, có ghi giá cả
như con cừu trong chợ gia súc hay món thịt
đông lạnh trong cửa hàng thịt. Phải
nói chị sinh ra không gặp thời, chị lớn
lên trong lúc người ta cần những thứ
hàng xuất khẩu. Anh em chị, người sang
đông, kẻ sang tây đổ máu mắt, mồ
hôi mới có miếng ăn, đồng tiền
trả nợ, đồng tiền ơn nghĩa ngay cho những
thế lực đã mang bán các anh em họ
hàng ra đi. Chị cũng như món hàng.
Ngày xưa mẹ có rổ rau, buồng chuối
hay con gà, cặp vịt đem ra chợ bán, để
có đồng tiền mua lại mớ tôm, con
cá, hay may cho chị manh áo mới, mua cái lược, cái
gương soi. Ngày nay, có lẽ không còn
gì hay sao mà cha mẹ lại đành lòng
bán chị đi ? Ngày xưa, nuôi được
con heo nái đẻ con, lúc bán đàn heo
con đi, mẹ cầm xấp bạc trong tay mà thở
dài, bây giờ bán chị đi, lòng mẹ
có buồn nghìn lần hơn thế không ?
Sự biến đổi
đau lòng nhất là những người chị
của tôi có lẽ không biết buồn
dù có “nước non nghìn dặm ra
đi” tới nơi xa xôi. Sống trong thời
đại mới, biết đâu chị còn
hãnh diện hơn đám bạn bè hay lối
xóm xấu xí, vô phước nghìn lần
hơn chị, ngày chị ra đi, họ vẫn
chân lấm tay bùn, bàn chân nứt nẻ
trong nước đồng ruộng hay trên sông rạch
nghèo nàn quê mùa, ngày hai buổi chợ.
Tôi thực sự buồn cho nỗi buồn của chị
thì ít mà buồn cho tấm lòng chai
đá của cha mẹ thì nhiều. Vương
Ông thấy con mà “máu sa ruột
dàu”, còn cha mẹ chị bây giờ
thì nghĩ sao ? Rồi
đây, mỗi chiều cơn nước ròng,
nước dẫy, con thuyền ra chợ còn mang theo
tiếng hát của cô gái nghèo, sinh ra lớn
lên với ruộng đồng, sông rạch,
có ai nhớ tới những người chị
tôi đang ở một phương trời nào
đó, hạnh phúc hay khổ đau, làm
người vợ chung thủy hay làm gái đĩ
cho ngoại nhân. Nhìn lại đất nước
hằng trăm năm qua, kể cả những lúc quằn
quại vì ngoại xâm, đói nghèo tột
độ, chưa lúc nào, nhân phẩm của
những người đàn bà như chị bị
vùi dập như bây giờ, vào cái thời
dân tộc đang có cả "độc lập”
lẫn “hạnh phúc” !
Mai này, chị có thể
là mẹ một bầy con còn bập bẹ
đôi tiếng Việt. Nhưng rồi qua một đời, hai đời,
chị hòa tan vào giòng máu ngoại tộc,
từ miếng ăn thức uống, đến chiếc
áo mảnh khăn, người ta may ra chỉ còn
nhớ tới chị như một người
đàn bà đã lâu lắm, từ một
đất nước nào đó tới
đây, một đất nước rất cần tiền
nên phải bán chị đi.
Chị như cánh lục bình rời xa con rạch
cũ, lỡ trôi giạt ra tới biển Đông
rồi, sẽ không bao giờ có thể trở lại
nhánh sông xưa. Thương chị,
lòng tôi ray rứt, không yên.
HUY PHƯƠNG
(Bai Chuyen)