ĐẠO PHẬT CỦA TÔI
(Hoàng Long Hải)
Tôi đi chùa từ khi c̣n rất nhỏ, 5 hay 6
tuổi. Mỗi năm, cứ dịp Tết
âm lịch, ngày mồng một, cậu tôi (Thân phụ tôi, gọi
là cậu v́ là con khó nuôi) dẫn ba anh em tôi đi chùa. Tôi, người anh kế, hơn tôi hai tuổi và
ông anh cả, hơn tôi sáu tuổi. Chùa
cậu tôi dẫn đi là chùa Phật Lồi ở truông Ái
Tử (Địa điểm trong chiến tranh vừa qua
là căn cứ quân đội Mỹ). Từ thị
xă Quảng Trị, cậu tôi dẫn ba anh em chúng tôi qua
đ̣ ngang trên sông Thạch Hăn, đi ngang qua làng ngoại tôi
là làng Nhan Biều ở bên kia sông. Hết địa
phận làng ngoại, chúng tôi qua cầu Ái Tử, chỗ
phát sinh câu ca dao: "Mẹ thương con ra ngồi
cầu Ái Tử.., " Bên kia
cầu là một băi cát rất rộng, thường
gọi là truông Ái Tử. Truông nầy kéo dài gần tới
Đông Hà mới hết. Xưa, chúa Nguyễn Hoàng, khi vào
Nam cũng đóng đô lần đầu tiên ở đây,
tên cũ gọi là Dinh Cát hay Dinh Cây Khế. Sử cũng
chép năm 1558, khi ông cùng binh lính và bà con từ đằng ngoài
vào tới truông Ái Tử, đường xa, ai cũng khát
nước nên dân chúng đem 7 chum nước ra dâng. Cậu
ông Nguyễn Hoàng là Nguyễn Ư Kỷ đi theo làm quân sư thấy thế bèn nói
rằng: "Nay mới đến trấn mà dân đem
nước dâng, đó là điềm trời cho đó. Nước tức là nước vậy".
Cảm v́ tấm ḷng tốt của dân nên
Nguyễn Hoàng quyết định đóng quân tại
đây.
Ái Tử nguyên là đất châu Rí của
Chiêm Thành. Năm
1306, vua Chiêm là Chế Mân dâng đất hai châu Ô và Rí (C̣n
gọi là Lư) để làm sính lễ cưới Công Chúa
Huyền Trân. Người Chiêm Thành
bỏ đất đi vào phía Nam, giao đất lại
cho người Việt. Người Chiêm, trước
khi theo đạo Hồi, đă từng
theo đạo Phật, cũng lập chùa thờ Phật. Trước
khi bỏ đất đi về phương Nam, họ
đem tượng Phật chôn xuống cát. Tượng
Phật nặng, họ không thể mang theo
mà họ cũng không muốn Phật của họ rơi
vào tay "ngoại bang".
Từ Quảng Trị ra tới Nghệ An, Thanh Hóa là vùng có gió Lào. Mùa hè, gió
Lào từ Trường Sơn thổi ra biển mạnh
lắm, nhiều nơi c̣n làm cho những đỉnh
đồi cát chuyển dịch. V́ gió
mạnh, cát bị thổi bay đi, tượng Phật
chôn ở dưới cát trồi lên. Người
Việt cũng theo đạo Phật, thấy
vậy bèn lấy lên, dựng chùa thờ Phật. Một
cách nôm na, Sắc Tứ Tịnh Quang là tên chữ - chùa
được sắc phong của vua - chùa mang tên Phật
Lồi là vậy.
Bao giờ cậu tôi cũng dắt ba anh
em chúng tôi đi chùa Phật Lồi, và cũng chỉ đi
chùa Phật Lồi mà thôi.
Hồi ấy, ngày Tết, đi chùa chúng tôi phải
mặc áo quần Tết. Áo quần Tết của anh em
chúng tôi là áo đen dài, quần cháo ḷng, v́ mới nên cũng
c̣n trắng, nón cối trắng, loại làm bằng cây
điên điển, dày, nhẹ chứ không mỏng mà
nặng như "nón cối" ngày nay. Thường
chúng tôi được cậu mua cho nón cối mới.
Khi khó khăn th́ nón cũ được dùng lại, sau khi
đánh phấn trắng Ever-Blanc bằng bàn chải đánh
răng cũ.
Tôi ít khi vào chùa. Tới sân, thấy
tượng hai ông Thiện, ông Ác ngoài hiên chùa là tôi sợ
lắm rồi. Ông Ác mặt xanh, tay
cầm thanh long đao, chém bay đầu người ta
như chơi nên tôi chỉ dám đứng xa mà nh́n. Ông Thiện hiền hơn, nhưng chỉ nh́n cái
mặt đỏ gay của ông cũng đủ sợ.
Trong khi cậu tôi đang làm lễ trong chùa hay uống trà, nói
chuyện với sư cụ, (thường gọi một
cách thân mật là ôông, các sư trẻ hơn th́ gọi là
thầy - c̣n trẻ như anh em chúng tôi th́ gọi là chú
tiểu hay chú điệu) th́ anh em tôi ra phía hông chùa, phía
đó có những đồi cát trắng. Chúng tôi leo lên đỉnh đồi rồi nằm
xuống sườn đồi lăn tṛn cho tới khi
xuống tới chân đồi không lăn được
nữa mới thôi. Dĩ nhiên, chân tay
mặt mũi tóc tai vướng đầy cát trắng. Khi cậu tôi gọi chúng tôi vào chùa để chào
sư cụ ra về, chúng tôi vừa chạy vào chùa vừa
phủi cát trắng c̣n bám đầy người. Đứng
trước sư cụ, tôi vừa thở vừa phủi
cát c̣n bám trên mắt, trên má, tai, vừa
cúi đầu ṿng tay chào. Bao giờ sư cụ cũng
mỉm cười, vuốt má và nói những lời rất
ân cần nhẹ nhàng trong khi cậu tôi
th́ rầy la v́ chuyện nghịch trên đồi cát. Bao giờ sư cụ cũng cho tôi một cái bánh,
cái kẹo ǵ đó để ăn.
Đạo Phật của tôi, ngay từ khi thơ
ấu chính là h́nh ảnh sư cụ, hoặc các ông "thầy
chùa hiền từ" chẳng rầy la chúng tôi bao giờ,
mặc dù chúng tôi vẫn thường vào chùa hái bông hay
nghịch phá. Năm 1948, khi gia đ́nh tôi, sau
ba năm chạy tản cư trở lại thành phố th́
tôi được đi học lại. Lớp
học của tôi bấy giờ là lớp Ba, nằm ở
nửa trong căn nhà trai của chùa Tỉnh Hội. Nửa ngoài là lớp Nhất. Trường cũ
đă bị Tây chiếm làm doanh trại. Khác với
trước năm 1945, nhà tôi bây giờ gần chùa hơn, nên
mỗi sáng, mỗi tối, chúng tôi nghe tiếng chuông chùa rơ
hơn. Tôi có 8 anh chị em, ngoại trừ ba
người lớn tuổi, c̣n lại năm đứa, mẹ
tôi cho đi học lại. Bấy giờ cậu tôi
đă qua đời, mẹ tôi vừa lo làm nuôi con vừa
chăm sóc việc học hành của chúng tôi. Nhà
không có đồng hồ, không có điện. Mỗi
tối, khi chuông bên chùa dóng dă công phu kêu boong boong là mẹ tôi
gọi: "Học bài bây !" Thế
là bốn anh em chúng tôi, - ngoại trừ Hùng Món - đang
học lớp năm, lớp thấp nhất hồi
ấy - ngồi quanh cái bàn giữa nhà, thắp ngọn
đèn bát lên - Một loại đèn dầu hỏa - dầu
hôi Hoa Kỳ - và ê-a học bài. Khi thuộc th́ đứa
lớn ḍ bài cho đứa nhỏ. Sau khi
trả lời với mẹ "Con thuộc bài rồi"
mới được đi ngủ. Mẹ tôi
ngồi trên cái rương xe bên cạnh,
theo dơi việc học bài của chúng tôi. Mỗi sáng, dù
đang giữa mùa đông lạnh giá, khi chuông bên chùa công phu
buổi sáng, mẹ tôi lại gọi "Dậy học bài"
là chúng tôi thức dậy, ôn bài một lần nữa. Dù lạnh, dù bị muỗi cắn, dù buồn
ngủ, thời khóa biểu ấy suốt trong niên học
bao giờ cũng thực hành một cách nghiêm chỉnh, đều
đặn. Dĩ nhiên, chúng tôi học
giỏi, ít nhất là bao giờ cũng thuộc bài. Tiếng
chuông chùa mỗi sáng mỗi tối dóng lên như thế
đă ăn sâu vào tâm tư tôi tự bao
giờ. Đó cũng là một cách tôi đến với
đạo Phật của tôi vậy !
Ngày nghỉ chúng tôi qua chùa chơi, xem thầy Bật
trồng bông hay chuyện tṛ cùng chú Sung, lúc ấy khoảng
gần 20 tuổi - sau nầy ông là thượng tọa
Thích Chánh Trực trước khi viên tịch - Thầy
Bật hay chú Sung bao giờ cũng là người hiền
ḥa, vui vẻ, nhất là chú Sung rất gần gũi
với chúng tôi. Hoàng Hữu Chỉ, học trước tôi
một lớp mà cũng là hàng xóm, người đỗ
đầu kỳ thi tiểu học năm 1950 ở
Quảng Trị, có tài làm thơ từ nhỏ, sau nầy
lấy hiệu là Cuồng Vũ, cũng thường sang
chùa chơi như chúng tôi. Một hôm Hoàng Hữu Chỉ
đọc cho chúng tôi nghe mấy câu thơ do anh sáng tác để
chọc chú Sung chơi:
Con chi trong bụi
mới bay ra
Chích vào đầu
trọc đau quá ta !
Đó là con ong chứ con
chi ?! Không biết chuyện có thật hay Hoàng Hữu
Chỉ bày ra để đùa.
Đó là trong đời
thực, c̣n trong văn chương th́ biết bao nhiêu h́nh
ảnh những ông thầy chùa, những sư cụ
hiền ḥa uyên bác văn chương thi phú, bao nhiêu h́nh
ảnh đẹp về một giới tu hành có từ ngàn
năm ở đất nước ta - Dĩ nhiên đôi khi
cũng có những ông thầy chùa bậy bạ nhưng
chúng tôi bỏ qua rất dễ dàng - mà chúng ta có thể
đọc trong "Hồn Bướm Mơ Tiên"
của Khái Hưng hay trong "Vang Bóng Một Thời"
của Nguyễn Tuân và rất thương yêu kính trọng
những ông thầy chùa biết tham gia chống Pháp xâm
lược như những nhà tu hành trong tiểu thuyết "Bộ
Áo Cà-Sa Nhuốm Máu" của Nguyễn Bảo Hóa, v.v hay
trong những tác phẩm trong "Tủ Sách Bạn Trẻ"
của nhà xuất bản Tân Việt đă củng cố, xây
dựng trong tâm hồn tôi về một đạo Phật
hiền ḥa, về một đạo Phật biết đau
với cái đau của một dân tộc mất quyền
tự chủ.
Hơn thế nữa, tục
ngữ, mà tôi nghe mẹ tôi thường dùng để
dạy con, ca dao mà tôi thường nghe qua những câu ḥ câu
hát, những câu chuyện cổ tích tôi cũng
được nghe nhiều người kể hay tôi
được học ở trường, đọc trong
sách vở, đă vẽ ra trong tôi một ông Phật
hiền từ, thường xuất hiện cứu giúp
người lâm nạn, v.v Phật của tôi, qua những
điều tôi mô tả ở trên là những cái ǵ rất
Việt Nam, hoàn toàn xa lạ với ông Phật Ấn
Độ khi tôi thấy lần đầu tiên ở trên
chánh điện chùa Tỉnh Hội.
Vào chùa lần đầu
tiên, thấy ông Phật Thích Ca, mặc áo hở vai, tóc
quăn, tôi không nghĩ rằng đó là Phật của tôi, nhất
là khi so sánh với những h́nh ảnh sư cụ, ôông, đă
in đậm vào tâm hồn tôi từ khi tôi c̣n thơ ấu.
Như thế, trong tôi có hai thứ đạo Phật khác
nhau; một đạo Phật với những triết lư
cao siêu của những người trịnh trọng đi
chùa, nói cái ǵ cũng dẫn chứng bằng lời
Phật dạy, coi cuộc đời nầy là sắc
không, bằng thiên kinh vạn quyển sách Phật. Đạo
Phật của tôi một thứ đạo Phật b́nh dân,
đơn giản, b́nh dị, mà tôi hấp thụ
được qua ca dao, tục ngữ, chuyện cổ
tích, bằng lời mẹ dạy, từ ông bà, bà con xóm làng
khuyên bảo, qua cuộc sống b́nh thường hằng
ngày của sư cụ, của "ôông", của dân
tộc.
Đạo Phật
cấm tôi làm điều ác. Điều cấm ấy, ngay
khi c̣n thơ ấu, tôi không được dạy dỗ
ở chùa, ở kinh sách đạo Phật mà ngay chính bà
nội tôi. Trẻ con, tôi cũng như bao đứa
trẻ khác, ưa nuôi chim. Trước nhà tôi có một cây
ngô đồng (thường gọi là vông đồng). Cậu
tôi sai anh Trà, cai trường, chặt ngang đọt, v́
vông đồng gỗ xốp, dễ găy khi có gió băo. Từ
chỗ chặt ngang đọt ấy, nhiều nhánh mọc
lên. Một trong các nhánh, có một tổ chim. Tôi không rơ chim
ǵ, h́nh dáng con chim mẹ c̣n nhỏ thua con chim sẻ. Tôi
muốn bắt trọn tổ chim, cả con lẫn mẹ.
Chờ khi có tiếng chim non kêu, chim mẹ hằng ngày
đi kiếm mồi, buổi chiều, tôi bèn lấy
một cái thang tre, dựng sẵn bên gốc cây. Chờ
trời tối, chim mẹ về ấp con ngủ, tôi leo
lên thang để hốt trọn. Không ngờ cái thang
bị trật chỗ tựa, hơi nghiêng. Cái trật
đó gây nên một tiếng động nhỏ, chim mẹ
bỏ tổ bay vào bụi tre la ngà bên cạnh. Mấy ngày
sau chim mẹ không về, - có lẽ bị chuột bắt
mất rồi, các chim non kêu la thảm thiết, tôi bèn leo
lên thang, đem hết chim non về. Có tất cả ba con. Ngày
ngày, tôi ra băi cỏ đá bóng phía sau trường tiểu
học bắt châu chấu về cho chim ăn. Trước
khi cho ăn, tôi bẻ đầu, bẻ càng những con châu
chấu. Thấy vậy, bà nội tôi rầy. Con chim bay trên
trời, bắt bỏ vào lồng là làm điều ác. Bắt
châu chấu bẻ đầu, bẻ càng, lại càng ác
hơn.
Từ đó, lớn lên, tôi
nghĩ làm những điều ǵ trái với tự nhiên là
điều ác. Làm cho người khác đau đớn là ác,
làm cho người khác khốn khổ là ác. Đánh
đập đâm chém người khác là ác. Ganh ghét, đố
kỵ, hận thù người khác là điều ác. Thậm
chí không biết thương loài vật cũng là
điều ác. Câu chuyện ông già với con ḅ kéo xe lên
một cái giốc cao, thấy ḅ khó khăn mệt nhọc,
ông già xuống xe phụ đẩy với ḅ trong sách
Quốc Văn giáo Khoa Thư dạy cho chúng ta biết
thương loài vật là biết tránh điều ác. Gia
Huấn Ca là bài các anh chị tôi học hồi đó, nghe
riết tôi cũng nhớ đôi câu dạy chúng ta không làm
điều ác, mà phải làm điều thiện:
Thấy
người hoạn nạn th́ thương,
Thấy
người tàn tật lại càng trông nom
Thấy
người già yếu ốm ṃn
Thuốc thang
cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ
kẻ có nhân
Người mà có
đức muôn phần vinh hoa.
Tôi nhớ những
năm đầu chạy tản cư 1946-47, người
nhà quê tốt bụng lắm. Câu họ thường nói là "Chật
bụng chớ chật chi nhà." Họ chia nhà cho
người tản cư ở, hoặc dọn xuống
ở nhà dưới nhường nhà trên cho người
tản cư ở. Chỉ mấy năm sau, điều
đó không c̣n, v́ hận thù giai cấp, hận thù giàu nghèo, hận
thù sang hèn, hận thù người thành phố người
nhà quê đă được Việt Minh khơi dậy, khuyến
khích, xúi dục Và t́nh người biến thành thù ghét.
Gia đ́nh, cha mẹ ông
bà, xóm làng dạy trẻ em phải biết thương
người nghèo khổ, giúp đỡ họ. Ông ngoại
các con tôi là một người sinh vào những năm
đầu thế kỷ 20, biết chữ Nho nhiều
hơn chữ Quốc ngữ, không bị ảnh
hưởng "nếp sống văn minh", "tư
tưởng tiến bộ", nên mỗi chiều hè, khi
cả nhà ngồi ăn cơm ở căn nhà mát
trước nhà, lỡ khi có người ăn mày
đến xin ăn, ông lặng lẽ bỏ chém cơm
xuống. Chờ khi các chị của vợ tôi đem cho
người ăn mày cái ǵ đó, người ăn mày
rời đi th́ ông lại cầm chén cơm lên. Có phải
ông không nuốt được cơm khi trước
mắt ông có người nghèo khổ. Cái h́nh ảnh đó
của ông ngoại các con tôi, ngày nay không c̣n nữa, không t́m
lại được nữa !
Giúp người hoạn
nạn là điều lương tâm bắt buộc. Tôi
từng nghe mẹ tôi đọc câu ca dao:
Dù xây chín bậc phù
đồ
Không bằng làm phúc
cứu cho một người.
Không phải người
ta chống lại việc xây chùa. Xây chùa là việc làm công
đức. Vua chúa quan quyền xây chùa, người giàu có
xây chùa, người thoát khỏi hiểm nguy xây chùa
để tạ ơn. Họ muốn tỏ bày công
đức, nhưng theo Phật, có một việc cao quí
hơn cả việc xây chùa. Đó là bố thí. Bố thí là giúp
người, cứu người, nhất là những
người đang cơn hoạn nạn, thiên tai, hỏa
hoạn, hay người nghèo khổ, khốn cùng
Không làm điều ác là
tránh sát sinh. Bắt châu chấu bẻ đầu bẻ càng
như tôi làm khi c̣n thơ ấu là sát sinh nên tôi bị bà
nội rầy. Các chị tôi đi chợ mưa thịt gà
thịt heo bán sẵn ở chợ. Các chị không thể
cầm dao cắt tiết con gà. Khi cần lắm, họ
nhờ đàn ông. Ngay chính đàn ông có người cũng
không muốn sát sinh. Sau nầy lớn lên tôi mới biết
ăn chay là để diệt dục, nhưng khi thơ
ấu, những ngày rằm mồng một nhà tôi ăn chay
là để tránh sát sinh, không những cho ḿnh, mà c̣n cho
người khác. Ḿnh không mua th́ người khác không
giết thịt. Từ thơ ấu, tôi hiểu lờ
mờ như thế.
Đạo Phật
cũng dạy tôi phải có hiếu với cha mẹ. Mỗi
khi anh chị tôi có điều ǵ lầm lỗi với
mẹ, với bà con trong khi anh tôi là người đi chùa
rất chăm, mẹ tôi thường nhắc nhở con
cái bằng câu ca dao:
Tu đâu chẳng
bằng tu nhà,
Thờ cha kính
mẹ bằng ba tu chùa.
Người ta không báng
bổ chê bai việc vào chùa tu. Vào chùa tu là hành động
người ta thường làm. Nhưng có một việc
quan trọng hơn việc vào chùa, đó là thờ kính cha
mẹ. Đó là hiếu. Đạo Phật cũng dạy
người ta phải trọn chữ hiếu. Điển
h́nh là sự tích Mục Kiền Liên mà nhiều người
Việt Nam đă biết.
Người đi tu
cũng có mẹ. Điều tu trước tiên của
người tu hành là phải có hiếu với mẹ. Đời
sống dân thường chứng minh điều đó và
lịch sử Việt Nam cũng chứng minh vua quan
cũng phải làm điều đó.
Đạo Phật
dạy ta tu, tu là bỏ tính xấu, tập tính tốt, không
khoe khoang và hăy tự sống bằng sức ḿnh, không bóc
lột người khác, không ngồi mát ăn bát vàng. Mẹ
tôi thường tỏ vẻ khó chịu khi thấy
những bà cho vay ăn lăi nặng đi chùa. Các chùa không giàu.
Các chùa không có ruộng để cho tá canh, không có nhà
đất để cho thuê mướn. Chùa không làm công
việc cho vay. Các sư, các chú tiểu, các bà vải
phải làm ruộng để có gạo ăn, phải
tự trồng đậu nành để có tương chao,
không ai giàu v́ giàu không phải là chân tu, giàu là điều
không hay, chưa nói có khi giàu là v́ có ḷng tham lam. Tham lam, độc
ác là hai cái tính xấu mà người ta phải tu tâm
để từ bỏ.
Tôi học đạo
Phật từ những người b́nh dân, như mẹ
tôi, d́ cậu chú các o (cô) mợ tôi, từ xóm làng tôi, từ
trong ca dao, tục ngữ, từ trong truyện cổ tích
của người Việt. V́ vậy đạo Phật
tôi theo không có ǵ cao siêu khó hiểu.
Tôi yêu cái đạo
Phật b́nh dân ấy hơn hết. V́ sao ?
Bởi v́ trước
hết là cái hiền, hài ḥa, b́nh dị của cuộc
sống hằng ngày quanh tôi. Cái hiền từ ấy đă
thấm sâu vào ḷng tôi khi tôi c̣n thơ ấu, lớn lên cùng
tâm hồn và tuổi tác của tôi, luôn luôn ở bên tôi, trong
ḷng tôi, trong tâm hồn tôi khi tôi đi học, đi dạy
và cả trong đời lính, khi tôi phải xông pha ở
chiến trường. Tôi cầm súng bắn về phía
kẻ thù không phải do ḷng thù hận mà chỉ là v́
muốn bảo vệ sự sống của tôi, của
đồng bào tôi.
Người Cộng
Sản không bao giờ chấp nhận đạo Phật
của tôi v́ đạo ấy không giúp họ mạnh tay
đấu tố, giết hại kẻ thù. Đạo
Phật của tôi không thể được thực dân
Pháp cũng như những người theo Pháp dung tha, thừa
nhận v́ đạo đó ở trong dân tộc mà dân
tộc Việt Nam th́ đang bị đàn áp, xâm lăng, bắt
trói buộc vào ṿng nô lệ.
Tôi mừng cho đạo
Phật và dân tộc của tôi v́ đạo ấy đă
không đưa dân tộc tôi vào những cuộc chém
giết như các cuộc chiến tranh Thập Tự Chinh
bên Địa Trung Hải, không dạy cho dân tộc
Việt sự cuồng tín để anh em giết nhau
như ở Trung Đông bấy lâu nay.
Ông Trời là tạo hóa
sinh ra muôn loài muôn vật, bảo tồn ǵn giữ công lư
để có trời người ta mới ở với
nhau được, bởi v́ "Không trời ai ở
với ai". Trong khi đó, đạo Phật là đạo
cứu giúp con người. Ông bụt là kẻ "Cứu
nạn cứu khổ". Ông sẽ hiện ra với chúng
ta như khi con Tấm ngồi khóc ở trong truyện
Tấm Cám hay trong truyện Cây Tre Trăm Mắt vậy.
HOÀNG LONG HẢI
(Bai Chuyen)