Chuyện phiếm của Trà Lũ
THÂN TÂM AN LẠC
Làng tôi mới ăn tất niên
dương lịch. Không có gì đặc biệt
về bữa ăn, vẫn chỉ canh chua cá kho tộ
và rau muống xào thịt bò, nhưng lại
có cái đặc biệt về hai nhân sự
mới. Từ ngày hai mệ Huế Tôn Nữ
và Cao Xuân có mặt thì cái không
khí làng hình như trẻ trung ra. Làng
tôi đã sinh hoạt hơn hai chục năm
nên bao nhiêu chuyện cười cũ mới ai cũng
thuộc lòng, thế nhưng hai người đẹp
Huế chưa được nghe chưa được biết
thì vẫn còn thèm khát. Hai nàng
tìm hiểu nhiều thứ lắm.
Họ thấy ông ODP bồ chữ của
làng thông thái khác thường thì
đoán ngày xưa ông phải là thần
đồng và đòi nghe chuyện thần đồng.
Tôi ghé vào tai ông nói nhỏ : Bạn
nói đi cho vui cả làng, cứ thêm mắm
thêm muối, thêm tiếng cười và
thêm cái tếu vào, có ai đánh thuế
đâu mà sợ. Ông cho là cao kiến,
bèn mở lời : Người Pháp có
câu ‘ Cái tôi đáng ghét’.
Đáng lẽ tôi giữ chuyện sau đây
trong lòng, nhưng vì cả làng ép
tôi quá, vậy tôi xin thành thực khai
báo như sau : Ngày xưa tôi cũng nghĩ
tôi là thần đồng. Chuyện bắt đầu
từ cuộc thi Việt văn dành cho các em thiếu
nhi trong tỉnh nhân dịp Tết Trung thu.
Lúc đó, tôi hăm hở đi thi
và đầy lạc quan vì tôi là thần
đồng mà.
Đề thi như thế này : Em hãy đọc
kỹ câu chuyện dưới đây và cho biết
chuyện này có ý khuyên ta điều
gì, và tìm một câu tục ngữ hay ca
dao thích hợp với lời khuyên đó.
Đoạn văn trích từ sách Cổ Học
Tinh Hoa kể việc Ông Dương Phủ tầm
sư học đạo :
Ông Dương Phủ rất hiếu thảo với
cha mẹ, nhưng một hôm nghe tin đất Thục
có Võ Tề là bậc đại sư rất
đông môn đệ, Dương Phủ bèn bỏ
cha mẹ mà lên đường tầm sư học
đạo. Đi được nửa đường
thì Dương Phủ gặp một lão tăng.
Lão tăng bảo ông rằng : gặp được
Võ Tề cũng chẳng bằng gặp được
Phật. Dương Phủ bèn hỏi Phật ở
đâu, lão tăng trả lời : nhà
ngươi cứ quay về, hễ gặp ai mặc
cái áo có sắc thế này và đi
đôi dép kiểu này thì đó
chính là Phật. Ông nghe lời lão
tăng và quay trở về, trong lòng rất mong
được gặp Phật. Suốt dọc đường
ông không hề gặp ai có hình dáng
như lão tăng đã chỉ. Khi về tới
nhà thì trời đã tối, đêm
đã khuya. Ông bèn lên tiếng gọi cửa.
Mẹ ông còn thức, nghe tiếng ông gọi
thì mừng quá, bèn khoác vội chiếc
áo mền và loạng quạng xỏ ngược
đôi dép rồi cầm đèn ra mở cửa.
Dương Phủ trông thấy mẹ lúc
đó đúng là hình dáng Phật
mà lão tăng đã tả.
Chuyện chỉ có thế. Tôi đọc
đi đọc lại câu chuyện cả chục lần
và suy nghĩ cả chục phút, rồi trịnh
trọng viết câu trả lời như sau : Bài
này có ý khuyên ta không nên đi
chơi tối. Câu tục ngữ thích hợp
là : Đi đêm có ngày gặp ma.
Tôi lên nộp bài thi và ra về,
lòng thơ thới hân hoan vô cùng. Phen
này dứt khoát tôi trúng giải nhất.
Tôi là thần đồng cơ mà. Mẹ
tôi đón tôi ở cổng trương thi.
Tôi đem bài nháp ra khoe và xin mẹ
đoán xem tôi sẽ được bao nhiêu
điểm. Hồi đó ở Việt Nam không
có kiểu cho điểm ABCD như ở Bắc Mỹ
này, mà cho tối cao điểm là 20. Tôi
nghĩ trong bụng ít nhất tôi cũng
được 18 điểm. Mẹ tôi đọc xong
bài của tôi rồi cười như mếu :
‘Mẹ chả thấy con có điểm nào cả’
! Tôi buồn trong lòng vì nghĩ rằng mẹ
không biết tôi là thần đồng.
Ngày công bố kết quả, tôi không
trúng giải mà thằng Giáp bên hàng
xóm trúng. Bài của nó được
đăng trên báo. Câu trả lời của
nó hoàn toàn khác câu trả lời của
tôi. Nó trả lời thế này : Truyện
ông Dương Phủ có ý khuyên ta : Cha mẹ
ở nhà chính là Phật, ta chẳng cần
đi mộ Phật đâu xa. Câu ca dao hợp với
bài này là :
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là
chân tu.
Đây là tiếng sét làm tôi hốt
nhiên tỉnh ngộ: tôi không phải là thần
đồng, mà là một tên dốt đặc.
Ngay từ đó, biết thân phận dốt
nát, tôi đã quyết chí học
hành. Từ tiểu học, qua trung học, lên
đại học và hậu đại học,
lúc nào tôi cũng quyết chí.
Rồi tôi bước chân vào đời
cùng với những thăng trầm của đất
nước : đi lính. Đúng là đi,
tôi đã đi khắp các vùng chiến
thuật. Rồi phải buông súng. Rồi bị cầm
tù.
Trong tù, đọc thơ Mai Thảo, tôi thấy
mình ở trong thơ :
Tổ quốc bất khả phân,
đã phân
Đất nước mấy ngàn
đời không thể mất, chỉ một ngày
đã mất
Lịch sử triệu trang vàng, một
trang đen đã lật,
Trăm trận đánh không thua,
thua vì trận Ban Mê Thuột...
Ra tù, tôi chôn dầu vươt biển.
Rồi trại tỵ nạn. Tôi ở cùng trại
với gia đình Cụ Chánh đây. Rồi
tôi và gia đình Cụ Chánh được
một nhà thờ Công Giáo Canada bảo trợ.
Chúng tôi cùng đi một chuyến bay, từ
hoả ngục hoang đảo bay tuốt lên thiên
đàng Canada. Ngày tới Canada là ngày
áp lễ Giáng Sinh năm 1981.
Ra đón chúng tôi tại phi trường
Toronto có cha sở Paolo và hội đồng
giáo xứ. Sao khi bắt tay và chào mừng,
Cha Paolo đã nói với cụ Chánh như thế
này : Qua hồ sơ di trú, chúng tôi
được biết rằng Cụ và gia
đình không cùng một tôn giáo với
chúng tôi, vậy chúng tôi xin nói ngay từ
bây giờ là nhà thờ chúng tôi
đứng ra bảo trợ cụ và gia đình
vì chúng tôi tin vào lời Chúa dạy
: tất cả chúng ta là anh em với nhau.
Chúng tôi không hề có ý định
dùng sự bảo trợ này để chinh phục
Cụ và gia đình theo đạo Chúa
như chúng tôi.
Cụ Chánh nghe xong tự nhiên nước mắt
chảy ra ròng ròng. Cụ cầm tay Cha sở
Paolo mà hôn. Cụ nói không nên lời.
Từ hôm đó đến nay, đã mấy
chục năm, cụ Chánh vẫn coi Cha Paolo là
đại ân nhân và là người bạn
thân của gia đình.
Rồi chúng tôi được thu xếp
có chỗ ăn chỗ ở. Cụ Chánh thì
đi học Anh văn, còn tôi vì biết
võ vẽ tiếng Anh nên đi tìm việc.
Người giúp tôi tìm việc là
ông Peterson. Hồi thập niên 1980’s, kiếm việc
thật là khó. Phải mất hai tuần lễ
tôi mới xin được cái job rửa
chén ở nhà hàng. Mà việc rửa
chén không có dễ dàng đâu nha. Họ
rửa bằng máy, loại máy tối tân. Bấm
cái này thì nước xả mạnh, bấm
cái kia thì nước xả nhẹ. Bấm
nút này thì nhiều xà phòng. Bấm
cái này thì nhiều nước nóng. Cũng
chưa hết. Phải nhớ chén đĩa xếp
vào những ngăn những kệ nào...
Ông Peterson tỏ vẻ thương hại
tôi lắm nên cứ lâu lâu đến
thăm và rủ tôi đi chơi. Khi thì
đi xinê, khi thì đi xem dã cầu, khi
thì đi nhậu McDonald. Cuối năm đó, cũng
vào cỡ này ông đến rủ tôi
đi xem Santa Claus Parade, rước cụ già Noel
vào thành phố để mở đầu
mùa Giáng sinh. Ông bảo tôi : Đây
là một nét văn hoá Canada đặc thù, bạn
phải xem cho biết. Ông chở tôi xuống phố.
Phố đông nghẹt người, đúng
là lễ hội văn hóa Canada. Tìm mãi
mới có chỗ đứng. Ông Peterson
đã chuẩn bị từ trước, từ trong
xe ông đem ra 2 cái ghế gấp, 2 tấm
chăn len, 2 ổ bánh mì Big Mac, 2 lon Coke. Ông
cười hi hi : Cuộc rước này kéo
dài 3 giờ, vì có tới 60 xe hoa, 20 ban nhạc
kèn đồng, nhiều đoàn ca múa, bạn
và tôi không thể đứng mãi
được. Sẽ mỏi chân, sẽ đói,
sẽ lạnh. Ta đứng lên ghế để xem
cho rõ, rồi ta ngồi xuống, vừa phủ
chăn ấm lên người, vừa nhậu bánh
mì McDonald, vừa tu lon Coke, bạn sẽ thấy
sướng vô cùng. Tôi nhìn quanh thì
đa số ai cũng vậy. Nhiều gia đình Canada, cả
ông bà cả cha mẹ, cả con cái cùng
đi coi lễ hội truyền thống này.
Mặt mũi những người đứng xem ai
cũng phớn phở vô cùng, nhất là
các đấng nhi đồng. Ông Peterson vỗ vai
tôi rồi giới thiệu các xe hoa. Ông tưởng
tôi cũng sung sướng như ông, nhưng khi thấy
mặt tôi ngơ ngác như người mất hồn,
ông chợt hiểu. Ông này thông minh
và tế nhị lắm. Ông biết ngay tôi
đang nhớ quê hương, đang nhớ cha mẹ
anh em còn kẹt ở VN, đang nhớ gác
chuông nhà thờ, đang nhớ phần mộ tổ
tiên... ông bèn thôi không nói nữa.
Trên đường về, ông mua pizza. Các cụ
biết dân Canada
nhậu pizza với gì không ? Thưa, họ nhậu
pizza với lave.
Khi thấy tôi vui trở lại thì ông
Peterson hỏi : Tiếng Việt gọi XMAS là gì
? Cái máu tếu trong người tôi nó
bùng lên. Nhớ lời ông Trà Lũ khi
xưa, tôi bèn trả lời ngon ơ : Tiếng
Xmas gốc của nó không phải là tiếng
Anh đâu, mà Xmas là tiếng Việt đấy.
Người Anh người Mỹ thấy lời tiếng
Việt ý nghĩa thâm trầm quá bèn
mượn luôn lời đó đem xài cho tiếng
Anh. Ông Peterson lần đầu tiên nghe sự lạ
thì ngạc nhiên quá sức. Ông xin tôi
nói rõ thêm. Tôi bèn thưa : Gốc tiếng
này ở trong Thánh Kinh. Rằng cách
đây 2 ngàn năm, thế giới chìm đắm
trong bóng tối lầm lạc nên Chúa
Giêsu giáng trần để mang ánh sáng
cho nhân loại. Nhiều người đã
đón nhận ánh sáng cứu rỗi
này. Tổ tiên VN của chúng tôi
đã hiểu như vậy nên đã cô
đọng ý nghĩa ngày lễ vào 4 tiếng
‘Xin Mừng Ánh Sáng’. Bốn chữ
này viết tắt thành XMAS.
Ông Peterson tròn xoe đôi mắt kinh ngạc
vì lần đầu tiên nghe sự lạ. Ông
này cũng tếu như tôi. Ông ta ôm chầm
lấy tôi rồi vừa cười vừa nói :
Xin bái phục ! Xin bái phục ! Tôi yêu bạn
quá !
Nói đến đây xong, ông ODP
tuyên bố xin hết phần thuyết trình về
thân thế sự nghiệp.
Cả làng vỗ tay và cười râm
ran. Sung sướng và khoái chí nhất
có lẽ là hai cô Tôn Nữ và Cao
Xuân. Hai cô vừa cười hích hích vừa
đấm nhau thùm thụp.
Thấy thiên hạ thích chí quá
như vậy, ông ODP được hứng,
đã tuyên bố chấm dứt mà lại
nói tiếp : Đó là tôi mới chỉ
nói sơ sơ về cái vĩ đại của
tiếng Việt mà ông Peterson đã thích
quá làm vậy. Giá lúc đó mà
tôi có tài liệu về việc người
LaMã thuở xưa đãmang tàu sang VN mua nuớc
mắm thì không biết ông Peterson còn
thích đến đâu.
Thấy ai cũng tỏ ra ngơ ngác, ông ODP
quay ra hỏi cả làng : Uở, các bạn
chưa nghe nói về sự kiện người
LaMã ngày xưa đã sang VN mua nước mắm
sao ? Cả làng im hết, chỉ anh John là biết.
Anh trả lời : Tôi có đọc trên
Internet bài của Daniel Woolls thuộc Thông tấn
Associated Press ngày 14.11.2006 vừa qua. Tác giả
nói về cuộc khai quật rất tình cờ ở
miền biển đông nước Tây Ban Nha vào
tháng Bảy vừa qua. Trong thân con tàu bị
chìm dưới biển cách đây 2000 năm
người ta tìm thấy những cái hũ
sành có 2 quai, trong đựng nước mắm
cá. Theo các nhà khảo cổ và nhân
chủng học thì nước mắm nhập cảng
từ phương đông là một gia vị
mà giới quý tộc La Mã ngày xưa rất
mê. Mà các bạn biết không, người
Tàu người Nhật không ăn mắm làm
từ con cá, họ ăn mắm làm từ hạt
đậu nành. Chỉ có người VN mình
ăn mắm chế biến từ con cá, nha. Ha ha ha.
Cụ B.95 nghe đến đây thì thốt
lên : Mô Phật, vậy chứ cách đây
hai ngàn năm người La Mã đã sang tận
VN mua nước mắm rồi chở về La mã sao
?
Anh John trả lời : Rất có thể như
thế, cụ ạ. Hiện người ta đang
nghiên cứu tiếp về những hũ đựng
mắm. Rõ ràng tổ tiên VN đã đựng
nước mắm trong hũ sành mà.
Rồi ông ODP dứt khoát xin hết phần
khai báo lý lịch của mình ở
đây.
Như chưa đã cơn tò mò về
các vĩ nhân của làng, hai cô Huế
hướng về tôi và hỏi tôi hay viết
về các chuyện cười thì cái gốc
cười của tôi phát xuất do đâu
và từ bao giờ. Ui cha, thế này thì
hoá ra hôm nay ông ODP và tôi bị khảo
bài sao ?
Thấy tôi ngần ngại thì Cụ
Chánh tiên chỉ làng cổ võ : Ông
rán một tí đi cho cả làng vui, nhất
là cho hai cô Huế hội viên mới của
chúng ta. Rồi cụ cười khà khà :
Tôi nghe bà cụ ông kể rằng ngày
sinh ông ra thì ông cười ngay chứ
không khóc oe oe như các hài nhi khác
mà. Ông là con cháu Đức Phật Di Lặc
mà. Cụ Chánh đang bỏ mắm bỏ muối
vào đời tôi để nói khích
tôi đấy, các cụ ạ. Tôi bèn tặc
lưỡi rồi vào đề.
Tôi khai rằng tôi không có trí nhớ
tốt như ông ODP, nên không nhớ nhiều về
tuổi thơ. Tôi xin kể về chuyện được
gặp mấy tổ sư dạy tôi cười. Số
là cách đây ít lâu tôi đi dự
một bữa tiệc tất niên. Trong bàn
toàn các cụ trọng tuổi. Cụ nào cũng
than về bệnh của mình. Nào là cao
máu, nào là tiểu đường, nào
là máu nhiều mỡ. Một cụ đầu bạc
phơ nhưng dáng người còn khoẻ mạnh
lên tiếng : Tôi xin hiến các vị một
toa thuốc thần diệu chữa bách bệnh.
Đó là vào tuổi chúng ta thì
chúng ta nên kiêng ‘bốn Em’. Nghe đến
đây thì cụ nào cũng thốt lên :
Một em còn chịu không thấu, nói gì
tới những bốn em ! Cụ già đầu bạc
nói ngay : Tôi chưa nói hết câu mà.
Bốn EM đây là bốn chữ em mờ. M thứ
nhất là Mỡ. Thức ăn Canada đầy
mỡ. Chúng ta phải đề phòng món thịt
heo ba chỉ nha, đề phòng món phở nước
béo nha. M thứ hai là Mặn. Ta phải
ăn lạt. Phải coi chừng lọ muối lọ
nước mắm. M thứ ba là Mèo,
mèo hai chân ấy mà. Chớ có phòng
hai phòng ba. Bút chúng ta đã hết mực.
Đèn chúng ta đã cạn dầu. Phải
giữ sức mới được. Và M thứ bốn
là Muốn. Chúng ta phải dẹp lòng
ham muốn. Càng ham muốn càng khổ. Đức
Phật dạy ta diệt tham sân si là vậy.
Lời cụ già ‘4 M’ làm tôi nhớ
một bài báo nhà thờ. Đây là
kinh nhật tụng của một linh mục già coi xứ.
Ông cha nhắc mình 6 điều này :
- Ăn ít, thở nhiều
- Giảng ít, suy gẫm nhiều
- Lái xe ít, đi bộ nhiều
- Tiêu ít, làm phước nhiều
- Nói ít, cầu nguyện nhiều
- Ngủ ít, làm việc nhiều
Những 6 lời khuyên, tôi cho là
dài quá. Tôi đem việc này trình với
một vị cao niên mà xưa nay tôi hằng
ngưỡng mộ. Gặp cụ ở đâu là
nghe thấy tiếng cười ở đó.
Đã trên 90 mà da dẻ cụ rất hồng
hào. Đó là Cụ Tú Hát Đinh
Bá Hoàn. Cụ Tú Hát này làm
thơ cùng thời với Tú Mỡ. Cụ nghe
tôi trình 6 lời khuyên trên đây xong
thì cụ cười khà khà rồi bảo :
Sáu điều thì dài quá và
khó nhớ quá. Lão chỉ có một nửa,
chỉ 3 lời khuyên thôi và rất dễ nhớ.
Đó là biết sợ
vợ, cười nhiều, và không giận ai bao
giờ.
Rồi Cụ giải rộng nghĩa : Điều
thứ nhất là biết sợ vợ. Tôi
theo gương ông Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu ấy mà. Tản Đà nổi tiếng về
tài làm thơ đã vậy, ông còn nổi
tiếng về nhiều câu nghe như kinh nghiệm sống.
Chẳng hạn ông đã nói về sợ vợ
như sau : Trên đời này ta không nên sợ
ai, nhưng nếu có sợ thì chỉ nên sợ
vợ mà thôi. Còn điều thứ hai
là ta nên cười nhiều vì
đó là toa thuốc thần tiên mà
bác sĩ Alexandre Rabelais đã chữa lành nhiều
người bên tây. Sách kể rằng có
một triết gia kia bị bệnh nhức đầu
kinh niên, ông đi gặp bao nhiêu bác sĩ
và uống bao nhiêu thuốc mà bệnh nhức
đầu vẫn còn. Triết gia này tới gặp
bác sĩ Rabelais. Rabelais nghe kể bệnh xong liền
cho toa : ông không cần phải uống thuốc
gì cả. Ông chỉ cần tối nào cũng
đến hí viện xem hài kịch. Ông
cười được bao nhiêu tốt bấy
nhiêu. Quả thực, sau một tuần lễ đi
xem hài kịch, cười nhiều, triết gia
đã hết hẳn bệnh nhức đầu
và ăn rất ngon, ngủ rất say. Còn điều
thứ ba là không giận ai bao giờ. Ta
không chứa cơn giận trong đầu thì
đầu ta sẽ thanh thản, tâm ta sẽ bình
an. Điều này hiển nhiên mà.
Và tôi bắt chước ông ODP cũng
tuyên bố xin hết phần thuyết trình.
Cả làng ồ lên một tiếng. Hai
cô Huế thì thốt lên : Sao bác nói
ngắn quá vậy! Cụ B.95 phải lên tiếng
ngay : Bữa nay chúng ta hãy cho ông Trà Lũ
khất, lần sau ông sẽ kể tiếp. Bây giờ
thì xin cho tôi nghe chuyện thời sự Canada. Anh
John ơi, tôi mong được nghe anh nói
quá. Các cụ biết Anh John là thần
tượng của cụ B.95 chứ.
Chẳng riêng gì Cụ B.95 mong mà cả
làng chúng tôi cũng mong, vì anh là
người thông thạo tin tức nhất. Xưa nay
anh đã đọc báo, nghe radio và xem TV thay
cho chúng tôi.
Anh John vào đề ngay. Rằng tin nổi cộm
trong tháng 12 này là tin Hội nghị APEC tại
Hà Nội. Các vua chúa từ khắp nơi tới
dự. Vua Bush được thế giới chú
ý nhiều nhất. Ngoài các diễn văn
ngoại giao, vua Bush đã nói một câu
đáng chú ý nhất trong cuộc họp
báo. Rằng con cái của thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng hiện đang du học tại Hoa Kỳ
nước chúng tôi, và tôi rất vui mừng
là một cô con gái của thủ tướng
đã kết hôn với một người Mỹ
gốc Việt. Kể đến đây thì anh
John hạ giọng và cười hà hà :
rõ ràng con thủ tướng VC lấy Mỹ ngụy
nha. Chị Ba Biên Hòa chưa hề biết tin
này nên nghe xong thì chị kêu lên lớn
tiếng : Lạy Chúa tôi ! lạy Chúa tôi
!
Rồi anh nói tiếp : phía Canada thì
thủ tướng Stephen Harper đã sang Hà Nội
họp. Trước khi lên đường thì
Liên Hội Người Việt Canada đã gửi thủ
tướng một tâm thư, lưu ý thủ
tướng rằng Hà Nội vẫn đang
đàn áp nhân quyền, tự do báo
chí và tôn giáo tại VN. Nghe đến
đây thì anh H.O. nói leo vào một
câu : Thế mới biết Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu ngày xưa đã nói
đúng : ‘ Đừng tin những gì CS
nói mà hãy nhìn kỹ những gì CS
làm’. Cái anh này nhiều máu ngụy
quá. Anh John kể tiếp : Ông Harper đã thẳng
thắn đặt vấn đề nhân quyền với
Hà Nội, và cả với ngài Hồ Cẩm
Đào của Trung Quốc.
Đó là tin
đối ngoại. Còn tin địa phương
thì nổi bật là cuộc bầu cử
các vị đầu tỉnh. Quý vị có biết
ai đắc cử thị trưởng thành phố
Mississauga bên cạnh Toronto không ? Thưa,
đó là bà già gân Hazel McCallion, 85 tuổi.
Và đây là lần tái đắc cử
thứ 11, nghĩa là bà đã làm thị
trưởng 10 nhiệm kỳ liền. Dân trong tỉnh
mê bà già này hết mình vì họ
thấy bà có đại tâm, ăn ngay
nói thẳng, không nịnh bợ một ai.
Hình như tháng trước tôi có nhắc
tới bà, chuyện bà già thị trưởng
lái xe bị cảnh sát phạt vì đụng
cột đèn ấy mà. Phạt xong cảnh
sát còn yêu cầu bà phải để
tài xế lái xe cho bà. Ai đời làm
thị trưởng một thành phố lớn, tuổi
già đã 85 mà bà cứ tự mình
lái xe đi làm. Dân Việt ở đây
đặt cho bà mỹ danh ‘bà già
gân’. Bà giống y như cụ Trần Văn
Hương ngày xưa. Có 2 vị ra tranh cử với
bà McCallion. Hai vị này tốn bao nhiêu
công sức vàtiền bạc vận động,
thế mà vẫn thua. Điểm nổi bật
là bà già Hazel chỉ ghi danh chứ không hề
đi vận động. Dân quả là có mắt.
Rồi anh John quay về
chuyện VN ngày trước. Đầu tháng 11 vừa
qua là lễ giỗ cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm. Qua sách báo tôi mới biết
một tin tuy nhỏ nhưng rất có ý nghĩa.
Đó là tin Tổng thống Diệm được
nước Phi Luật Tân trao giải thưởng
Leadership Macsaysay năm 1959. Giải này trao mỗi
năm cho vị lãnh đạo xuất sắc nhất
trên thế giới. Hiện kim là 15 ngàn mỹ
kim. Số tiền không bao nhiêu nhưng cái danh
dự rất lớn. Tổng thống Diệm đã
nhờ ông Đỗ Vạng Lý tổng lãnh sự
VNCH trao tặng số tiền này cho Đức Datlai
Latma lúc đó vừa trốn từ Tây tạng
sang Ấn Độ. Sau việc trao tiền này, Tổng
thống Diệm còn cho chở gạo từ VN sang
giúp tăng đoàn tỵ nạn của Ngài
nữa.
Biết cụ B.95
và hai cô Huế vẫn còn mong nghe nhiều
hơn, anh vừa cười vừa kể thêm chuyện
thời sự này. Rằng có một quốc gia
kia đã ra những luật rất khắt khe về
hàng không, như sau :
- Kể từ 11.9.2001
:hành khách không được mang theo vũ
khí, dao, búa và các vật nhọn lên
phi cơ, vì bọn khủng bố sẽ dùng
các vật này để cưỡng đoạt
máy bay.
- Kể từ 11.9.2002 :
hành khách lên phi cơ không được
mang giày vì bọn khủng bố có thể
giấu khí giới trong giày để cướp
phi cơ.
- Kể từ 11.9.2006,
hành khách không được mang theo xách
tay, thức uống và chai lọ có chất lỏng,
vì bọn khủng bố có thể dùng chất
lỏng chế ra bom.
- Kể từ 11.9.2010,
hành khách không được mặc quần
áo vì bọn khủng bố có thể
dùng chất vải đốt phi cơ
- Kể từ 11.9.2020, những
hành khách nào biết võ sẽ không
được lên phi cơ vì võ sinh sẽ
dùng võ lực cướp phi cơ.
Anh John kết luận :Ba
đạo luật đầu đã được
thi hành. Các nhà tương lai học
đoán rằng hai đạo luật sau cũng sẽ
được thi hành. Chuyện này thực hay giả,
các cụ ?
Kính chúc
các cụ Mùa Giáng Sinh và Năm Mới
2007 đi máy bay được bằng an và
thân tâm an lạc.
TRÀ LŨ
(Bai Chuyen)