ĐỨC THẾ TỔ CAO HOÀNG ĐẾ
HÚY
NGUYỄN PHÚC ANH
(1762 - 1820)
Đời Thứ XI
11.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Thế Tổ Cao Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Anh ngoài ra c̣n có tên Chủng và Noăn (1), là con thứ ba của đức Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế Nguyễn Phúc Côn và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Hoàn. Ngài sinh ngày 15 tháng giêng năm nhâm ngọ (8-2-1762).
11.1.1. Thuở thiếu thời
Khi đức Hưng Tổ mất ngài mới bốn tuổi, đức Duệ Tông rất yêu thương đem nuôi ở trong cung. Lúc 13 tuổi gặp loạn năm Giáp ngọ (1774), quân Trịnh tấn công Thuận Hóa, ngài theo đức Duệ Tông vào Quảng Nam, năm sau đến Gia Định. Đức Duệ Tông giao cho ngài giữ chức Chưởng sứ, mỗi khi có việc quân thường được mời bàn tính và các tướng rất bái phục.
Năm Đinh dậu (1777) Sài Côn (Sài G̣n) bị quân Tây Sơn chiếm, đức Duệ Tông phải lánh ḿnh vào Long Xuyên, sau đó đức Duệ Tông và Tân chính vương (Nguyễn Phúc Dương) đều bị hại, chỉ riêng ngài trốn thoát lánh ḿnh ở đảo Thổ châu, rồi trở về tụ tập các tướng sĩ khởi binh ở Long Xuyên đánh lấy Sài Côn. Các tướng tôn ngài làm Đại nguyên súy Nhiếp chính quốc, lúc ấy ngài 17 tuổi.
11.1.2 Thời kỳ xưng vương
Năm Canh tư (1780), tướng sĩ tôn ngài lên ngôi vương ở Sài Côn, dùng ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bửu. Từ năm Nhâm dần (1782) đến năm Bính Th́n (1786) quân Tây Sơn nhiều phen đánh phá Gia Định cố tâm hại cho được ngài. Ngài thất trận nhiều lần, có lúc bị vây ở Côn Lôn (2), có lúc lánh ḿnh ra Phú Quốc rồi qua Xiêm đến hai lần phải gởi Hoàng tử Cảnh theo giám mục Bá Đa Lộc (3) sang Pháp cầu viện (4).
Đến năm Đinh mùi (1787) ngài trở về Long Xuyên, các tướng giỏi và nghĩa quân theo về rất đông nên thế lực mạnh dần. Tháng 8 năm Mậu thân (1788) lấy thành Gia Định, năm Canh tuất (1790) chiếm lại B́nh Thuận.
Năm Nhâm tư (1792) ngài tự thân đi đánh Qui Nhơn nhưng cũng phông thành công. Từ đấy hằng năm cứ đến mùa gió nam ngài cho quân tiến ra đánh các tỉnh miền Trung, khi gió bấc nổi lên lại rút quân về Gia Định (5). năm Kỷ mùi (1799) ngài đánh Qui Nhơn lần thứ ba chiếm được thành đổi tên là B́nh Định, giao cho Vũ Tính và Ngô Tùng Chu giữ. B́nh Định ở vị trí lẻ loi khó tiếp viện, nên mùa thu năm đó quân Tây Sơn vây thành và chận đường tiếp viện phía nam. Nhờ Vũ Tính giỏi cố thủ nên thành không bị mất. Năm Canh thân (1800) ngàu tự thân đi cứu viện đánh nhau nhiều phen với quân Tây Sơn nhưng không giải được vây. Năm Tân dậu (1801) nghe theo lời khuyên của các tướng và nhất là lời tâu của Vũ tính (6), qua mùa hạ ngài theo đường thủy dẫn quân đánh Thuận Hóa. Ngày mồng một tháng 5 năm Tân dậu (1801) tiến quân vào cửa Tư Hiền, ngày mồng hai tiến đến Trường hà, ngày mồng ba (2-6-1801) thu phục lại Kinh đô cũ. Xa giá tiến vào Kinh thành, ngài cho thu ấn tín, niêm phong kho tàng của Tây Sơn và an định dân chúng.
Từ ngày giữ chức Đại nguyên súy đến lúc này trải qua 25 năm, ngài được 40 tuổi, nhiều phen vào sinh ra tử mới thu phục Kinh đô.
11.1.3 Thời kỳ xưng đế
Đến tháng tư năm Nhâm tuất (1802) ngài cho sửa chữa Hoàng thành, qua ngày mồng một tháng 5 chơ lập đàn ở xă An Ninh (nay là Kim Long, Hương Trà, Thừa Thiên) hiệp tế trời đất về việc đặt niên hiệu, hôm sau ngày mồng hai tháng 5 (1-6-1802) vua ngự ở điện nhận lễ triều hạ, đặt niên hiệu Gia Long, ban lệnh đại xa khắp nước. Sau đó cho dựng Thái miếu ở bên trái Hoàng thành.
Qua tháng 6 ngày đưa quân ra Bắc tiểu trừ quân địch. Đến ngày 21 tháng 6 xa giá tiến vào Thăng Long thực hiện việc thống nhất sơn hà (7). Sau đó ngài ban dụ cho các cựu thần nhà Lê cùng kẻ sĩ Bắc Hà đến triều kiến, tùy theo tài năng mà bổ dụng. Ngài c̣n chu cấp cho những người trung nghĩa ở miền Bắc đă bỏ ḿnh. Ngài đến viếng miếu thờ vua Lê Thái Tổ, sắc phong cho con cháu nhà Lê và họ Trịnh, cấp cho tự điền và mộ phu để lo việc thờ tự tổ tiên. Đến tháng 10 ngài trở về Thanh Hóa yết kiến lăng miếu ở Thiên Tôn (8) ngày 26 trở về Kinh bái yết Thái miếu.
Tháng 11 năm Nhâm tuất (1802) ngài làm lễ tế trời đất, yết Thái miếu hiến phu và xử trị vua quan Tây Sơn (9).
Tháng giêng năm Giáp tư (1804) ngài làm lễ nhận tuyên phong của nhà Thanh, qua tháng 2 đổi quốc hiệu là Việt Nam và măi đến năm Bính dần (1806) ngài mới làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở điện Thái Ḥa.
Cuối đời Tây Sơn chính sự thối nát, phong tục hủy hoại nên việc cai trị rất khó khăn, mọi việc trong nước đều được ngài sắp đặt từ đầu. Ngài chia nước thành 23 trấn 4 dinh, trấn lại chia thành phủ, huyện, châu và xă. Trong triều th́ được phân thành 6 bộ : Lại, Hộ, Binh, H́nh, Công, Lễ, lại đặt Đô sát viện để lo việc can gián vua và đàn hặc các quan.
Về việc binh ngài cho giảm bớt quân, đặt phép tuyển chọn quân ở các dinh trấn, cho quân pḥng thủ những nơi hiểm yếu trong nước. Về tài chánh th́ đặt lại các loại thuế, thể thức miễn giảm thuế. Ngoài ra cho sửa lại hệ thống giao thông, đắp đê điều pḥng ngừa thiên tai. Để bài trừ những tệ đoan xă hội ngài cho đặt ra những pháp luật nghiêm minh, sai Nguyễn Văn Thành soạn ra bộ luật gồm 22 quyển 398 điều căn cứ theo luật Hồng Đức va luật nhà Thanh.
Tuy nhờ vũ công mà lấy lại cơ nghiệp, nhưng ngài rơ việc giữ nước cần phải có những quan văn giỏi, cho nên rất chú trọng đến việc học hành. Ngài cho dựng Văn miếu thờ đức Khổng Tử tại Kinh đô và các dinh Trấn, lại đặt Quốc tử giám, mở khoa thi đào tạo kén chọn nhân tài, soạn quốc sử và sách địa dư, sai soạn bộ Cương Mục tiền biên, sai Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định nghiên cứu các vùng trong nước từ Lạn Sơn đến Hà Tiên về địa thế, phong tục, thổ sản... để soạn bộ Nhật Thống Địa Dư chí gồm 10 quyển, lại sai t́m những sách sủ đời trước để sửa chữa và soạn quốc sử.
Với tổ tiên ngài lo sửa lại các lăng tẩm (10), đem về Kinh an táng những người thân trong họ đă bỏ ḿnh v́ nước, với họ tộc ngài giao cho Phúc Logn trông coi và dụ rằng : "Xưa nay các bậc đế vương đều lấy sự thuận ḥa và hậu đăi người trong gia tộc làm trông, nhưng phải có phép tắc ràng buộc mới giữ vẹn được t́nh thân và cùng chung hưởng phú quư. Trước đây khi vận nước điêu linh các thân tộc phải chịu nhiều nỗi cay đắng. nay ta nhờ ân trạch của liệt Thánh lấy lại nin sông, muốn thân tộc giữ phép tắc để cùng hưởng phúc chung, nhưng gần đây nghe nói có kẻ chiếm đoạt nhà đất của dân, có kẻ say sưa dọa nạt dân, làm nhiều điều phi pháp thực là đáng ghét. Việc trị nước trước hết phải tề gia, xem như họ hàng Tây Sơn cậy thế hung hăn khiến mọi người đều ta thán mà đến bại vọng, gương ấy trước mắt. Nay nên họp lại mà răn dạy không được kiêu ngạo ngang ngược mà mắc tội. Pháp luật thi hành từ gần trước, phải thận trọng".
Việc giao thiệp với các nước ngơài ngài lấy chủ trương ḥa làm chính. Sau khi thống nhất, ngài cho người sang cầu phong ở Trung Hoa và chịu việc triều cống. Với Xiêm La th́ cho giảng ḥa để đưa Nặc Ông Chân về cai trị Chân Lạp. Với Tây phương và nhất là người Pháp, tuy có nhiều người giúp đỡ ngài trong lúc c̣n trong cảnh gian truân và vẫn c̣n nhận chức tại triểu đ́nh, ngài tránh không muốn cho họ xâm lấn vào quyền hạn của ḿnh. Ngài vẫn để cho tàu của Pháp ghé bến Đà Nẵng để buôn bán. Nhờ sự ngoại giao khéo léo và không biệt đăi một nước nào nên rất được ḷng các lân bang và các nước Tây phương.
11.1.4 Thời kỳ cuối đời
Năm Giáp tuất (1814) ngài cho xây lăng Thiên Thụ ở làng Định Môn (Hương Thủy, Thừa Thiên). Năm Bính tư (1816) ngài được 55 tuổi cho ban dụ về việc lập Thái Tử và cho lập Hoàng tử thứ tư Nguyễn Phúc Đảm làm Thái Tử, chế áo mũ và ban kim sách, kim bửu. ngày 11 tháng chạp năm Kỷ măo (1819) ngài đau nặng cho triệu Thái tử, các thân công cùng đại thần vào nhận di chiếu. Ngày 19 tháng chạp (3-2-1820) giờ Tị ngài băng thọ 58 tuổi.
*
* *
Ngài là người khôn ngoan có tài trí, rất giỏi việc binh, mang đức tính của người khai sán cơ nghiệp. Trong 25 năm trời chống nhau với địch, phiêu giạt chân trời góc biển, biết bao phen hoạn nạn vẫn không làm nản ḷng, một niềm lo khôi phục cơ nghiệp của liệt thánh.
Ngài biết chọn người để dùng, đối đăi với tướng sĩ một ḷng chân thành khiến hào kiệt các nơi quy về và một ḷng giúp đỡ, ngài biết khích lệ các tướng sĩ nên có những người hy sinh trong việc khôi phục cơ nghiệp (11). Ngay những người Tây phương tuy cũng v́ quyền lợi riêng của họ, nhưng hết ḷng pḥ tá, nhu cha Bá Đa Lộc (12) quá tin thân để ngài gởi gắm con côi, cha lại c̣n bỏ tiền ra mua khí giới cùng tàu thuyền đẻ giúp việc khôi phục. Người trong nước một ḷng mong ngóng, trông ngài thắng lợi để có cuộc sống thanh b́nh.
Ngài là người có óc tiến bộ, biết tổ chức quân đội theo Tây phương, xây Kinh thành theo những kiến trúc mới, đổi mới việc truyền giáo của các giáo sĩ, ngài đă từng nêu ư kiến với giám mục Bá Đa Lộc là cần có sự kết hợp giữa Thiên chúa giáo và phong tục cổ truyền của dân tôc ta để tránh sự va chạm. Trong thời ngài Phật giáo lại được chấn hưng. Sau cơn tàn phá của binh lửa, ngài cho trùng tu rất nhiều chùa chiền trong nước.
Ngài một ḷng nghĩ đến tổ tiên, ngay trong những lúc chưa an định đă lập miếu thờ ở Gia Định, rồi sau đó dựng Thái miếu, Triệu miếu khi lấy lại được Kinh đô. Đối với mẹ, ngài rất chí hiếu trong những lúc hoạn nạn vẫn muôn vàn lo lắng. Với vợ thật chí t́nh, chẳng bao giờ quên được những lúc cùng trải bao gian khổ và v́ thế đă đưa Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu từ bậc Phi tiến đến Vương Hậu rồi Hoàng Hậu. Ngài một ḷng yêu thương con cháu nhưng rất nghiêm khắc, như rất thương Hoàng Tử Cảnh v́ có nhiều công trong buổi dựng nước, mến Thiệu Hóa quận vương v́ tính hiền từ thận trọng, khen thưởng Thọ Xuân vương v́ hiếu học nhưng rất quở trách Định Viễn quận vương lúc ham chơi. Ngoài ra ngài cho thu thập các gia phả liên quan đến ḍng họ, v́ vậy các cho họ Nguyễn khắp nơi gởi gia phả về nhận họ hàng. Các ngọc phả được dâng lên như "Hoàng Triều tông Đồ", "Hoàng Gia Phả Hệ", "Hoàng Triều Ngọc Phả" v.v...
Người ta thường bảo ngài khắc nghiệt đối với công thần, đặt luật lệ với dân quá hà khắc, nhưng thử hỏi trong giai đoạn trung hưng ḷng người ly tán, muốn lập kỷ cương, xếp việc cai trị mang lại an vui ấm no cho dân, nếu phép tắc không rơ ràng, thưởng phạt không nghiêm minh th́ làm sao giữ được nước. Ngài đă nh́n xa thấy rộng khi lập Hoàng tử thứ tư lên kế vị, v́ hiểu việc dựng nước đă khó nhưng việc giữ nước lại càng khó. Bởi thế không những ngài khôi phịc được nghiệp cũ, thống nhất đất nước mà c̣n sửa sang được mọi việc khiến nước ta trở thành một cường quốc trong vùng vào thời bấy giờ. Công nghiệp của ngài quả thật lớn lao.
11.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Tháng 3 năm Canh th́n (1820), Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế dâng tông thụy là Thế Tổ Khai Thiên Hoằng Đạo Lập Kỷ Thùy Thống Thần Văn Thánh Vũ Tuấn Đức Long Công Chí Nhân Đại hiếu Cao Hoàng Đế. Qua tháng 4 an táng ngài ở lăng Thiên Thụ.
Năm Nhâm ngọ (1822) vua Minh Mệnh cho rước thần chủ về thờ ở điện Hoàng Nhân; dựng Thế miếu và thờ ngài ở gian chính giữa.
Ngoài ra ngài c̣n được thờ ở điện Minh Thành tại lăng Thiên Thụ, điện Phụng Tiên ở trong cung.
11.3 - GIA Đ̀NH
11.3.1. Hậu và phi
11.3.1.1 Tống Thị Lan
(Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu)
Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu húy Tống Thị Lan, tự là Liên, người quê Tống Sơn, Thanh Hóa, là con gái thứ ba của Qui Quốc Công Tống Phúc Khuông, mẹ họ Lê. Bà sinh ngày 25 tháng 12 năm Tân tị (19-1-1762).
Khi có biến năm Giáp gnọ (1774), bà theo cha vào Nam đến ở Gia Định. Năm Mậu tuất (1778) bà 18 tuổi, được tiến cung rồi tấn phong làm Nguyên Phi. Bà thận trọng lễ phép, cư xử đúng theo lễ nghi nên Thế Tổ rất sủng ái.
Năm Quí măo (1783) quân Tây Sơn đánh Gia Định, Thế Tổ phải lánh ḿnh ra Phú Quốc, người Xiêm đem thuyền đến đón. Trước khi sang Xiêm, Thế Tổ cho Hoàng tử Cảnh qua Pháp cầu viện. Ngài lại đem ra một dật vàng giao cho bà một nửa mà bảo rằng : "Con chúng ta đi rồi, ta cũng sẽ đi đây. Phi ở lại phụng thờ quốc mẫu (12), chưa biết sau này sẽ gặp nhau ở đâu và lúc nào, Phi cất vàng này làm của tin (13)".
Năm Mậu thân (1788) khi Thế Tổ lấy lại Gia Định, cho người đến Phú Quốc đón bà. Từ đấy mỗi lần Thế Tổ thân chính bà đều đi theo.
Năm Bính th́n (1796) bà được lập làm Vương Hậu. Đến năm Bính dần (1806) được lập làm Hoàng Hậu.
Giờ tuất ngày 3 tháng 2 năm Giáp tuất (22-2-1814) bà mất thọ 54 tuổi. Ngày 18 làm lễ thành phục, Thế Tổ sai Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm dân lễ điện (14). Qua năm sau bà được an tán tại lăng Thiên Thụ (15).
Tháng 6 năm Canh th́n (1820) tôn thụy là : Thừa Thiên Tá Thánh Hậu Đức Từ Nhân Giản Cung Tề Hiếu Dục Chính Thuận Nguyên Cao Hoàng Hậu.
Năm Nhâm ngọ (1822) thần chủ của bà được rước vào thờ ở Thế Miếu, ở bên phải thần chủ của Thế Tổ. Bà c̣n được thờ ở điện Phụng Tiên trong Hoàng thành và điện Minh Thành ở lăng Thiên Thụ.
Bà là người thân hậu, cần kiệm, biết thương yêu tất cả mọi người. Trong lúc bôn ba nơi gian hiểm, bà tự tay dệt nhung phục cho quân sĩ. Một hôm đang đi thuyền th́ gặp địch, Thế Tổ giục quân cố sức đánh, bà cũng cầm trống thúc quân khiến tướng sĩ phấn chấn mà đánh bại dịch. Đức hạnh của bà thật xứng đáng là bậc mẫu nghi trong thiên hạ. đúng với câu được ghi trong văn sách lập làm Hoàng Hậu :
Ḥa dịu cần kiệm tỏ đức hay, làm khuôn mẫu cho mọi gia đ́nh.
Đem phong hóa quan thư (16) khiến Tu, Tề, Trị, B́nh được trông cậy (17).
Bà sinh đực hai Hoàng tử, trưởng là Nguyễn Phúc Chiêu mất sớm, con thứ là Nguyễn Phúc Cảnh dau được lập làm Đông cung.
Ông Tổng Phúc Khuông thân sinh của bà được phong Thái Bảo tước Quốc Công, và được lập nhà thờ ở Phú Xuân, (Thừa Thiên) gọi là Tống công từ (sau đổi thành Qui Quốc công Tống công từ), rồi lại được dời về Kim Long, (Thừa Thiên) và đổi tên là Qui Quốc Công từ.
11.3.1.2 Trần
Thị Đang
(Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu)
Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu húy là Trần Thị Đang, lại húy là Kính người làng Văn Xá (Hương Trà, Thừa Thiên) là con gái của Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt, mẹ họ Lê. Bà sinh giờ ngọ ngày 27 tháng 11 Mậu tư (4-1-1769).
Gặp biến cố năm Giáp ngọ (1774), Hiếu Khang Hoàng Hậu về ẩn náu ở làng An Du, bà được vào hầu. Năm Mậu tuất (1778) khi Thế Tổ nhiếp chính ở Gia Định, sai người ra rước quốc mẫu vào Nam, bà cùng với các công chúa đều đi theo hầu. Bà tấn cung năm 14 tuổi được phong là Tả cung tần c̣n gọi là Nhị phi.
Khi quân Tây Sơn c̣n mạnh thế, bà theo Thế Tổ phiêu dạt nhiều nơi, đêm thường thắp hương cầu khẩn : "lúc này vận nước c̣n khó khăn chưa được an định, nếu sinh con mà bỏ đi th́ bất nhân mà mang theo chỉ thêm bận ḷng chúa thượng. Nếu số mệnh có con th́ xin thái b́nh rồi mới sinh, mong Trời ban cho như thế".
Năm Mậu thân (1788) khi khắc phục được Gia Định, một đêm bà nằm mộng thất thần nhân dâng lên một cái tỉ và hai cái ấn, tỉ có màu sáng đẹp như mặt trời, ấn th́ một cái màu sắc tím và một cái màu rất nhạt, bà nhận lấy tất cả (18). Đêm năm Tân hợi (1791) bà 24 tuổi sinh ra Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
Năm Tân tị (1821) bà được tấn tôn làm Hoàng Thái Hậu.
Năm Tân sửu (1841), Hiến Tổ dâng tôn hiệu là : Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái Hậu.
Năm Quư măo (1843) nhân trong cung gặp việc tốt là "ngũ đại đồng đường" (19), việc hiếm thấy xưa nay nên Hiến Tổ dân Kim sách tấn tôn là : Thánh Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Ninh Thái Hoàng Thái Hậu.
Tháng 8 năm Bính ngọ (1846). bà không được khỏe, qua giờ dậu ngày 18 tháng 9 (6-11-1846) bà mất, thọ 76 tuổi. Đức Hiến Tổ dân tôn thụy là : Thuận Thiên Hưng Thánh Quang Dũ Hóa Cơ Nhân Tuyên Từ Khánh Đức Trạch Nguyên Công Cao Hoàng Hậu.
Tháng 2 năm đó bà được an táng tại Lăng Thiên Thụ hữu (20).
Tháng 11 năm Mậu thân (1848) thần chủ của bà được rước về thờ ở Thế miếu tại gian chính ở bên trái thần chủ của Thế Tổ.
Bà là người cần kiệm, hiền từ, thông thuộc kinh sử, tính lại khiêm cung thường hay lo nghĩ đến dân. Năm Canh th́nh (1820) khi xây xong cung Từ Thọ, đực Thánh Tổ và quần thần dâng biểu xin tôn hiệu, bà không chịu nhận mà ban rằng : "Ta biết rơ ḷng thành của Hoàng Đế và các quan, nghĩ đến Ninh lăng (21) của Tiên đế mà ăn ngủ không ngon. Nay trời lại sinh lệ khí khiến quân dân sinh bệnh rất nhiều, thấy Hoàng Đế lo lắng suốt ngày, khiến ta không yênmà thương xót không xiết. Tai họa vị tất do người làm vua kém đức mà sinh ra, nhưng được thiên hạ phải có trách nhiệm với thiên hạ, c̣n ta được sự phụng dưỡng của thiên hạ phải có cái lo của thiên hạ, xin các bậc nguyên lăo giúp Hoàng Đế hoàn thành những việc trọn để đổi lại ư trời, khiến dân an vui là ta rất mừng".
Bà luôn luôn nghĩ đến việc nước, khuyên con nhủ cháu mà ít khi nghĩ đến ḿnh. Một lần khi Thánh Tổ đến hầu cơm, bà đứng dậy đi lại tỏ ư mạnh mẽ và bảo với Thánh Tổ : "Ta biết rằng Hoàng Đế siên năng lo lắng suốt ngày, há để cái thân già gần 70 tuổi này làm Hoàng Đế phải lo lắng thêm, nên ta gắng ăn uống thêm và thấy trong ḿnh khỏe khoắn lắm, con chớ lo".
Một lần vào năm Quư măo (1843) nhân cùng Hiến Tổ đến ao Minh giám câu cá, bà đă dùng chuyện cá nước để khuyên vua : "Cá ở nơi ao này chẳng lo bị bắt, đối với các lương thần ở trong nước cũng như thế. Ngày xưa vua Chiêu Liệt nhà Gia Cát Vũ Hầu (22) giúp sức tự ví nhứ cá gặp nước. Đạo trị nước của vua gần người hiền, tránh xa kẻ gian, chớ xa xỉ, phải tiết kiệm".
Ba thường lựa lúc kể khuyên Hiến Tổ nên dùng những người cũ, tuân theo phép tắc của tiên triều, xử sự đúng vai tṛ của vua, đem đạo quân thần ngày xưa để chỉ bảo, lại khuyên nên nghĩ đến dân mà chăm lo việc nước. Có lần bà cùng với vua lên lầu Kư ân ở vườn Thường mậu nh́n ra đồng ruộng bà bảo : "Thánh Tổ đặc biệt thương Hoàng Đế hơn các con khác, nội biết rơ từ lâu. Trước đây Thánh Tổ cho dựng vườn này nhưng v́ sợ phú quư mà sinh xa xỉ, nên cho dựng phủ trước đồng ruộng là để Hoàng Đế biết thương nhà nông, rơ việc cày bừa là gian nan. Hoàng Đế nên tiết kiệm chớ lấy việc ăn uống xai phí, xây cung thất vườn tược làm vui, v́ như thế không rơ chí của Tiên Đế".
Trên 60 năm lo lắng cho chồng, con rồi cháu, bà đă tỏ ra là bậc mẫu nghi, hưởng được sự phụng dưỡng của thiên hạ trên 30 năm. Đă phú quư thọ khảo mà thấy được cả cháu lẫn chắt là điểu hiếm có từ xưa đến nay, thật là :
Sáng suốt cao xa ngang bằng trời đất vĩnh viễn dài lâu.
Nhận hưởng khói hương đôn đốc con cháu kế thừa măi (23).
Bà sinh được ba hoàng tử, trưởng tử là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, thứ hai lả Kiến An Vương Nguyễn Phúc Đài, thứ ba là Thiệu Hóa Quận Vương Nguyễn Phúc Chẩn .
Năm Nhâm ngọ (1822) bà cho xây Dụ Khánh từ ở phía tây Kinh thành để thờ Hà Hoa Quận Công, ông nội của bà, về sau đổi tên là Thọ Quốc công từ. Bà lại lập từ đường tại Văn xá thờ năm đời họ Trần từ tổ thứ năm của bà là Trần Phúc Tư (sau gọi là Dụ Khánh từ).
11.3.1.3 Lê
Thị B́nh
(Đức phi)
Bà người Lam Sơn (Thoại Nguyên, Thanh Hóa) là con gái út của Lê Hiền Tông em gái của Ngọc Hân Công Chúa, mẹ không rơ. Bà sinh ngày 12 tháng 12 năm Giáp th́n (22-1-1785).
Năm Nhâm tuất (1802) bà vào hầu Thế Tổ, chẳng bao lâu được phong là Tả cung tần.
Bà mất ngày 12 tháng 9 năm Canh ngọ (10-10-1810), tặng là Đức phi, thụy Cung Thận. Tẩm ở làng Trúc Lâm (Thừa Thiên), nhà thờ ở Kim Long, (Thừa Thiên) sau dời qua làng Phú Xuân. Hiện nay bà được thờ tại nhà thờ pḥng Thường Tín.
Ba sinh được hai hoàng tử va hai hoàng nữ. Trưởng nam là Quảng Uy Công Nguyễn Phúc Quân, con thứ là Thường Tín Công Nguyễn Phúc Cự, trưởng nữ là An Nghĩa Công Chúa Ngọc Ngôn, thứ nữ lả Mỹ Khê Công Chúa Ngọc Khuê.
11.3.1.4 Lâm
Thức
(Chiêu dung)
Bà c̣n có tên húy là Thí, năm sinh va mất không rơ, lúc được ban tên thụy là Trinh Thục.
Bà sinh được một hoàng tử là Nguyễn Phúc Tuấn mất sớm và hai hoàng nữ, trưởng là B́nh Hưng Công Chúa Ngọc Quỳnh, thứ là Bảo Lộc Công Chúa Ngọc Anh.
11.3.1.5. Nguyễn Thị Tần
(Chiêu Dung)
Bà sinh ngày 4 tháng 20 năm Tân hợi (31-10-1791). Năm Tân mùi (1811) nhập cung vào hầu Thế Tổ. Bà mất ngày 22 tháng 4 năm Đinh dậu (26-5-1837), thọ 47 tuổi, ban thụy là Uyên Thận.
Bà sinh được một hoàng tử là Từ Sơn Công Nguyễn Phúc Măo.
11.3.1.6.
Phạm Thị Lộc
(Chiêu dung)
Năm sinh và mất không rơ. Lúc mất bà được ban thụy là Huy Thục.
Bà sinh được hai hoàng nữ, trưởng là B́nh Thái Công Chúa Ngọc Châu và thứ là Bảo Thuận Công Chúa Ngọc Xuyên.
11.3.1.7.
Hoàng Thị Chức
(Chiêu dung)
Năm sinh và mất không rơ. Lúc mất bà được ban thụy là Trang Ư.
Bà sinh được một hoàng nữ là Phú Triêm Công Chúa Ngọc Trân.
11.3.1.8.
Tống Thị Thuận
(Chiêu dung)
Năm sinh và mất không rơ. Lúc mất bà được ban thụy là Trang Thục.
Bà sinh được một hoàng nữ là Nghĩa Ḥa Công Chúa Ngọc Nguyệt.
11.3.1.9.
Dương Thị Sự
(Tiệp dư))
Bà người Duy Xuyên (Điện Bàn, Quảng Nam), con của Tuyên Uy tướng quân Dương Trung. Năm sinh và mất của bà không rơ. Khi mất được ban thụy là Tĩnh Thục.
Bà sinh được một hoàng tử là Địng Viễn Quận Vương Nguyễn Phúc Bính, và một hoàng nữ là An Lễ Công Chúa Ngọc Cữu.
11.3.1.10.
Dương Thị Dưỡng
(Tiệp dư)
Năm sinh và mất không rơ. Khi mất bà được ban thụy là Ôn Tĩnh.
Bà sinh được một hoàng nữ là An Thái Công Chúa Ngọc Nga.
11.3.1.11.
Nguyễn Thị Điền
(Chiêu nghi)
Năm sinh và mất không rơ. Khi mất bà được ban thụy là Trinh Nhă.
Bà sinh được một hoàng tử là Diên Khánh Vương Nguyễn Phúc Tấn..
11.3.1.12.
Trịnh Thị Thanh
(Mỹ nhân)
Năm sinh và mất không rơ. Bà mất năm Tân măo (1831) được ban thụy là Cung Lệ.
Bà sinh được một hoàng tử là An Khánh Công Nguyễn Phúc Quang.
11.3.1.13.
Cái Thị Thu
(Mỹ nhân)
Năm sinh và mất không rơ. Lúc mất bà được ban thụy là Nhu Ư.
Bà sinh được một hoàng nữ là An Điền Công Chúa Ngọc Vạn.
11.3.1.14.
Nguyễn Thị Vĩnh
(Mỹ nhân)
Năm sinh và mất không rơ. Lúc mất bà được ban thụy là Cung Lệ.
Bà sinh được một hoàng nữ là Định Ḥa Công Chúa Ngọc Cơ.
11.3.1.15.
Trần Thị Thể
(Mỹ nhân)
Năm sinh và mất không rơ. Lúc mất bà được ban thụy là Lương Dung.
Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Bích.
11.3.1.16.
Trần Thị Hán
(Tài nhân)
Năm sinh và mất không rơ. Bà sau được về quê quán.
Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Lư.
11.3.1.17.
Phan Thị Hạc
(Mỹ nhân)
Năm sinh và mất không rơ.
Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Thành.
11.3.1.18.
Nguyễn Thị Uyên
(Tài nhân)
Năm sinh và mất không rơ. Bà sau được về quê quán.
Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Thiều.
11.3.1.19.
Đặng Thị Duyên
(Tài nhân)
Năm sinh và mất không rơ.
Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Tŕnh.
11.3.1.20.
Tống Thị Lâu
(Tả cung tần)
Năm sinh và mất không rơ.
Bà sinh được một hoàng nữ là Công Chúa Ngọc Ngoạn.
11.3.1.21.
Nguyễn Thị Thụy
(Cung tần)
Năm sinh và mất không rơ.
Bà sinh được một hoàng tử là Điện Bàn Công Nguyễn Phúc Phổ
Nogài ra c̣n có một số bà không rơ tên vá lai lịch.
11.3.2. Hoàng tử và Hoàng nữ
Đức Hưng Tổ có 6 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ
Hoàng tử |
Hoàng nữ |
1. Nguyễn Phúc Cảnh | 1. Nguyễn Phúc Ngọc Châu |
2. Nguyễn Phúc Hy | 2. Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh |
3. Nguyễn Phúc Tuấn | 3. Nguyễn Phúc Ngọc Anh |
4. Nguyễn Phúc Đảm | 4. Nguyễn Phúc Ngọc Trân |
5. Nguyễn Phúc Đài | 5. Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến |
6. Nguyễn Phúc Bính | 6. Nguyễn Phúc Ngọc Ngoạn |
7. Nguyễn Phúc Tấn | 7. Nguyễn Phúc Ngọc Nga |
8. Nguyễn Phúc Phổ | 8. Nguyễn Phúc Ngọc Cửu |
9. Nguyễn Phúc Chẩn | 9. Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt |
10. Nguyễn Phúc Quân | 10. Nguyễn Phúc Ngọc Ngôn |
11. Nguyễn Phúc Cự | 11. Nguyễn Phúc Ngọc Vân |
12. Nguyễn Phúc Quang | 12. Nguyễn Phúc Ngọc Khuê |
13. Nguyễn Phúc Măo | 13. Nguyễn Phúc Ngọc Cơ |
14. Nguyễn Phúc Ngọc Thiều | |
15. Nguyễn Phúc Ngọc Lư | |
16. Nguyễn Phúc Ngọc Thành | |
17. Nguyễn Phúc Ngọc Bích | |
18. Nguyễn Phúc Ngọc Tŕnh |
11.3.3 Anh chị em
11.3.3.1A
Nguyễn Phúc Hạo
(Tương Dương Quận Vương)
Ông là con trưởng của Hưng Tổ, mẹ là Từ phi họ Nguyễn. Năm sinh không rơ. Ban đầu ông giữ chứa Cai Cơ, mất trong khi đánh giặc, ông mất ngày 18 tháng 7 âm lịch (không rơ năm). Năm Ất sửu (1805) ông được tặng là Thái Phó Quốc Công thụy Trung Nghĩa, được thờ ở Thái miếu.
Năm Giáp tuất (1814) vua Gia Long gia tặng là Trang công, cho thờ ở Triển Thân Từ (24). Năm Tân măo (1831) vua gia tặng là Tá Vận Tôn Thần Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Chính, cải thụy là Cung Mục ban tước Tương Dương Quận Vương. Năm Canh tuất (1850) ông được rước về thờ ở Thân huân từ (25). Ông vô tự.
11.3.3.2A
Nguyễn Phúc Đồng
(Hải Đông Quận Vương)
Ông là con thứ hai của đức Hưng Tổ, em cùng mẹ với đức Thế Tổ. Năm sinh không rơ. Ban đầu ông giữ chức đội trưởng đội thuyền Gia Tam.
Mùa xuân năm Ất mùi (1775), ông theo đức Duệ Tông vào Nam, đến ở Gia Định và thường hay đi đánh giặc.
Năm Đinh dậu (1777), quân Tây Sơn xâm phạm Long Xuyên, ông bị giặc hại.
Ông mất ngày 18 tháng 9 năm Đinh hậu (18-10-1777). Năm Kỷ dậu (1789) ông được tặng là Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Cẩm Y Vệ Chưởng Vệ Sự Chưởng Cơ, thụy Anh Nghị.
Năm Ất sửu (1805) vua Gia Long phong tặng là Dực Vận Minh Nghĩa Tôn Thần Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thái Sư, tước Quốc công và đổi thụy là Trung Tiết, cho thờ ở Thái Miếu.
Năm Giáp tuất (1814) vua gia tặng là Uy Công, cho thờ ở Triển thân từ.
Năm Tân măo (1831) vua gia tặng là Tá Vận Tôn Thân Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Chính, cải thụy Cúng Ư, phong tước Hải Đông Quận Vương.
Năm Quư măo (1843) vua Minh Mệnh cho lập nhà thờ ở Tân An (26) (Hương Thủy, Thừa Thiên) để thờ ông cùng với Thông Hóa Quận Vương Nguyễn Phúc Điển, Thuận An Công Nguyễn Phúc Hy.
Ông vô tự.
11.3.3.4A
Nguyễn Phúc Mân
(An Biên Quận Vương)
Ông là con thứ 5 của đức Hưng Tổ, mẹ là Từ phi họ Nguyễn, em cùng mẹ với Tương Dương Quận Vương Nguyễn Phúc Hạo. Năm sinh không rơ.
Mùa xuân năm Ất mùi (1775) ông theo đức Duệ Tông vào Gia Định giữ chức Thiếu Phó Quận Công. Năm Nhâm dần (1782) quân Tây Sơn tấn công Sài Côn, Thế Tổ phải lánh ḿnh ra Phú Quốc, sau đó cùng với Chu Văn Tiếp đại phá địch ở Ngưu Chữ, chiếm lại Sài Côn rước Thế Tổ về.
Mùa xuân năm Quư măo (1783) quân Tây Sơn lại tấn công, ông giữ lũy Giàc ngư. Lũy bị hăm, ông chạy qua cầu treo bị dịch chặt đứt cầu rơi xuống mà chết.
Ông mất ngày 24 tháng 2 năm Quư măo (26-3-1783).
Năm Kỷ dậu (1789) ông được tặng Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Cẩm Y Vệ Chưởng Vệ Sự Chưởng Dinh, thụy là Trung Dũng.
Năm Ất sửu (1805) vua Gia Long gia tặng là Tuyên Lực Tôn Thần Khai Phủ Phụ Quốc Nguyên Súy Thái Phó Nghị Công, thụy Trung Hiến, cho thờ ở Triển thân từ. Đến năm Giáp thân (1824) vua Minh Mệnh cho thờ ở Thế Miếu.
Năm Tân măo (1831) vua gia tặng là Tá Vận Tôn Thần Tôn Nhân Phủ Tôn Nhân Lệnh, cải thụy là Trung Hoài, phong tước An Biên Quận Vương.
Năm Canh tuất (1850) rước về thờ ở Thân Huân từ.
Ông vô tự.
11.3.3.6A
Nguyễn Phúc Thiển
(Thông Hóa Quận Vương)
Ông là con thứ sáu của đức Hưng Tổ, em cùng mẹ với đức Thế Tổ. Năm sinh không rơ.
Năm Ất mùi (1775) ông theo đức Duệ Tông vào Gia Định, thường hay đi đánh giặc.
Năm Quư măo (1783) quân Tây Sơn tấn công Sài Côn, ông theo Thế Tổ lánh ḿnh ra Phú Quốc. Đến đảo Diệp Thạch, địch đuổi theo kịp, ông bị bắt, mắng chưởi dịch cho đến chết.
Ông mất vào tháng 6 năm Quư măo (1783).
Năm Kỷ dậu (1789) ông được phong là Cẩm Vệ Y Chưởng Vệ Sự Cai Cơ, thụy Tráng Tiết.
Năm Ất sửu (1805) vua Gia Long tặng là Dực Vận Tĩnh Nạn Tôn Thần Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân thái Bảo Quốc Công, thụy Trung Mẫn, cho thờ ở Thái Miếu.
Năm Giáp tuất (1814) vua gia tăng là Tương Công, thờ ở Triển thân từ.
Năm Giáp thân (1824) vua Minh Mệnh cho thờ ở Thế Miếu. Năm Tân măo (1831) vua gia tặng Tà Vận Tôn Thần Tôn Nhân Phủ Tôn Nhân Phủ Tôn Nhân Lệnh, đổi thụy là Trung Tráng, phong tước Thông Hóa Quận Vương.
Năm Quư măo (1843) ông được rước về thờ tại Thân Huân từ.
Ông vô tự.
11.3.3.1B
Nguyễn Phúc Ngọc Tú
(Long Thành Công Chúa)
Bà là trưởng nữ của đức Hưng Tổ, chị cùng mẹ với đức Thế Tổ. Sinh năm Kỷ măo (1759).
Khi có loạn Giáp ngọ (1774), bà theo Hiếu Khang Hoàng Hậu ẩn náu ở làng An Dụ (Quảng Trị). Mùa xuân năm Kỷ hợi (1779) bà theo hậu vào Gia Định rồi lấy chồng là Cai Cơ Lê Phúc Điển. Năm Quư măo (1783) khi đánh nhau với quân Tây Sơn ở đảo Diệp Thạch, Phúc Điển phải cởi áo đổi cho Thế Tổ để Thế Tổ thoát ḿnh, nên bị địch bắt, ông mắng chưởi địch cho đến chết.
Khi chồng mất, bà c̣n trẻ tuổi, giữ tiết. Bà từng bảo rằng : "Điển làm bề tôi biết giữ nghĩa mà chết, ta làm vợ há đổi tiết sao, khi nào lấy lại Kinh đô cũ ta sẽ xuất gia thờ Phật". Thế Tổ khen chí của bà.
Đầu đời Gia Long, vua làm nhà tại lăng Dương Xuân, (Thừa Thiên) cho bà ở. Bà thường xin cắt tóc tu nhưng vua không cho.
Bà mất vào tháng 11 năm Quư mùi (1828), thọ 65 tuổi.
Khi bà bị bệnh nặng, Thánh tổ Nhân Hoàng Đế đến thăm, bà khóc tâu rằng : "Cắt tóc thờ Phật là ư nguyện của vị vong nhân (27), ư nguyện này chưa được toại, xin bệ hạ làm cho trọn ư nguyện đó. Sau khi chết xin chớ để tóc, và liệm bằng áo cà sa th́ dù ở dưới chốn cửu tuyền cũng hoàn thành được ư nguyện đó. Vua lấy làm cảm động.
Sau khi mất, Thánh Tổ đem lời đó bàn với em là Kiến An Công. Công tâu rằng : "Thân thể tóc da con người nhận từ cha mẹ, khi sinh ra trọn vẹn th́ khi mất cũng phải để như vậy mới là dúng lẽ. Bệ hạ trị v́ thiên hạ nên giữ chính đạo, trừ bỏ dị đoan, không thể nghe theo lời xin của Công Chúa được". Vua cho là phải, rồi sai Diên Khánh Công bàn với bộ Lễ lo việc tang cho bà.
Ba được ban thụy là Trinh Tĩnh, tặng Long Thành Thái Trưởng Công Chúa (28), tầm bà ở Định Môn, Hương Trà (thường gọi là lăng Hoàng Cô) bên cạnh lăng Thụy thánh của Hiếu Khang Hoàng Hậu.
V́ bà vô tự nên Thường Tín Công Nguyễn Phúc Cự, con của đức Thế Tổ, trông coi việc thừa tự.
11.3.3.2B
Nguyễn Phúc Ngọc Du
(Phúc Lộc Công Chúa)
Bà là con gái thứ hai của đức Hưng Tổ, mẹ là Từ phi họ Nguyễn. Bà sinh năm Nhâm ngọ (1762).
Mùa xuân năm Kỷ hợi (1779) bà theo Hiếu Khang Hoàng Hậu vào Gia Định, lấy chồn là Chưởng Hậu Quân Vũ Tính.
Năm Tân dậu (1801), thành B́nh Định bị thất thủ, Vũ Tính mất. Đầu đời Gia Long, vua xây nhà ở Xuân Ḥa, (Thừa Thien) cho bà ở. Tháng 6 năm Canh th́n (1820) bà mất, thọ 59 tuổi thụy là Nhu Gia. Năm Kỷ sửu (1829) bà được truy tặng là Phúc Lộc Thái Trưởng Công Chúa. Hiện bà được thờ ở nhà thờ họ Vũ thuộc phường Phú Cát, Huế.
Bà sinh được một con trai là Vũ Khánh và hai con gái.
11.3.3.3B
Nguyễn Phúc Ngọc Tuyền
(Minh Nghĩa Công Chúa)
Bà là con gái thứ ba của đức Hưng Tổ, mẹ là Từ phi họ Nguyễn tức em cùng mẹ với Phúc Lộc Công Chúa. Bà sinh năm Giáp dần (1764). Mùa xuân Kỷ hợi (1779) bà theo Hiếu Khang Hoàng Hậu vào Gia Định, rồi lấy chồng là Cai Cơ Nguyễn Hữu Thụy.
Mùa xuân năm Nhâm dần (1782) Tây Sơn đánh Sài Côn, bà cùng với chồng dẫn thuộc hạ đến Lộc Dă để chống giặc. Tướng địch là Nguyễn Văn Kim biết được đem quân đánh úp, quân của Hữu Thụy thua phải rút lui về giang Lăng, rồi địch tấn công, quân của Hữu Thụy tan vỡ, bà và chồng thất lạc nahu. Bà ngầm đến ở Ba Phủ, có người quê ở B́nh Hóa đem lương khô và làm nhà lá cho bà ở. Tướng địch Nguyễn Văn Kim ḍ thám biết tin bắt bà đưa về lũy. Đốc chiến của địch bức bách bà đưa về Sài Côn. Khi thuyền đến sông Tam Đà, bà v́ nghĩa không chịu nhục, nghiêm mặt mắng địch rồi nhạy xuống sông mà mất.
Bà mất vào tháng tám năm Nhâm Dần (1782), được 19 tuổi.
Năm Mậu tuất (1838) bà được truy tặng là Minh Nghĩa Thái Trưởng Công Chúa, thụy Trinh Liệt. Bà được thờ tại Triển Thân từ.
Bà vô tự.
11.3.3.4B Nguyễn Phúc Ngọc Uyển
Bà là con gái thứ tư của đức Hưng Tổ, mẹ là Tống Thị Diên, bà sinh năm Bính Tuất (1766).
Khi có biến năm Giáp ngọ (1774), bà v́ tuổi nhỏ, ẩn náu trong dân sau lấy chồng người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa là Tống Phúc Tín.
Mùa đông năm Canh ngọ (1810) bà mất, thọ 45 tuổi.
Bà sinh được bốn con trai và một gái.
11.3.3.1C
Nguyễn Phúc Dương
(Mục Vương)
Ông là con Thế Tử Nguyễn Phúc Hạo, cháu nội của Thế Tông Hoàng Đế, là em con chú của đức Thế Tổ.
Ônng tính t́nh nhân từ, mặt mày đẹp đẽ như tranh. Khi gặp loạn năm Giáp ngọ (1774), ông theo đức Duệ Tông vào Quảng Nam. Bọn Nguyễn Phúc Chất tâu với đức Duệ Tông lập ông làm Đông Cung Thế Tử mưu đồ việc khôi phục. Đông cung được lệnh ở lại trông coi Quảng Nam.
Quân Tây Sơn do Nguyễn Văn Nhạc điều khiển muốn bắt ông để mượn tiến sai bảo mọi người, nên đem quân tấn công. Ông bị Nhạc bắt đem về Hội An. Bây giờ Tống Phúc Hạp (29) dẫn quân từ Gia Định lấy lại Phú Yên, thế quân rất mạnh nên sai người đến Nhạc đ̣i lại ông. Nhạc phải đưa ông về An Thái. Nhạc lại muốn mưọn tiếng ông để thu phục nhân tâm nên đưa về Bồng Giang và gả con gái là Thọ Hương cho ông, và khoản đăi một cách tôn kính. Nhạc giả vờ lấy nghĩa phù lập Đông cung an định xă tắc để trá hàng, Hạp không pḥng bị nên bị đánh bại chạy về Vân Phong.
Năm Bính thân (1776) Nhạc thấy thế lực ḿnh mỗi ngày mỗi mạnh nên tự xưng là Tây Sơn Vương, đưa ông về chùa Thập Tháp. Mùa đông năm đó ông lén trốn về Gia Định.
Bọn Lư Tài trước đây bỏ Nguyễn Nhạc theo gíup Tống Phúc Hạp nghe ông trốn về, đến rước về Sài Côn và lập nên làm Tân Chính Vương, tôn Duệ Tông làm Thái Thượng Vương.
Năm Đinh dậu (1777) Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn đánh Sài Côn, ông bị thua phải lui về giữ Tranh giang. Duệ Tông cũng đến đấy. Duệ Tông bảo rằng : "Ta chống với giặc ở trước mặt Tài Phụ, c̣n cháu lo giữ Trà Luật, chưởng cơ Tống Phúc Thiệm đón ông về Ba Việt. Mùa thu năm đó các tướng đều bị bệnh chết, chỉ c̣n một ḿnh Tống Phúc Ḥa chiến đấu với địch. Ông thấy quân ít, thiều lương định chạy vào B́nh Thuận hợp binh với Chu Văn Tiếp. Việc chưa thành th́ giặc tấn công Ba Việt, Phúc Ḥa chết, ông sợ đồn binh bị thảm sát nên hứa với địch sẽ nạp ḿnh nếu để an toàn quân và dân trong đồn. Giặc bằng ḷng, ông giữ đúng lời hứa. Năm đó ông củng 18 người đi theo đều bị địch hại.
Ông mất vào ngày 18 tháng 9 năm Đinh dậu (18-10-1777).
Ban đầu ông được ban thụy là Hiếu Huệ Vương thờ tại Thái Miếu ở Gia Định. Năm Giáp tư (1804) vua Gia Long cải thụy là Cung Mẫn Anh Đoán Huyền Mặc Vĩ Văn Mục Vương.
Năm Kỷ tỵ (1809) vua cho cải táng đem về chôn tại Long Hồ (Hương Trà, Thừa Thiên), thờ chung tại miếu của thân sinh ông (30), cấp tự điền 100 mẫu, và cho Nguyễn Phúc Diệu làm cai đội lo việc thừa tự.
Năm Ất dậu (1825) vua ra lệnh lấy lại tự điền, cấp tiền trong kho để lo việc cúng tế.
11.3.3.1D Nguyễn Phúc Ngọc Thục
Bà là con gái của đức Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần, mẹ là Nguyễn Thị Châu. Bà sinh năm Binh thân (1776). Chồng bà là Uy Vũ Vệ úy Tống Văn Thịnh.
Bà mất vào tháng 7 năm Mậu dần (1818), thọ 43 tuổi, thụy là Huệ Trinh. Tẩm tại Dương Xuân (Hương Thủy Thừa Thiên).
(1) Đức Thế Tổ lúc nhỏ vốn có tên Chủng sau đức Hưng Tổ chọn một chữ trong bộ Nhật là để đặt tên cho ngài, gồm bên traí là chữ Nhật bên phải là chữ Anh (theo Sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu), bản dịch Đại Nam Thực Lục Chính Biên của Viện Sử học Hà Nội th́ chép bên trái chữ Nhật bên phải chữ Ương Nguyên hai chữ trên đều có cùng nghĩa, cùng âm. Theo phiên thiết ở Khang Hy tự điển học là Ánh nhưng âm Anh nên ngày trước đọc là Anh. V́ thế trong ḍng họ đều kiêng và đọc trại chữ Anh thành Yên,anh em th́ đọc thành yên em. Khi đức Duệ Tông nuôi ngài ở trong cung lại đặt tên là Noăn và sau lấy tên này làm tên chính. Các sách sử triều Nguyễn đều ghi tên húy này đầu tiên.
(2) Sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên chép ngài chạy về Côn Lôn rồi qua Phú Quốc, Tây Sơn đem ghe thuyền đến vây Côn Lôn đến ba ṿng, theo Maybon trong Histoire moderne du pays d'Annam th́ đức Thế Tổ lúc bị Tây Sơn đuổi đánh thế cùng không thể nào chạy xa xuôi nhiều ṿng từ Phú Quốc đến Côn Lôn, và quân Tây Sơn cũng không đủ thực lực vây đảo này đến ba ṿng. Côn Lôn ở đây có lẽ chỉ đảo Kohrong trong vịnh Xiêm La, là đảo nhỏ ở gần Phú Quốc.
(3) Bá Đa Lộc là phát âm của chữ Pedro tiếng Bồ Đào Nha, chữ này trong tiếng Pháp là Pierre, tên thánh của giáo sĩ Pigneau de Béhaine (tiếng Hán Việt gọi là Bi Nhu). Sau giáo sĩ mất tại Thị Nại và đưa về Gia Định an táng, lăng của giáo sĩ gọi là lăng Cha Cả.
(4) Khi giám mục Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp xin cầu viện, giám mục thay mặt đức Thế Tổ kư với De Montmorin Thượng Thư Bộ Ngoại giao Pháp thay Pháp hoàng một ḥa ước gọi là Ḥa ước Versailles gồm 10 điều khoản vào ngày 28-11-1787. Nhưng đến năm 1788 Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Ấn Độ được toàn quyền giúp Thế Tổ, đă tŕ hoăn không đưa quân giúp và gởi ư kiến về nước. Qua tháng 10 năm 1789 Tham Chính viện ở Pháp (Conseil d'Etat) bác đề nghị thi hành hiệp ước. Về sau khi đức Thế Tổ thu phục được đàng trong có viết thư để ngày 17 tháng chạp năm Cảnh Hưng thứ 50 (21-1-1791) gửi cho Pháp hoàng, đại ư cảm ơn và nói hiện đă thu phục được một phần giang sơn không cần cứu viện của Pháp nữa.
(5) Người trong nước trông ngóng quân của ngài từ Gia Định ra đánh Tây Sơn nên thời bấy giờ có câu ca dao c̣n truyền tụng đến giờ:
Lấy trời cho cả gió nồm,
Để cho chúa Nguyễn kéo buồn thẳng ra.
(6) Trong bài biểu Vũ Tĩnh cho người lén đưa ra khỏi thành dâng lên cho Thế Tổ có viết : "Tưởng giỏi, binh mạnh của Ngụy Tây Sơn đều ở tại đây. Phú Xuân hiện là thành trống không. Thực hiện kế này giống như lấy ngói đổi vàng. Chiếm được Phú Xuân mà đổi lấy một mạng của thần th́ thần cho là quá đủ".
(7) Khi Thế Tổ tiến đánh Thăng Long, vua Tây Sơn là Nguyễn Quang Toản cùng với các em là Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu, vượt sông Nhị Hà đến Xương Giang trú trong chùa Thọ Xương (thuộc Bắc Ninh), dân chúgn tràn đến bắt. Quang Thùy thắt cổ chế, c̣n Quang Toản, Quang Duy và Quang Thiệu bị bắt bỏ cũi đem nộp tại thành Thăng Long. Quân Tây Sơn bấy giờ hoàn toàn tan ră.
(8) tức núi Triệu Tường có lăng đức Triệu Tổ ở đó (thuộc huyện Tống Sơn, Thanh Hóa).
(9) hiến phu : hiến là dân lên, phu là tù binh, tức dâng lên những tù binh đả bắt được. Vua quan Tây Sơn đều bị giết vào tháng 11 này. Nhà Tây Sơn kể từ Nguyễn Huệ lên ngôi vua đến giờ được 14 năm.
(10) Trong Đại Nam Liệt
Truyện chép về Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) có ghi. "Huệ tàn ngược vô đạo, sơ cứ
đô thành giả, Liệt thánh chư tôn giai phạm chi" (Huệ tàn bạo vô cùng, lúc mới
chiếm cứ Kinh đô xâm phạm tất cả các lăng của Liệt thánh).
Tất cả các lăng tẩm từ đức Thái Tổ
đến đức Thế Tông đều bị phá hoại. Riêng về lăng của đức Hưng Tổ vào năm Canh
tuất (1790) quân Tây Sơn khai quật hài cốt đổ xuống sông trước mặt tức sông
Hương. Theo truyền thuyết sau khi thua đức Thế Tổ nhiều trận, Tây Sơn cho rằng
nhà Nguyễn Văn Ngữ đào lăng Hưng Tổ đổ xuống sông.
Trong Đại Nam Liệt Truyện tiền biên,
trong phần chép về Hoàng Nữ Ngọc Tuyền (con đức Thế Tông) có chép : "... gặp lúc
giặc Tây Sơn vô đạo phạm lăng tẩm các Liệt thánh, bà mật lệnh cho con rể là
Nguyễn Đức Duệ với lăo ni thân tín đến các xă Định Môn, Kim Ngọc, Cư Chính ngầm
khiến nhân dân tùy nghi bảo vệ, cho nên có người ở xă Cư Chính là Nguyễn Ngọc
Huyên chôn dấu Cơ thánh lăng ở nơi an ổn". Điều trên chứng tỏ các lăng đều bị
đào bới. Khi tu sửa các lăng, đức Thế Tổ cho an táng ở tại nơi cũ. Nhưng di tích
cũ chẳng c̣n lại một ǵ. Ngay các lăng của Hoàng Tử, Công Chúa từ đời Thái Tổ
đến Hưng Tổ cũng bị phá hủy.
Trong sử nhà Nguyễn dùng những chữ
nhẹ nhàng như "phạm", "xâm phạm" để chỉ hành động của Tây Sơn v́ là phép kỵ húy
trong việc dùng chữ trước các lăng của Liệt thánh.
(11) Theo giúp đức Thế Tổ khôi phục lại cơ nghiệp có rất nhiều người tài giỏi như Vũ Tính, Chu Văn Tiếp, Vũ Di Nguy, Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Ngô Tùng Chu ... Ngay những tướng Tây Sơn về hàng cũng hết sức pḥ tá như Lê Chất, Ngô Văn Sở ...
(12) Ngoài giám mục Bá Đa Lộc c̣n rất nhiều người Pháp theo giúp đức Thế Tổ trong việc khôi phục như Oliver de Puymane (Ông Tín), Phillipe Vannier (Ông Chấn), Jean Marie Dayot (Ông Trí), De Forcant (Ông Lăng), Laurent Bariay (ông Mân)...
(13) tức Hiếu Khang Hoàng Hậu mẹ đức Thế Tổ.
(14) Về sau khi định yên đất nước, bà đem dật vàng dân lên Thế Tổ, Thế Tổ noi : "Dật vàng làm tin c̣n, tất trời giúp cho ta không nên quên lúc gian nan, cần giữ lại cho con cháu cùng biết". Sau bà đem giao cho Thánh Tổ. Thánh Tổ cho khắc trên dật vàng các chữ "Thế Tổ Đế Hậu Quí măo bá thiên thời tin vật" (của làm tin của Thế Tổ Đế và Hậu khi bôn ba năm Quí măo), rồi cho đem thờ ở điện Phụng Tiên.
(15) Lúc hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (Thánh Tổ) được 3 tuổi, Thế Tổ khiến bà nuôi làm con, bà đ̣i phải làm giấy. Thế Tổ khiến Lê Văn Duyệt viết một tờ giấy ban cho bà, từ đấy hoàng tử Đảm vào Đại Nội hầu cận làm con của bà. Khi bà mất quần thần nhiều người bàn để cho Hoàng tôn Đán (Mỹ Đường) con của Hoàng tử Cảnh làm chủ tế, nhưng Thế Tổ bảo : "Hoàng tử tử là con của Hậu có khế hẳn hoi th́ phải đứng làm chủ tế. Việc quốc gia đại sự đâu có thể theo lê mọi nhà mà làm. Nguyễn Văn Thành lại cho là khó xưng hô trong chức văn . Thế Tổ bảo : 'con theo lệnh cha tế mẹ là danh chính ngôn thuận, có ǵ phải bàn'
(16) Lăng này khi xây Thế Tổ dựa theo phép cổ, hợp táng cả Đế và Hậu.
(17) Quan thư là tên của một thiên trong Kinh thi vịnh về đức của bậc Hậu phi.
(18) Tu Tề Trị B́nh là tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ của sách Đại Học, dùng để chỉ công việc của Thế Tổ.
(19) Ngũ đại đồng đường là năm đời cùng sống trong một nhà. Đây là lúc An Phong Quận vương Hồn Bảo con của đức Hiến Tổ sinh được con trai là Ủng Đạo. Tính từ Bà đến Ủng Đạo là 5 đời.
(20) Lăng Thiên Thụ hữu nằm bên phải của lăng Thiên Thụ.
(21) Ninh lăng là lễ an táng nhà vua, ở đây chỉ lễ an táng Thế Tổ Cao Hoàng Đế.
(22) Chiêu Liệt Hoàng Đế tức Lưu Bị đời Tam Quốc bên Trung Hoa, Lưu Bị được Gia Cát Vũ Hầu Khổng Minh pḥ tá như cá gặp nước.
(23) Trích văn tôn thụy bà vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846).
(24) Triển Thân từ ở Vân Dương (Hương Thủy, Thừa Thiên). Nhà thờ này gồm hai phần, phần trước gọi là Tiền từ gồm 9 gian xây năm Giáp tuất (1814). Phần sau gọi là Hậu từ gồm 7 gian 2 chái xây năm Nhâm th́n (1832). Tiền từ thờ các vị hoàng tử mất sớm, hậu từ thờ các vị hoàng nữ mất sớm.
(25) Thân Huân từ ở Tân An (Hương Thủy, Thừa Thiên) xây dựng năm Quư măo (1843) gồm 5 gian 2 chái. Ban đầu thờ Hải Quận Vương, Thông Hóa Quận Vương, Thuận An Công. Từ năm Canh tuất (1850) đem Tương Dương Quận Vương và An Biên Quận Vương vào thờ chung và đổi tên là Thân Huân từ.
(26) Tức đền thờ Thân Huân ở chú (25).
(28) Cách gọi theo Trung Hoa. Đời nhà Hán, chị và em gái của vua gọi là Trưởng Công Chúa. Đời nhà Đường, cô của vua gọi là Thái Trưởng Công Chúa.
(29) Tống Phúc Hạp là tướng dưới triều Thế Tông Hoàng Đế, giữ Long Hồ, tính khảng khái, có tài thao lược, xem việc đánh giặc là trách nhiệm của ḿnh. Khi mất mọi người đều thương xót, bỏ cày, bỏ buôn bán 3 ngày. Đầu đời Minh Mệnh ông được phong là Trung Đẳng thần.
(30) Miếu có tên là Tuyên Mục nhị Vương từ (có nghĩa nhà thờ của 2 Vương Mục va Tuyên) ở Long hồ, (Hương Trà, Thừa Thiên), xây dựng năm Giáp tư (1804) gồm chính đường và tiền đường thờ Tuyên Vương (Nguyễn Phúc Hạo) và Mục Vương (Nguyễn Phúc Dương).