Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | SUY NGÂM~ 10 | SUY NGÂM~ 11 | SUY NGÂM~ 12 | SUY NGÂM~ 13 | SUY NGÂM~ 14 | SUY NGÂM~ 15 | SUY NGÂM~ 16 | SUY NGÂM~ 17 | SUY NGÂM~ 18 | SUY NGÂM~ 19 | SUY NGÂM~ 20 | SUY NGÂM~ 21 | SUY NGÂM~ 22 | SUY NGÂM~ 23 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | VINH~ BIÊ.T | TUYÊ.T VÒ'I | TUYÊ.T VÒ'I [tt] | TUYÊ.T VÒ'I 1 | TUYÊ.T VÒ'I 2 | TUYÊ.T VÒ'I 3 | TUYÊ.T VÒ'I 4 | TUYÊ.T VÒ'I 5 | TUYÊ.T VÒ'I 6 | TUYÊ.T VÒ'I 7 | TUYÊ.T VÒ'I 8 | -DÔ.C -DÁO | -DÔ.C -DÁO [tt] | -DÔ.C -DÁO 1 | -DÔ.C -DÁO 2 | -DÔ.C -DÁO 3 | -DÔ.C -DÁO 4 | -DÔ.C -DÁO 5 | -DÔ.C -DÁO 6 | -DÔ.C -DÁO 7 | -DÔ.C -DÁO 8 | -DÔ.C -DÁO 9 | -DÔ.C -DÁO 10 | -DÔ.C -DÁO 11 | -DÔ.C -DÁO 12 | -DÔ.C -DÁO 13 | -DÔ.C -DÁO 14 | -DÔ.C -DÁO 15 | -DÔ.C -DÁO 16 | -DÔ.C -DÁO 17 | -DÔ.C -DÁO 18 | THÚ VI. | THÚ VI.[tt] | THÚ VI. 1 | THÚ VI. 2 | THÚ VI. 3 | THÚ VI. 4 | THÚ VI. 5 | THÚ VI. 6 | THÚ VI. 7 | THÚ VI. 8 | THÚ VI. 9 | THÚ VI. 10 | THÚ VI. 11 | THÚ VI. 12 | THÚ VI. 13 | TRÀO PHÚNG | CU'Ò'I CHÚT CHO'I

TA.P GHI 30

1chauhoa_cuctim_phuongthao.jpg
(Hinh LAM PHUONG THAO - SG)

 

THY TÔI

(CAO HUY THUẦN)

 

Hồi đó, tôi được sư cụ, thầy tôi, nhận vào làm tiểu. Tôi mười tuổi. Cha mẹ tôi nghèo xác xơ, phải bỏ làng đi kiếm ăn xa, gửi tôi cho sư để ăn nhờ chùa. Nhưng chùa lại cũng quá nghèo, thôn quê đã quá khổ cực, lại thêm nạn đói xảy ra trên một nửa đất nước, người chết đói lăn ra chết ngay giữa đường, trong thành phố, mọi người đều đói, chùa no với ai? Dù sao, chùa còn miếng đất, rau dưa trồng được, chỉ thiếu gạo. Nhưng mọi nhà đều phải khoai sắn trộn cơm thì chùa cũng phải cơm trộn khoai sắn, chỉ khác một chút là khoai sắn trong chén nhiều hơn, cơm ít hơn mọi nhà. Cực thì cực, dân quê vẫn gắn bó với chùa, khi người này khi người khác đem cúng một lon gạo, vài muỗng đường, vậy là chùa vẫn đàng hoàng chuông mõ kinh kệ cho làng nước. Tôi mời mười tuổi, tuổi ham ăn, nhưng tôi có số đi tu hay sao đó mà dù thiếu gạo, thèm cơm, vẫn thích ở chùa, chí đã quyết, không gì lay chuyển nổi. Ấy thế mà có một thử thách tôi không vượt qua được. Ôi, thử thách ấy lớn quá, Hy Mã Lạp Sơn cao ngất trời cũng không ăn thua gì.

 

Sư cụ tôi rất nghiêm minh, ngày rằm, mồng một, bao giờ mâm cúng cũng tươm tất, cực mấy cũng có chè xôi. Không có xôi chè thì không thành lễ, sư tôi nói như vậy. Nếp rất hiếm, hiếm hơn cả gạo, nhưng trộn với đậu thì xôi vẫn thơm ngon. Chỉ có chè là khó, vì đường quá khan. Sư tôi phải tiết kiệm tối đa, một chén chè được chia ra thành ba chén nhỏ, để mâm cúng vẫn đủ mỗi bên ba dĩa xôi, ba chén chè. Mâm được đặt trên một cái bàn nằm sau lưng chánh điện, trên đó thờ một tượng Phật bằng gỗ, rất đẹp. Tượng Phật ở chánh điện cũng rất đẹp, bằng đồng, to lớn, uy nghi. Trong chùa, chỉ có hai tượng ấy là quý, sư tôi nói không có chùa làng nào sánh kịp.

 

Tôi ở trong chùa được hai tháng, bưng mâm xôi chè dặt trên bàn thờ như vậy là được bốn lần, hai lần rằm, hai lần mồng một. Đến ngày rằm của tháng thứ ba, lần thứ năm bưng mấy chén chè nhỏ, tôi thèm quá chịu không nổi. Ở cái tuổi ấy, cơ thể đang lớn như thế ấy, thèm ăn như thế ấy, thèm đường như thế ấy, nước miếng cứ trào ra, tay cứ run. Tôi thắp nhang, lên đèn mà tay run quá, hai ba lần châm lửa không được. Nghe bước chân sư tôi ra tụng kinh trước chánh điện, tôi chạy vụt xuống bếp như chạy trốn. Tôi trốn tôi. Ở dưới bếp, tôi nóng ruột chờ sư tụng kinh xong để bưng mâm xuống. Sắp xôi chè lên mâm để bưng đi mà trống ngực tôi đập thình thình. Thường lệ, tôi phải vái Phật ba vái, tắt đèn, bưng mâm xuống bếp, trút ba chén chè nhỏ vào chén lớn, rồi bưng lên để sư tôi dùng bữa trưa, Sư tôi chỉ dùng nửa chén, nửa chén dành lại cho bữa chiều. Bốn lần trước nghiêm chỉnh như vậy, nhưng lần thứ năm này, tôi không chống cự nổi cơn thèm. Tôi bưng chén nhỏ thứ nhất toan đặt vào mâm, nhưng tay đưa lên miệng như cái máy, như không cố ý. Không thể diễn tả được khoái cảm của tôi khi lưỡi chạm vào vị ngọt, tôi tưởng như tôi bay lên trời. Nhưng lạ thật, tôi vẫn còn đủ tỉnh táo để tự nhủ rằng chỉ húp nước thôi, đừng húp luôn cả mấy hạt sen, tuy hạt sen đầu tiên đã toan xung phong vào miệng. Tưởngchỉ lỡ dại một chén thôi, nhưng cơn thèm vừa được nếm mùi lại đòi hỏi phải được chiếu cố đến mức tối đa, tôi húp luôn cả ba chén. Đặt ba chén không lên mâm, mắt tôi bỗng nhìn thấy tượng Phật mà tôi đã quên vái. Ánh đèn chiếu vào mặt Phật, lần đầu tiên tôi thấy nụ cười. Tôi sợ quá, xoay lưng Phật lại để Phật đừng nhìn tôi. Bưng mâm đi, ruột tôi bấn loạn, quên cả tắt đèn. Khi nhớ ra, tôi chạy lên thì sư tôi, không biết để quên cái gì đó khi tụng kinh, đã đến trước chánh điện để tìm. Thấy đèn sáng, sư đi vào bên trong, đứng tần ngần một lát, nhẹ tay xoay lại tượng Phật cho thẳng, tắt đèn, rồi đi ra, ngồi trên phản để chờ bữa ăn.

 

Lúc đó, mồ hôi tôi toát ra, không biết làm thế nào bưng chén chè cho sư tôi dùng bữa. Cơm sắn khoai, thầy trò tôi ăn giống nhau, nhưng lễ nghi, sư tôi giữ rất kỹ, chén đũa ngay ngắn, mâm gỗ sạch sẽ, tôi đặt mâm lên phản, vái sư rồi mới đi xuống. Sư tôi chỉ hơn tôi một chén chè, hai ngày trong một tháng, vì đó là hai ngày phải đọc kinh lâu, các thí chủ cưng sư, đặc biệt bắt sư ăn vị ngọt để khỏi khan giọng, và sư tôi ăn để nhớ ơn người cho. Nhưng khi đó, chè đâu nữa để tôi bưng lên cho sư? Tôi nghe sư đằng hắng một tiếng từ trên phản, như muốn nhắc tôi bưng cơm. Chẳng suy nghĩ ất giáp gì nữa, tôi đổ nước lạnh vào chén, khuấy hạt sen để mong nó nhả ra chút chất ngọt còn lại, lẩm bẩm nam mô Phật để cầu Phật độ, rồi chân bước mà ruột đau thót.

 

Sư tôi dùng bữa như thường lệ, ăn chè như thường lệ, để dành nửa chén như thường lệ, lấy chiếc lồng bàn nhỏ úp lên chén chè như thường lệ, đi vào phòng nghỉ trưa như thường lệ. Tôi không biết tôi mừng thầm, tôi nhẹ nhàng ruột gan, hay tôi bối rối. Hình như có cả ba cảm giác trái ngược nhau lúc đó. Mừng, vì thấy sư không nói gì. Nhẹ ruột, vì thoát được cơn tai biến. Nhưng bối rối vì không hiểu sự việc tại sao lại êm thắm như vậy. Tại sao sư không quở tôi đã quên tắt đèn? Tại sao sư không hỏi tôi về cái chuyện lạ lùng tượng Phật xoay lưng? Chuyện ấy, tôi chắc sư không tha thứ được. Rồi tại sao sư ăn chén chè nhạt thếch như vậy mà không có phản ứng? Chẳng lẽ mấy hạt sen ấy biến lại thành ngọt?

 

Suốt cả buổi chiều, tôi ở trong tâm trạng bất an, chờ đợi sư tôi nghỉ trưa xong để xem sư có phản ứng gì mà chưa nói, trong bụng cồn cào như mây vần vũ đợi giông. Nhưng suốt cả buổi chiều, sư vẫn làm vườn như thường lệ. Làm vườn đến chiểu tối, như thường lệ sư dùng cơm. Tôi hồi hộp chờ xem sư nhấc lồng bàn lên, lấy nửa chén chè ra. Sư ăn như thường lệ, thong thả, miệng móm mém nhai từng hạt sen, húp từng thìa nước, như người thưởng thức món ăn ngon.

 

Tôi tưởng như vậy là hoàn toàn thoát ra khỏi cơn động đất. Nhưng không, đến đêm tôi bỗng nhớ lại cử chỉ khốn khổ của tôi khi xoay lưng tượng Phật, tôi nhớ lại nụ cười của Phật mà tôi tránh, tượng Phật và nụ cười cứ ở trước mắt, dù mắt nhắm, không tài nào ngủ được. Gần sáng, tôi mơ một giấc mơ hãi hùng.

 

Tôi thấy một con quỷ to tướng, lông lá đen thui, lưỡi đỏ như lửa, nghênh ngang đi vào chánh điện. Nó nhìn quanh nhìn quất, lớn tiếng hỏi: "Đứa nào ở trong này?". Tôisợ quá, kéo mền che kín mít, nhưng vẫn thấy. Nó đi dọc đi ngang, rồi đến gần chỗ tôi nằm, quát: "Đứa nào ở đây?". Nhưng nó không kéo mền tôi ra mà đến trước tượng Phật, nhìn lên, hỏi: "Ông là ai?". Không thấy trả lời, nó hét: "Là ai? Xuống đây!". Nó trừng mắt nhìn, hai mắt lồi ra như hai cục than hồng. Thấy Phật im lặng, nó vớ lấy cái dùi chuông ném lên, rồi ôm lấy cả cái chuông vất lên mặt, vừa vất vừa mắng chửi. Nhang đèn trên bàn thờ rơi xuống ngả nghiêng, rơi cả vào đầu tôi. Trên bệ, chỉ còn Phật ngồi với nụ cười. Con quỷ xông đến xô luôn bức tượng, tượng ngã nhào xuống đất. Mất đà, con quỷ ngã theo, tượng Phật đè lên nó. Trong lúc vùng vẫy để đẩy tượng ra, nó nhìn lên mặt Phật: bên trên mặt nó, Phật vẫn im lặng với nụ cười.

 

Đến đó thì tôi cảm thấy tôi ngạt thở vì dường như bức tượng không đè lên con quỷ mà đè lên tôi. Tôi sợ quá, hét lên, vì con quỷ đã biến thành tôi, tôi nhìn lên chứ không phải nó. Tôi nhìn lên và thấy Phật nhìn tôi, mỉm cười. Tôi thức giấc, ra giếng tắm.

 

Tôi sợ nụ cười ấy trong suốt nửa tháng. Có phải Phật cười tôi vì bắt được quả tang tôi phạm tội? Tôi sợ đến nỗi, nửa tháng sau, trưa mồng một, khi đặt mâm xôi chè trên bàn thờ, tôi không dám nhìn tượng Phật. Trưa đó, sư tôi ăn như thường lệ, nhưng khi ăn xong chén cơm, sư kêu tôi lên, bảo tôi xuống bếp lấy thêm một chén không. Sư nói: "Bụng sư hơi đau, già rồi, từ nay không nên ăn chè bữa tối. Con sớt ra nửa chén, nửa kia con đem xuống bếp ăn". Tôi không ngờ có cái giây phút rung chuyển ấy, đầu gối tôi quỵ xuống, tôi ôm chân sư tôi, đầu áp vào gối sư, tưởng là để thú tội, nhưng sung sướng tràn ngập, nói không ra lời. Tôi khóc. Có bao nhiêu nước mắt trong người, tôi muốn tràn ra hết. Sư đặt tay lên vai tôi, không nói.

 

Từ đó, mười tuổi, tôi hiểu thế nào là im lặng, thế nào là nụ cười của đức Bổn Sư.

 

CAO HUY THUẦN

(Kim Oanh P. sưu tm và chuyn)

 

1chauhoa_cuctim_phuongthao.jpg
(Hinh LAM PHUONG THAO - SG)

website counter