ĐỨC THÁI TỔ GIA DŨ HOÀNG ĐẾ
HÚY
NGUYỄN HOÀNG
(1525 - 1613)
Hệ II
2.1. - THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế húy Nguyễn Hoàng, con thứ hai của đức Triệu Tổ Nguyễn Cam và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Mai. Ngài sinh ngày 10 tháng 8 năm Ất dậu (28-8-1525).
Lúc mới hai tuổi, đức Triệu Tổ gởi ngài cho em vợ là Nguyễn Ư Kỷ nuôi nấng. Ngài được cậu hết ḷng chăm sóc.
"Thực Lục" chép: "Ngài có tướng vai lân, lưng hổ, mắt phượng, trán rộng, thần thái khôi ngô, thông minh tài trí, người thức giả biết là bậc phi thường."
Năm Ất tỵ (1545) đức Triệu Tổ mất, lúc ngài 21 tuổi, được tập phong tước Hạ Khê Hầu. Ngài đem quân đánh nhà Mạc, giết tướng Mạc trở về, được vua Lê khen: " Thực là cha hổ sinh con hổ."
Đời Lê Trang Tông, ngài được tấn phong tước Đoan Quận Công. Khi Trịnh Kiểm chuyên quyền, ám hại Lăng Quận Công Nguyễn Uông (anh của ngài), ngài nghe mưu của cậu là Nguyễn Ư Kỷ, cáo bệnh giữ ḿnh. Hiểu ư câu nói của Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dugn thân" và theo lời khuyên của cậu, nhở chị lả Ngọc Bảo xin với Trịnh Kiểm (chồng của bà Ngọc Bảo) cho vào trấn dất Thuận Hóa.
Năm Mậu ngọ (1558), ngài đem những người đồn hương huyện Tống Sơn và nghĩa dũng xứ Thanh Hóa vào đóng ở xă Ái Tử huyện Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Ngài vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhân mến phục, thường xưng tụng là Chúa Tiên.
Năm Canh ngọ (1570), ngài dời đô qua làng Trà Bát cũng thuộc huyện Vũ Xương. Năm này ngài được phong làm Tổng trấn Tướng quân kiêm lănh hai xứ Thuận - Quảng.
Năm Nhâm ngọ (1572), tướng Mạc là Lập Bạo đem quânvào đánh Thuận Hóa bị ngài đánh bại giết chết.
Năm Quí dậu (1573), vua Lê Thế Tông lên ngôi, sai sứ đem sắc tấn phong ngài chứa Thái Phó.
Mướ năm trấn nhậm với chính sách rộng răi, quân lệnh nghiêm trang nên nhân dân được an cư lạc nghiệp. Chợ không bán hai giá, người không có trộm cướp, đêm ngủ không phải đóng cửa. Thuyền buôn ngoại quốc đến buôn bán đông đúc. Xứ Thuận - Quảng trở thành nơi đô hội lớn.
Năm Quư tỵ (1593), Trịnh Tùng dẹp nhà Mạc, rước vua Lê trở về Đông đô, ngài đem quânra yết kiến được vua phong chức trung quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc chưởng phủ sự, Thái úy Đoan Quốc Công. Ngài ở Đông đô 8 năm, thường đem quân đi đánh dẹp tàn quân nhà Mạc, đánh đâu thắng đó.
Năm Ất mùi (1595), ngài được cử làm Đề diệu khoa thi Tiến sĩ.
Năm Kỷ hợi (1599), vua Lê Thế Tông băng, vua Kính Tông lên ngôi, tấn phong ngài làm Hữu tướng.
Ngài ở Đông đô lập nhiều công, Trịnh Tùng không cho ngài trở về Thuận Hóa v́ sợ "Thả hổ về rừng".
Năm Canh tỵ (1600), ngài lập kế đi đánh Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê rồi đem tướng sĩ, binh thuyền theo đường biển về Thuận Hóa. Ngài dời dinh sang phía đông Ái Tử gọi là dinh Cát. Muốn Chúa Trịnh khỏi nghi ngờ, ngài để một người con là Nguyễn Hải và một cháu là Nguyễn Hắc ở lại làm con tin và về sau gả con là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, con cả của Trịnh Tùng. Vua Lê và Chúa Trịnh sai sứ vào phủ dụ.
Năm Nhâm dần (1611), quân Chiêm xâm lấn bờ cơi, ngài đem quân đánh dẹp, lấy vùng đất biên giới lập thành phủ Phú Yên.
Năm Tân sửu (1601), ngài cho xây chùa Thiên Mụ (1)
Năm Quư sửu (1613), ngày mồng 3
tháng 6 (20-7), ngài yếu, cho triệu Thế tử và Thân thần đến trước ngự sàng bảo
rằng: " Ta với các ông cùng nhau cam khổ đă lâu, muốn dựng nên nghiệp lớn. Nay
ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông vui ḷng giúp đỡ cho nên công nghiệp."
Rồi ngài dặng Thế tử: " Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, anh em phải
thương yêu nhau. Con mà giữ được lời dặn đó th́ ta không ân hận ǵ." Ngài lại
nói: "Đất
Thuận - Quảng, Bắc có Hoành sơn và sông Gianh hiểm trở, Nam có núi Hải Vân và
núi Thạch Bi bền vững. Núi sẵn vàng, sắt; biển sẵn cá, muối thật là đất dụng vơ
của người anh hùng. Nếu biết dạy dân, luyện binh chống với họ Trịnh th́ đủ xây
dựng cơ nghiệp muôn đời. v́ bằng thế lực không thể địch được th́ cố giữ đất đai
chờ cơ hội, đừng bỏ qua lời dặn của ta." Dặn ḍ xong ngài băng, ở ngôi 56 năm,
thọ 89 tuổi.
Đức Thái Tổ gia Dũ Hoàng Đế là vị Chúa đầu tiên khai sáng nhà Nguyễn, đồng thời là người đặt nền tảng cho việc gây dựng cơ nghiệp triều Nguyễn sau này.
Với tổ chức chính sự rộng răi, có qui củ, sưu thuế nhẹ quân lệnh nghiêm trang, lấy sự an cư lạc nghiệp của dân làm gốc, ngài đă mỡ đầu cho sự phát triển nửa nước trù phú về phía Nam của dân tộc Việt. Dưới thời ngài, biên giới đất nước đă đến tận Phú Yên.
Ngài thuộc đời thứ hai của họ Nguyễn Phúc, khai sáng ra hệ II hiện nay gồm có 3 pḥng:
1. Pḥng một tức là pḥng Ḥa Quận Công
2. Pḥng bốn tức là pḥng Hào Quận Công
3. Pḥng mười tức là pḥng Nghĩa Hưng Quận Vương
2.2. - LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN
Ngài mất, lúc đầu táng ở núi Thạch Hăn thuộc huyện Hải Lăng (Quảng Trị), sau cải táng về núi La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long đặt tên lăng là Trường Cơ, vua Minh Mạng đổi tên núi La Khê là Khải Vận sơn.
Năm Giáp tư (1804), vua Gia Long cho dựng Thái Miếu ở phía trước Triệu Miếu, gồm 13 gian hai chái để thờ các Chúa và công thần đời trước. Ngài và Hoàng Hậu được thờ ở án chính giữa (2). Bên tả Thái Miếu có dựng điện Long đức để tổ chức lễ kỵ.
Khi ngài mất, vua Lê truy tặng: "Cần Nghĩa Công " thụy là Cung Ư.
Đời Chúa Săi, ngài được truy tôn: "Cần Nghĩa Đạt Lư Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dũ Vương."
Đời Vũ Vương, ngài được truy tôn: "Liệt Tổ Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung Ư Cần Nghĩa Đạt Lư Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dũ Thái Vương."
Vua Gia Long truy tôn: "Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung Ư Cần Nghĩa Đạt Lư hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dũ Hoàng Đế." Miếu hiệu là Thái Tổ.
2.3. - GIA Đ̀NH
2.3.1. Hậu và phi
Theo số lượng Hoàng tử và Hoàng nữ và một vài gia phả th́ ngoài chính phu nhân (Hoàng Hậu) ngài có thêm 2 bà nữa nhưng danh tánh và tiểu sử các vị này không rơ.
2.3.1.1 Nguyễn (phu nhân )
Thái tổ Gia Dũ Hoàng Hậu
Bà họ Nguyễn, tiểu sử không rơ.
Bà mất ngày 16 tháng 5 Âm lịch, năm mất không rơ. Lăng táng tại làng Hải Cát (Hương Trà, Thừa Thiên). Năm Giáp tư (1744) Vũ Vương truy tôn: "Từ Lương Quang Thục Ư Phi", sau thêm hai chữ Minh Đức. Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn: "Từ Lương Quang Thục Minh Đức Ư Cung Gia Dũ Hoàng Hậu." Bà được phối thờ với đức Thái Tổ ở Thái Miếu. Tên lăng là Vĩnh Cơ.
Trong văn sách truy tôn có hai câu:
"Cầm búa dựng nước là công của đức của Thánh.
Mang ngọc quí trị nhà do ân từ của Hậu."
Bà chỉ sinh một người con là Nguyễn Phúc Nguyên (Hy Tông Hoàng Đế).
2.3.2.
Hoàng tử và Hoàng nữ
Đức Thái Tổ có 10 Hoàng tử và 2 Hoàng nữ
Hoàng tử | Hoàng nữ |
1. Nguyễn Hà | 1. Nguyễn Phúc Ngọc Tiên |
2. Nguyễn Hán | 2. Nguyễn Phúc Ngọc Tú |
3. Nguyễn Thành | |
4. Nguyễn Diễn | |
5. Nguyễn Hải | |
6. Nguyễn Phúc Nguyên | |
7. Nguyễn Phúc Hiệp | |
8. Nguyễn Phúc Trạch | |
9. Nguyễn Phúc Dương | |
10. Nguyễn Phúc Khê |
2.3.3 Anh chị em
2.3.3.1A. Nguyễn Uông
Lăng Quận Công
Ông húy là Nguyễn Uông, con trưởng của đức Triệu Tổ. Tiểu sử không rơ.
Lúc đức Triệu Tổ mất, ông được tập ấm là Lăng Xuyên Hầu, sau được tấn phong là Tả tướng Lăng Quận Công.
Trịnh Kiểm muốn tranh đoạt quyền bính nên ám hại ông. Ông mất ngày 11 tháng giêng Âm Lịch, năm mất không rơ. Lúa đầu mộ táng ở Thanh Hóa, sau cải táng đến vùng Long Thọ làng Dương Xuân Thượng (Thừa Thiên), Lăng và phủ thờ đều ở Long Thọ.
Ông có một người con trai là Nguyễn Uyên theo đức Thái Tổ vào Nam làm quan đến chức Đề lănh Thượng khố Đội trưởng.
Ông đứng ra pḥng Lăng Quận Công hệ I trong Nguyễn Phúc Tộc.
2.3.3.1B. Nguyễn Thị Ngọc Bảo
Vương Thái Phi
Bà húy là Nguyễn Thị Ngọc Bảo, chị của đức Thái Tổ. TIểu sử không rơ. Theo gia phả họ Nguyễn ở Bồng Trung, mẹ bà họ Đỗ.
Năm Quí tỵ (1533), đức Triệu Tổ gả bà cho Trịnh Kiểm, Đức Thái Tổ bị Trịnh Kiểm ghen ghét nhiều lần muốn mưu hại. Bà biết ư thường khéo dùng lời khuyên ngăn chận, t́m cách xin chi Thái Tổ vào trấn thủ Thuận Hóa.
Mùa thu năm Bính tuất 91586), cung chúa Trịnh bị hỏa tai, bà bị nạn mà mất. Bà được truy tặng là Vương Thái Phi, thụy là Từ Nghi.
Bà sinh ra Trịnh tùng kế nghiệp Trịnh Kiểm làm Chúa phương Bắc.