"Chất phác, đơn giản, thành thực": là ba điểm
đầu tiên mà chúng ta nhận thấy khi giao tiếp với
người miền Nam.
Họ không gian xảo
hay khách sáo, ăn uống sanh hoạt giải trí không đ̣i
hỏi nhiều tiện nghi, không nói quanh co úp mở, bô lô ba
la và thích xưng hô b́nh dân:
"Bước vô
Trường-Án, vỗ ván cái rầm
Búa xua ông Tham-Biện
bạc đầu ông để đâu"
Có một câu nói vui
để ám chỉ về tánh cách b́nh dân của người
miền Nam: "Hôm qua qua nói qua qua. Hôm nay qua nói qua hổng
qua mà qua qua".
Giáo sư Thanh Lăng
đă nhận định về các tác giả Hồ Biểu
Chánh, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Kư là những
người miền Nam như sau: ".. Ông đặt vào
vai miệng các vai truyện của ông những ngôn-ngữ
đơn sơ chất phác, Hồ-biểu-Chánh đă để
tâm quan sát, nghe ngóng và ghi lại được tiếng nói
của từng người. Lần đầu tiên, trong tiểu
thuyết Việt-Nam, người ta thấy giữa bạn
bè, giữa vợ với chồng những cách xưng hô
b́nh dân "mày, tao". Hơn thế, Hồ-biểu-Chánh
c̣n là văn-sĩ của miền Nam, dùng tiếng địa-phương.
Văn của ông là văn cùng chung truyền thống với
Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Kư
.. tức là nói và viết "tiếng A-Nam ṛng" là
viết tiếng Việt "trơn truột như lời
nói". Cái chủ trương của Trương Vĩnh
Kư cũng là chủ trương của các nhà văn miền
Nam "chống lối văn đài-các miền Bắc".
Chính Hồ biểu
Chánh đă mượn lời một nhơn vật trong tiểu
thuyết của ông để giới thiệu cá tánh
người miền Nam:
"Ừ, ở
đây mọi người đều như vậy hết
thảy. Có cái ǵ trong bụng th́ trút ra hết, không thèm giấu
giếm v́ ghét cái thói phách lối, láo xược, giả dối,
bợ đỡ ..".
Tác giả Việt
Cúc khi đề cập người xưa G̣ Công cũng cho
họ có "tánh tính thuần phác" và "mặc dầu,
tứ dân, tứ thú: Sĩ, nông, công, thương, hoàn cảnh
có khác nhau, nhưng chung đúc có 1 tấm ḷng, một bổn
năng hay ư tưởng, là t́nh chơn thật mà thôi".
Chúng ta hăy nghe
Sơn Nam kể một giai thoại ám chỉ tánh thành thật
của người miền Nam: " .. Lại
c̣n chuyện "ma ăn ở ngay thẳng" mà người
Miên gọi là "người lương thiện" những
người bí mật ở giữa rừng. Vào mùa lúa chín,
thỉnh thoảng vài bó rơm từ trên rừng trôi xuống.
Đêm sáng trăng, đâu đó từ ngọn tràm xa xôi vang
lên tiếng cười, tiếng chày giă gạo, gà gáy chó sủa.
Ai đánh bạo dám vượt śnh lầy th́ đến
nơi nào đó t́nh cờ gặp xóm nhà cao ráo, có chó chạy
ngoài sân, trong nhà cơm dọn sẵn, món ăn vơi lần
hồi, những cái hũ rượu nhấc lên hạ xuống,
trong bếp th́ lửa cháy, khúc củi từ từ đút
vào ḷ. Dân trong vùng tin rằng đó là nơi cư ngụ của
những người khuất mặt, chẳng bao giờ
người phàm mắt thịt thấy được.
Đến hôm nọ, một thằng bé giữ chim ở
sát ven rừng bị mất tích. Ngày qua tháng lại chẳng
ai t́m gặp xác nó. Chuyện bị lăng quên. Đôi ba năm
sau, thằng bé lại về xóm, thuật lại đầu
đuôi tự-sự: Hôm xưa ngồi tại cḥi, nó gặp
ông lăo lạ mặt rủ đi chơi. Nó đến xóm giữa
rừng, ông lăo gả con gái cho, hai vợ chồng ăn ở
sanh một con. Đời sống thảnh thơi đủ
ăn đủ mặc, ban ngày vợ ra đồng cày cấy,
chồng ở nhà giữ con, uống rượu. Thế rồi
đất bằng sóng dậy. Một hôm con khóc, nó dỗ
con rằng: "Đừng khóc, mẹ mày đi mua bánh, lát
nữa đem về cho mày ăn". Khi người mẹ
về, đứa con khóc đ̣i bánh, hỏi ra th́ biết rằng
nó đă nghe lời nói dối của cha. Chuyện ấy lại
thấu tai ông lăo, ông lăo đến gặp chàng trai cho biết
rằng ở xứ nầy cấm nói dối, ai nói dối
th́ bị đuổi đi nơi khác. Nói xong, ông lăo nắm
tay chàng trai, đưa vào rừng. Một đỗi thấy
đồng cỏ trước mặt, ông lăo bèn nói:
"Trước kia, quê quán mầy ở đó, chỗ có mấy
ngọn cau. Mầy theo hướng đó mà về". Nói
xong, ông lăo quay mặt, mất dạng. Chàng cứ bước
tới, thỉnh thoảng day lại để nhận ra vị
trí của quê-hương vợ. Hễ chàng đi tới
th́ rừng cây cứ mọc thêm, lấp phía sau lưng. Chàng
về xóm, sống với người phàm mắt thịt
mà tâm-trí cứ bâng-khuâng, vừa hờn giận, vừa hối-tiếc.
Trong xóm kẻ th́ sợ sệt, kẻ th́ chế giễu,
xem giai thoại mà chàng kể như những ảo tưởng
của người bị ma bắt, ma giấu, nghĩa là
khật khùng. Không rơ từ đó người ta gặp những
bó rơm trên rừng trôi về hoặc nghe tiếng giă gạo
xa xôi nữa chăng? Chỉ biết là mươi năm
sau, một đêm trăng tỏ ai nấy đều nghe tiếng
khuấy nước ào ào dưới rạch, xen lẫn tiếng
heo kêu, trẻ khóc. Hàng chục chiếc xuồng từ phía
rừng sâu bơi xuống. Biết rằng đó là những
người khuất mặt, người trong xóm hỏi thử:
- Bà con đi
đâu vậy?
Họ trả lời
rằng bấy lâu họ ở giữa rừng, đêm nay
phải dời qua xứ khác v́ xứ này khó ở. Một bọn
người sắp chiếm cứ, bọn đó gian xảo
giả dối, không thể nào sống gần được.
- Nhưng đi
đâu?
- Đi về một
nơi xa lắm, ở trên núi cao trên trời.
Tụi tui đi
đây! Và ai nấy ngạc-nhiên khi thấy mấy chiếc
xuồng ấy từ-từ bay lên, hổng mặt nước
rồi lơ lửng, rút lên mây bạc. Vài tháng sau, quả
thực thực dân Pháp đến ven rừng U Minh, hồi
cuối thế kỷ 19, sau khi dẹp cuộc khởi nghĩa
của ông Nguyễn Trung Trực".
Chúng ta hăy thưởng
thức câu ḥ t́nh tứ nhưng thẳng như ruột ngựa
của cậu trai xưa ở miền Nam đáp lại cô
gái trong một buổi cấy lúa:
" - Anh
thương em, anh sắm cho em bộ áo dài màu cà, màu huyết.
Anh đây nói thiệt, chẳng phải nói càn. Anh đây sắm
cho em một cây kiềng vàng chạm ṭng chạm bá, một
bộ cà-rá có chạm cửu-long huờn. Anh sắm cho em áo
túi đủ màu, lục soạn. Anh chỉ sắm cho anh một
cái nón lá đáng giá hai đồng xu. Ăn cơm rồi,
anh hút thuốc rê vấn lá trâm bầu. Miễn cho anh đặng
chữ ăn nằm, t́nh chồng nghĩa vợ, cực khổ
ǵ anh cũng chẳng có than!".
"Ôn ḥa, thực tế" : Người miền
Nam " (..) đă khéo dung ḥa lẫn nhau mà sống, không tỏ
ra quá khích, sao cho nếp sống tôn giáo hoặc quan điểm
chánh-trị của ḿnh không làm hại trực-tiếp đến
quyền lợi của bà con lân cận.
Không kỳ thị
tôn-giáo hoặc thói ăn nết ở của kẻ khác.
Đồng thời,
tự kiềm chế để sửa đổi cho nếp
sống của ḿnh đừng trở thành thù nghịch với
người khác. Ai thích chùa chiền, thích đi nhà thờ,
thích lên đồng bóng, chưng dọn theo Tây, theo Tàu th́ cứ
tha hồ. Tôn giáo nào cũng tốt, miễn là cổ xúy cho
t́nh nhơn loại, ḷng từ bi bác ái, làm lành lánh dữ,
không dùng vơ lực và quyền thế để lấn hiếp
kẻ nghèo nàn. Đường lối chánh-trị nào cũng
tốt hết, nếu nhằm vào mục-đích đánh
đổ ách nô-lệ ngoại bang (..) Người có trong
nhà năm bảy bàn thờ không ghét kẻ không bàn thờ
nào cả. "Ḿnh không theo đạo Phật hoặc Thiên
chúa nhưng hễ bên lễ ấy bày lễ lộc ḿnh nên
tham-gia .. cầu vui với anh em". Cúng
đ́nh là dịp để giải trí, gặp t́nh nhơn,
cờ bạc hoặc bỏ tiền ăn uống."
"Chiều chiều
dạo, chống ba ton.
Ba ngôn bốn ngữ
cũng liều xanh căn xu .."
Lễ hội truyền
thống như Lễ Hội Bà Chúa Xứ (vía Bà) ở núi
Sam Châu Đốc (25 tháng tư), Lễ Hội Đền Bà Đen ở
Tây Ninh (rằm tháng giêng), Lễ Hội Cúng Cá Voi ở các
vùng ven duyên hải (ngày giờ tùy vùng), Lễ Hội Thánh Địa
Ḥa Hảo ở làng Ḥa Hảo Long Xuyên (18 tháng năm âm lịch)
..đă diễn ra trong nhiều
ngày thu hút hàng trăm ngàn người, không những là tín
đồ mà c̣n là du khách.
Người miền
Nam cũng có tánh ôn ḥa, người miền Nam ôn ḥa là do óc
thực tế. Họ phải dời chỗ nếu nơi
khai phá không đủ điều kiện sanh sống mặc
dầu đă mệt mỏi muốn an cư. Tôn sợ thần
thánh ma quỷ nhưng vẫn phải "phá sơn lâm
đâm Hà Bá" sau khi khấn vái cẩn-thận và không quên
thờ phượng dưới bóng cổ thụ hay ở
ven sông. Họ biết tận dụng mọi phương
tiện và tùy hoàn cảnh để sống.
Ngoài ra họ c̣n tận
dụng lá dừa thay thế cỏ tranh để cất
nhà không như khi c̣n ở miền Trung. Khí-hậu oi bức,
trong Nam, họ không c̣n ăn vận chĩnh chạc như
xưa mà mặc quần xà lỏn, quấn khăn và có khi ở
trần trùi trụi. Túm lại, gặp nhiều gian khổ
(đến nổi phải "ngủ mùng gió", "ngủ
mùng nước")
"U-Minh, Rạch-giá,
thị quá sơn-trường
Dưới sông sấu
lội, trên rừng cọp đua".
Nên họ phải
biết sống với thực tế, mà muốn sống với
thực tế phải dung dưỡng, ôn ḥa với mọi
người, mọi hoàn cảnh. Chính Sơn Nam đồng
ư: "Óc thực-tế giúp người Miệt Vườn
giải quyết được một số vấn đề
gay-go như làm cách nào dung ḥa Tây phương và Đông
phương; dung ḥa những thành kiến hoặc nét dị
biệt về dân tộc giữa người Việt,
người Miên, người Tàu. Cái ǵ thích hợp th́ cứ
áp-dụng (nấu cà-ri Ấn độ để cúng ông
bà, ăn với bánh ḿ Tây), ai tử-tế th́ chơi thân,
chú-trọng vào cuộc sống ở thế-gian, đem
thiên-đường xuống mặt đất ngay trong kiếp
nầy, ghét lư luận viển vông, tán thành những nét
cơ bổn của mọi triết lư, mọi tôn giáo".
Hiếu khách: Chúng ta hăy nghe Quách Tấn, một
nhà thơ miền Trung, kể lại mẫu đàm thoại
giữa ba người gồm vợ chồng nhà thơ
Đông Hồ khi tiếp ông ta tại tư gia của nhà
văn Nguyễn văn Xung ở Gia Định:
"Mộng-Tuyết
nhắc:
- Chắc anh Tấn
chưa ăn cơm.
Đông-Hồ
cười:
- Chớ ḿnh đă
ăn đâu.
- Nhưng ḿnh ngồi
lâu quá sợ làm phiền chủ nhơn.
- Năm thuở
mười th́ ḿnh mới làm phiền một lần, chớ
có phải ngày nào cũng đến đâu mà ngại. Phải
không anh Tấn? Lâu lắm chúng ḿnh mới gặp nhau.
Một giáo sĩ
người Ư đă viết về tánh t́nh người miền
Nam như sau: "Ở Việt-Nam th́ trái hẳn, người
Việt-Nam lại ngay gần ta, hỏi han ta, mời ta
ăn uống với họ, nói túm lại, rất là niềm-nở
thân mật và lịch sự. Ấy chúng tôi và bạn đồng
hành đă được xử đăi như thế. Chúng
tôi mới thoạt đến, mà đă được coi
như bạn thân từ lâu". Sơn Nam cũng cho người
miền Nam "Luôn luôn hiếu khách, trọng khách: nhà cửa
dư chỗ cho bạn bè đến ăn ở, nhiều
bộ ngựa, dư gối, dư chiếu, dư chén. Thức
ăn dễ kiếm, "cây nhà lá vườn".
John White, sau khi
thăm viếng Saigon trở về Luân Đôn có viết trong
quyển hồi kư "A voyage to Cochinchina năm 1824 như
sau:
"Chúng tôi rất
thỏa măn với tất cả những ǵ chúng tôi nh́n thấy,
mang theo cảm tưởng tốt đẹp nhứt về
phong tục và tánh t́nh của dân chúng. Những sự ân cần,
ḷng tốt và sự hiếu khách mà chúng tôi thấy đă
vượt quá cả những ǵ mà chúng tôi đă quan sát
đến nay tại các Quốc gia châu Á .."
Tính hiếu khách chẳng
qua là một sự lo xa, pḥng thân bởi lẽ nếu hôm
nay tui giúp anh th́ tui hy vọng ngày mai anh sẽ giúp tui khi tui gặp
khó. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi mới gặp nhau,
dù chưa quen biết nhau, dân miền Nam đều cơm
nước trà rượu như đă là bà con cật ruột.
"Ví dầu cầu
ván đóng đinh
Cầu tre lắc
lẻo gập gh́nh khó đi
Khó đi mượn
chén ăn cơm
Mượn ly uống
rượu mượn đờn kéo chơi"
Biểu hiện của
tính hiếu khách là các tiệc tùng, họp bạn. Dân Nam Kỳ
hay ăn nhậu, đờn ca xướng hát. Nhưng phải
hiểu rằng dân Nam Kỳ hôm nay là dân Thuận Quảng
khi xưa. Xa quê cha đất tổ, người lưu
dân, sau những giờ lao động cực lực hay sau
những cơn hiểm nguy, cần có những phút giây để
tâm sự hàn huyên với nhau, kể cho nhau nghe những kỹ
niệm xưa để vơi phần nào nỗi sầu
ly hương.
Sống điệu nghệ: Cái luân lư
"ăn ở đúng điệu nghệ" thành h́nh ở
miền Nam do hoàn cảnh đặc biệt. Đám lưu
dân lập đồn điền hay lập ấp bị bọn
quan lại và sĩ phu khinh miệt. Đám lưu dân chuộng
tự do, b́nh đẳng, ra đi xa cửa xa nhà v́ họ
là nạn nhơn của chế độ cai trị phong kiến
tôn ti trật tự.
Kẻ sĩ thi
đậu cao tập tành trở thành quân-tử. Người
dốt chữ làm thuê làm mướn, mặc-nhiên là dân
đen, là tiểu nhơn. Người đi lập ấp,
người gia nhập đồn điền, kể cả
người chỉ huy đều gồm đa số thất
học. Họ thú nhận điều ấy với thái
độ tự tôn. Đám dân cần cù dốt chữ nay vẫn
có luật lệ riêng, luân lư riêng. Đó là "điệu
nghệ".
Điệu là
đạo, nói trại ra.
Nghệ là nghĩa,
nói trại ra.
Đạo là ǵ? -
Đây là đạo làm người, tổng hợp những
nết của Tam giáo: Khổng, Lăo, Phật gồm nào ḷng từ
bi bác ái; t́nh nghĩa anh em, vợ chồng; thói ăn
chơi, hưởng lạc, thú tiêu dao. Nghĩa là nghĩa
khí, tiêu biểu cho nghĩa khí là ông Quan vân Trường không
lợi dụng quyền thế để lấn hiếp kẻ
yếu, không giết kẻ té ngựa, ăn ở thủy
chung, dám liều thân v́ nghĩa lớn, không nói xấu kẻ
vắng mặt. Quan-niệm "điệu nghệ" tạo
ra một kiểu anh-hùng, một người quân-tử
b́nh-dân. Cánh cửa của đạo và nghĩa luôn luôn mở
rộng để đón tất cả mọi người
không phân biệt giàu nghèo, dĩ văng tốt hay xấu. Giá-trị
con người không ở tiền bạc, huyết thống
nhưng là ở thái độ tích cực "lâm nguy bất
cứu mạc anh hùng" (đối với đồng loại),
"bần tiện chi giao mạc khả vong" (đối
với bạn bè). Vô dân Tây, làm đại điền chủ
mà không biết điệu nghệ th́ chưa phải là sang
trọng".
Phải công nhận
Sơn Nam có một nhận xét tinh tế về bổn tánh
thích ăn ở đúng điệu của người miền
Nam. "Chơi điệu", "biết điệu",
"chơi đẹp", "tinh thần mă thượng"
là những đặc ngữ thông dụng cũng là quan niệm
sống mà nhiều người miền Nam thể hiện
dù ít dù nhiều để luôn luôn bớt thù thêm bạn theo
quan niệm "tứ hải giai huynh đệ".
Hào sảng, phóng khoáng: Chỉ trong giai
đoạn đầu của cuộc khai phá đất
đai, người miền Nam phải chống chọi cam
go, nhưng sau đó, phù sa Cửu Long và Đồng Nai
đem bao nhiêu màu mỡ cho ruộng vườn, sanh nhai trở
nên dễ dàng, họ trở nên rộng răi hơn trong hoàn cảnh
địa lư mới.
Đám b́nh dân không
giàu nhưng đủ ăn, khi cực cũng phải lặn
lội nhưng thường họ sống một cách ung
dung phóng khoáng, dám ăn dám xài. C̣n giới trung lưu, nhất
là hạng điền chủ, thường chứng minh nếp
sống quư phái của ḿnh bằng cách chưng diện tiêu
pha như nước để che dấu cội rễ vốn
không mấy đài các sang trọng. Trần nhựt
Thăng, chủ bút Lục-Tỉnh Tân Văn đă kêu rêu:
"Tôi lấy làm thậm ức cho kẻ giàu có để
đi chơi tiên, giỡn tiền, rồi sáng ngày có gặp
anh em lại dám cả gan mà khoe ḿnh rằng: hồi hôm thua hết
500, 700 đồng". Ai ở miền Nam chắc đă
nghe danh cậu Hai Miên con của quan lănh binh Tấn
.. "công tử Bạc-Liêu".
Trong Gia Định
Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức viết vào khoảng
1820 có đoạn:
"Vùng Gia Định
nước Việt Nam đất đai rộng,
lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa
sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời.
Người tứ xứ. Nhà nào tục nấy
.. Gia Định có vị trí nam phương dương
minh, nên người khí tiết trung dũng, trọng nghĩa
khinh tài .."
Bản chất
đôn hậu mộc mạc là một đức tánh khác của
dân Nam Kỳ và cũng bắt nguồn từ điều kiện
sanh sống. Bản chất nầy cũng là một nhu cầu
cần thiết trong cuộc cộng cư của dân tha
phương. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi
người trước lạ sau quen tạo thành một
đại gia đ́nh quần tụ với nhau, do đó họ
phải cư xử với nhau bằng t́nh nghĩa. Những
hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa
đến một h́nh phạt nhục nhă là bị loại
trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ
mà đi. Người dân Nam Kỳ v́ vậy nhớ ơn và
trung thành chẳng những với người sống mà cả
với người chết. Thông thường th́ có đám
giỗ, ngoài việc dọn mâm cơm cúng ông bà cha mẹ c̣n
có mâm cơm bày ra trước cửa nhà để cúng đất
đai, cúng những người đă ra đi trong công cuộc
vỡ đất mới, cúng thần linh đất đai
để những người nầy phù hộ.
Nói về sự
phù hộ th́ dân Nam Kỳ có không biết bao nhiêu thần hộ
mạng bởi trên con đường lập nghiệp, họ
gặp không biết bao nhiêu hiểm nghèo. Một con thú dữ,
một con sông, một tiếng trời gầm, tất cả
đều gieo cho họ sự sợ hăi. Trong nỗi bơ
vơ, họ luôn cầu nguyện đất trời để
phù hộ họ.
"Tới đây
xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải
sợ, con cá vùng phải kinh"
Sông nước bao
la, kinh rạch chằng chịt và đồng ruộng c̣
bay thẳng cánh lại là những yếu tố quy định
cá tánh của dân miền Nam.
V́ vậy đă tạo
cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu
cúi ḷn, kém thủ đoạn. Tính lửa rơm, giận th́
nói ngay, có khi hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn
đi theo sông nước, đồng ruộng bao la. Cái cá
tính sẵn có ấy lại được tác động
thêm bởi những ư niệm trung hiếu tiết nghĩa
qua các truyện Tàu đă ảnh hưởng sâu đậm
trong tâm tánh của dân miền Nam.
Nhưng bản chất
cứng rắn nầy có khi là một khí giới yếu
trong những hoàn cảnh cần sự dẻo dai, uyển
chuyển, nhứt là trong các sanh hoạt chánh trị. Người
ta thường nhắc đến ông Trần văn
Hương với tất cả hai khía cạnh của
đặc tánh nầy.
Câu "Ăn mặn
nói ngay" để diễn tả tánh bộc trực của
dân Nam Kỳ.
Ngoài ra người
miền Nam có nhiều trực tánh, tâm hồn cởi mở
và thường có cái nh́n lạc quan về cuộc đời
và tương lai của họ.
SƯU
TẦM TRÍCH ĐOẠN
Tài liệu tham khảo: GS.
LÂM VĂN BÉ
và Tác giả VƯƠNG
ĐẰNG [Luận án Cao học, Saigon 1973]