Kính gởi quí vị vài vần
điệu để bày tỏ sự cảm
thông và trân trọng
Kính gởi quí vị vài
vần điệu để bày tỏ sự cảm
thông và trân trọng
về những việc làm của
bà Khúc Minh Thơ
ngày xưa cũng như
mới đây.
Huy Văn ( HVC )
NGƯỜI VỢ
LÍNH
Xin
được kể những hy sinh thầm lặng
Đã
dần trôi vào quên lãng xa xưa
Tiếng
cám ơn có lẽ rất dư thừa
Khi nhắc
lại những nhục nhằn của CHỊ :
Người
Vợ Lính thăm chồng ngoài đơn vị
Đem
yêu thương bù đắp nỗi gian truân
Mảnh
khăn sô đẫm nước mắt thanh xuân
Làm
goá phụ thay chồng nuôi con dại
.
Là hậu duệ Anh
Thư từ cổ đại
Thời Triệu
, Trưng quật khởi cưỡi đầu voi
Qua thăng trầm vẫn rạng
rỡ gương soi
Và thắm mãi
lòng son đời chinh phụ .
Ai lặng lẽ tiễn chồng
ra mặt trận ?
Ai chiến hào tiếp đạn , phụ tải thương ?
Ai vất vả xẻ chia
đời lận đận ?
Ai mỏi mòn
, cô độc chốn hậu phương ?
Chính
là CHỊ: NGƯỜI VỢ
HIỀN CỦA LÍNH
Là
vòng tay mang từ ái , bao dung
Qua bao lần
nguy khốn vẫn thủy chung
Như
chiếc bóng với hình cùng sánh bước .
Chính
là CHỊ: CHỨNG NHÂN
CỦA THỜI CUỘC
Đã
bao đời mang khổ lụy trên vai
Vì
yêu chồng , thương con và
đất nước
Dấu
buồn đau , nén cả tiếng
thở dài .
Xin chân thành vinh danh Người Vợ
Lính
Cả
một đời không quản ngại gió
sương
Như
chiếc nôi giữ mạch sống quê hương
Như
hiền mẫu của muôn đời Âu, Lạc .
Như
chinh phụ ngàn năm bia
đá tạc
Ôm
con thơ dõi mắt đứng vọng phu
Người Vợ Lính là suối
nguồn tươi mát
Chảy một dòng Lịch Sử
đẹp thiên thu .
(Tặng các Chinh Phụ Việt
Nam)
HUY VĂN
(Huy Phuong
và Thuan Do chuyển)
(Bà HẠNH NHƠN)
“Khúc Minh Thơ, bài thơ ngời
sáng,
“Khúc Minh Thơ, bài thơ ngời
sáng,
Cả một đời ôm lấy
H.O.”
…
“Ôm tin hoang đường mà sống”
Và “Uống nước phải nhớ nguồn”
“ Tôi là tù nhân trốn trại rồi đi
vượt biên qua Mỹ năm 1983. Mặc
dù không qua Mỹ với diện HO, nhưng
tôi đã nghe danh Bà Khúc Minh Thơ từ
những ngày nằm trong tù.Tôi
rất cảm phục những điều bà
đã làm cho tù nhân. Nay bà
Thơ quyết định tổ chức Ngày Tù
Nhân tại Dallas,
tôi là người địa phương, lẽ
nào tôi lại không giúp một tay ?”
Đó là những lời phát biểu của
ông Đặng Hiếu
Sinh, chủ nhiệm tạp
chí Ca Dao, một bán nguyệt san chuyên về
văn học, nghệ thuật ra đời từ năm
2001 tại Dallas, Forworth. Ca Dao cũng có khá nhiều
độc giả từ các tiểu bang khác.
Ông Đặng Hiếu Sinh cho biết ngoài vai
trò điều hành tổng quát cho Đại
hội, ông và một số người trong ban tổ
chức có phương tiện truyền thông
như nhà báo Thái Hoá Lộc cũng sử
dụng phương tiện truyền thông riêng
để phổ biến và kêu gọi mọi
người tham gia Đại hội vì theo ông, sức
khoẻ và tuổi tác của các tù
nhân và bà Khúc Minh Thơ thì không
có hy vọng có một lần thứ hai.
Bà Angie Hồ Quang,
người phụ trách nội vụ cho Đại Hội
đã sốt sắng tham gia vì cha của bà
là một tù nhân chính trị. Bà cho
biết, bà không bao giờ quên được
những ngày theo mẹ ra bắc tiếp
tế cho cha tại trại tù Hàm Nam Ninh. Bà
Angie Hồ Quang tâm sự:
“ Chị không thể nào quên được
quên được những ngày đen tối
và tuyệt vọng đó. Và em
biết không, những tù nhân đã “ôm
tin hoang đường” mà sống, mà sinh tồn.
Tin đó là: có một người
đàn bà đang can cường đấu tranh
đòi tự do cho các tù nhân đang sống
trong cảnh tuyệt vọng của hỏa ngục trần
gian. Người đàn bà
đó, chính là chị Khúc Minh Thơ của
chúng ta. Tin “hoang đường” này
đã là lẽ sống cho biết bao tù
nhân để họ có thể sống được
cho đến ngày được thả tự do. Cũng
có biết bao nhiêu người đã
không còn nữa khi ánh sáng tự do
đã đến, nhưng ít nhất, tin mà
những năm tháng đầu có người gọi
là “hoang đường” đã đem lại
một niềm an ủi vô biên trong những
ngày cuối cùng của họ vì họ biết
rằng họ đã không bị bỏ
quên.”
…
Sự hỗ trợ của truyền thông VN
và đặc biệt của SBTN
Căn nhà nhỏ
đường Marthas Lane
của quậnFalls Church của bà Khúc Minh
Thơ tại Virginia
trong năm qua lại có không khí bận rộn
như những năm của thập niên 1980, 1990, khi
mà người phát thơ phải bỏ thư vào những bao tải để
chuyển thư của gia đình tù nhân
chính trị VN tới đây. Những lá thư kêu cứu đầy nước
mắt của vợ con, cha mẹ của những tù
nhân chính trị VN đang bị giam cầm trong những
trại tù khổ sai đầy khốn khổ, nhục
nhằn. Có những lá thư
do chính các tù nhân viết trong những
cơn tuyệt vọng khốn cùng từ trại
tù. Cám ơn kỹ thuật internet, ông
phát thơ hôm nay không phải khiêng những
bao tải thơ nặng chĩu và bà Khúc
Minh Thơ và các anh chị em trong hội Gia
Đình Tù Nhân Chính Trị VN không phải
thức đêm, thức hôm để bóc
thư, đọc và trả lời, chỉ có
hôp email fvppa@aol.com
là đầy ắp thư của cựu tù
nhân, gia đình và thân hữu gửi về
để hỏi về Đại hội. Mặc dù
có hai thơ ký tình nguyện là Cô Nguyễn Minh Phượng, ái nữ út của bà Thơ và cô
Hoàng Lan Anh, hội
viên của hội VAHF giúp nhưng email của
bà Thơ vẫn chưa bắt kịp những email gửi
tới. Khi người viết đang viết bài
này thì Bà Thơ vừa mới từ Virginia
sang Jan José để tham dự những cuộc phỏng
vấn của đài phát thanh, truyền hình
và báo chí tại đây,trước khi về Nam Cali
để được đài SBTN
và một số đài phát thanh và
báo chí khác phỏng vấn. Riêng
đài SBTN đã có những cuộc phỏng
vấn đặc biệt từ các chương
trình “Huynh Đệ Chi Binh” của nhà văn Huy Phương, một cựu tùnhân chính trịtừng bịcầm tù7 năm và“Những Vấn Đề
Của Chúng Ta” của nhà văn Phan Nhật Nam, và nhiều chương trình
khác. Ngoài hai cộng tác viên của
đài là nhạc sĩ Nam Lộc và ca sĩ
Việt Dzũng sẽ về làm MC cho Đại hội
và kêu gọi các ca sĩ là con cháu của
các tù nhân chính trị, SBTN sẽ gửi nhà văn Huy
Phương và phóng viên từ đài
trung ương về để thu hình và
làm phóng sự. Tất cả những
hỗ trợ này không ngoài mục
đích hỗ trợ cho sự thành công của
Đại hội. Người viết có đặt
câu hỏi bà mong mỏi gì từ Đại
hội này, bà Thơ
đáp lại không một chút do dự:
“ Mong được gặp tất cả
anh chị em để hàn huyên tâm sự,
để cùng cám ơn tất cả những
người đã giúp cho cuộc tranh đấu
cho tù nhân chính trị, và để
lưu lại cho thế hệ mai sau những câu truyện
về cuộc đời cơ cực nhưng đầy
hào hùng của cha ông chúng. Đó
là món quà quý báu nhất mà thế
hệ chúng tôi có thể tặng cho con
cháu mình khi mình đã khuất bóng.
Trong dịp này, tôi cũng xin chân thành
cám ơn tất cả các thân hữu, hội
đoàn, các nhà bảo trợ đặc biệt
là các cơ quan truyền thanh, truyền hình
và báo chí đã và đang bỏ rất
nhiều công sức cho việc tổ chức Ngày
Tù Nhân Chính Trị Việt Nam”
Nhìn bà với tuổi đời trên 70
nhưng vẫn bôn ba vì 6 chữ “tù
nhân chính trị Việt Nam”, bạn bè
thân tình thật kính nể nhưng cũng thật
xót xa. Có người đã tặng cho
bà 2 câu thơ vui, người viết xin chia sẻ
với độc giả:
Khoảng cuối năm 1989, giữa sự tuyệt
vọng và chán chường vì cuộc sống
ngày càng đen tối, chúng tôi chuyền
tai nhau một cái tin "động trời" : Hai chính phủ Hoa Kỳ và
Việt nam đã ký kết thỏa ước
đồng ý thả hết các cựu quân
nhân viên chức chế độ cũ còn
trong các trại cải tạo và cho phép
các cựu tù nhân cải tạo được
sang định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO
(Humanitarian Operation) *. Tin nghe được từ
đài VOA, từ BBC, từ những
nhóm người thường xuyên tụ tập ở
đường Nguyễn Du (trước cửa sở Ngoại
Vụ) để nghe ngóng về việc tái thiết
lập chương trình xuất cảnh với
lý do đoàn tụ gia đình (ODP), từ những
cuộc gặp gỡ nhau bất chợt trên đường
phố. Những ngày ấy, người
dân sinh sống ở các thành phố lớn ở
miền Nam
coi việc được xuất cảnh đi ngoại
quốc (nhất là đi Mỹ) tương tự
như được lên thiên đường hạ
giới.
Ban đầu, nửa tin nửa ngờ, chúng
tôi không hề dám nghĩ đến một
ngày như thế sẽ xẩy ra. Một
ngày mà, những công dân hạng hai, những
người bị xếp vào thứ hạng tận
cùng nhất trong xã hội, được
có cơ hội "lên phi cơ phản lực
bay thẳng vào thiên đường". Rồi
dần dà, nguồn tin đã được kiểm
chứng với những thông báo chính thức
từ phía chính quyền Cộng sản, cho
phép tù cải tạo được nộp
đơn xin xuất cảnh. Cả một nửa
đất nước xôn xao.Bậc
thang giá trị xã hội đã đảo
ngược."Tù cải tạo"
trở nên thành phần được nói
đến nhiều nhất, được trọng vọng
nhất.Tờ giấy Ra Trại sơ
sài, tuy vốn đã có giá trị
hơn chính bản thân người chủ của
nó, nay lại càng có giá trị hơn gấp
bội.Vì nó là tờ giấy
thông hành bước vào cửa "thiên
đường".
Và, tháng 1 năm 1990, người
dân Sài Gòn nửa vui nửa buồn tiễn
đợt tù cải tạo đầu tiên rời
đất nước ra đi.Mới hôm nào, họ còn
là những người bị ngược
đãi, nay được chính thức bước
vào cổng phi trường.Cánh
cửa của sự sống đã mở rộng.
Tự Do và bữa cơm no, chiếc áo ấm. Tương lai và những cơ hội.Tất cả như từ trời rơi xuống,
như chỉ xẩy ra trong những câu chuyện cổ
tích.
Liên tiếp từ một ngày rất đẹp
của tháng 1 năm 1990 đến nay, hầu hết
những người cựu tù năm xưa
đã lên đường đi định cư
tại nước Mỹ. 18 năm của một cuộc
hồi sinh từ đói rách, tù đày,
áp bức. Trên mảnh đất của Tự
do, của Cơ hội, chúng tôi đã
tìm lại được ý nghĩa của sự
sống. Bằng vào sự cần cù, siêng
năng, ý chí cầu tiến mãnh liệt, rất
nhiều anh em chúng tôi đã góp phần
làm rực rỡ hơn ánh sáng của Hồi
Sinh. Hơn thế nữa, nhiều con em của
họ đã vươn tới những vị
trí đáng trân trọng trong xã hội xứ
người bằng vào nỗ lực học tập,
làm việc và đóng góp không ngừng.
…
3.
Truyền thống nhân nghĩa Việt nam dậy
rằng : Ăn trái nhớ kẻ trồng
cây.
Ngày chúng tôi hân hoan bước
lên phi cơ đi làm lại đời mình
18 năm về trước, chúng tôi chỉ biết
một điều chắc chắn là chính phủ
Mỹ đã can thiệp để chúng tôi,
những cựu tù cải tạo, có được
cái ngày đáng nhớ đó. Chúng tôi cũng được biết
đến tên người
phụ nữ họ Khúc ** và cái
tên Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam
ở Mỹ, nơi mà một số anh em đã gởi
hồ sơ xuất cảnh đến để xin
giúp đỡ, nhưng cái biết ấy rất
mơ hồ và không chính xác.
Chỉ đến khi đã tạm ổn
định cuộc sống trên xứ người, phần
lớn anh em chúng tôi mới biết thêm rằng,
không phải "tự nhiên" chính phủ
Mỹ nhớ đến mình, những người bạn
đồng minh cũ.
Có rất nhiều người Việt nam,
may mắn đến Mỹ từ tháng 4 năm 1975,
đã góp phần không nhỏ, nếu
không muốn nói là quyết định trong
việc làm cho phép lạ hồi sinh xẩy ra 18
năm trước.
Năm 1977, một nhóm phụ nữ Việt Nam sinh sống trên nước Mỹ
đã tụ họp nhau lại dưới cái
tên: Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam.
Đứng đầu hội là một người họ
Khúc, có chồng lúc ấy vẫn còn
đang ở trong trại cải tạo cùng với
hàng trăm ngàn người khác. Trong khoảng
thời gian 12 năm vận động để
chính phủ quan tâm đến những người
bạn đồng minh bị kẹt lại ở Việt
Nam, họ đã làm những việc thật
đáng ngưỡng mộ, nhiều khi tưởng
như vượt quá sức của những nữ
nhi. Hiểu rõ quy luật hoạt động của
guồng máy chính quyền nước Mỹ, họ
đã hoạt động như những người
Mỹ chính thống : vận động
các Nghị sĩ, dân biểu; tiếp xúc trực
tiếp với các viên chức thẩm quyền của
bộ Ngoại giao; tạo mối liên lạc cần
thiết với các cơ quan truyền thông cả
Mỹ lẫn Việt để nhờ phổ biến tin
tức, gây áp lực dư luận. Và cả
ra điều trần trước Quốc hội Mỹ,
những cuộc vận động những khuôn mặt
quốc tế quan trọng: Đức Giáo hoàng,
Tổng thư ký Liên hiệp quốc.
Năm 1984, Chính phủ Reagan chủ
trương việc phục hồi lại quyền lợi
và danh dự cho những cựu binh Mỹ trong chiến
tranh Việt Nam. Nhân cơ hội đó, hội
Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam
đẩy mạnh những nỗ lực can thiệp cho
các tù nhân VNCH với chính phủ và
quốc hội Mỹ. Kết quả thật khả quan. 5
năm sau nhiều hoạt động chính thức từ
phía chính phủ Mỹ với chính phủ Việt
nam (cộng sản), ngày 30 tháng 7 năm 1989 một
thỏa ước đã được ký kết,
đưa đến việc định tái định
cư của trên dưới 300 ngàn cựu
tù cải tạo và gia đình.
Năm 1994, chương trình HO chấm dứt,
nhưng nhận thấy còn rất nhiều cựu
tù, tuy có đủ điều kiện để
ra đi (bị cải tạo từ 3 năm trở
lên), nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc
nộp đơn (ở nơi xa xôi hẻo lánh,
không có tiền để lập hồ sơ ...)
hay vì hoàn cảnh gia đình (con không
được cho đi với cha mẹ ...), hội Gia
Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam vẫn
tiếp tục vận động để lại
đưa đến kết quả tốt đẹp
là việc ra đời của Tu chính Án
McCain dành cho con cái những cựu tù cải
tạo (trên 21 tuổi nhưng chưa lập gia
đình) và việc mở lại chương
trình HR (Humanitarian Resettlement) dành cho những cựu
tù đủ điều kiện được định
cư tại Mỹ nhưng chưa được cứu
xét. Sau 10 năm hoạt động, Tu chính
án McCain hết hạn ngày 30 tháng 9 năm
2005, hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị
Việt Nam lại cố gắng vận động cho
chương trình này được gia hạn
đến 30 tháng 9 năm 2007 để thêm thời
gian cho những người chưa lo đủ các thứ
giấy tờ cần thiết.
Tất nhiên, một công việc to lớn
như thế đòi hỏi không chỉ trí
tuệ, sự kiên trì mà cả tấm
lòng tận tụy, hy sinh ấy phải là
công trình của nhiều người, nhiều tổ
chức, nhưng hội Gia Đình Tù Nhân
Chính Trị Việt Nam với con chim đầu
đàn họ Khúc luôn luôn đứng ở
vị trí tiên phong và có phần
đóng góp thật đáng ngưỡng mộ.
(Trích T.Vấn 11)
MÓN NỢ NÀY XIN GHI NHỚ
MÓN NỢ NÀY XIN
GHI NHỚ
- ĐỪNG QUÊN !
(phạm tín an
ninh)
..
Chúng ta - những người chiến hữu -
những cấp chỉ huy - đã từng sát
cánh, đã từng điều động họ
trên trận mạc. Họ đã phải
mất đi một phần thân thể để
đem lại vinh quang và cả sự sống còn
cho chúng ta.Xin mỗi
người hảy tự hỏi : bao
nhiêu năm nay, ta đã làm được
gì cho họ?
Ngoài một số Hội Ái Hữu của
vài Binh Chủng, đóng góp giúp nhau phần
nào trong nội bộ, còn hầu hết những
người lính bộ binh, địa phương
quân, nghĩa quân - thành phần đông
đảo nhất - thì có ai đứng ra lo cho họ
?
Chỉ mới vài năm trở lại
đây, một số Hội Cứu Trợ
Thương Phế Binh được thành lập,
mà nổi bật nhất là Nhóm Huynh Đệ Chi Binh
ở Bắc Cali của cựu trung tá Trần
Đình Vọng (đã quá cố) và Hội HO Cứu Trợ TPB/QP VNCH ở Nam Cali, của
cựu nữ trung tá Nguyễn Hạnh Nhơn.
Dù với tất cả nỗ lực, cùng
với sự hỗ trợ đắc lực của một
số cá nhân, báo chí, đặc biệt
là Trung
Tâm Asia và Đài TH/ SBTN, nhưng thành quả đạt
được cũng vẫn chỉ là khiêm tốn,
so với số lượng Thương Binh, Qủa Phụ
Tử Sĩ VNCH của chúng ta còn khốn khổ
ở quê nhà ..
(Xin thử làm một bài toán chia
đơn giản nhất : với hai
năm một lần tổ chức Đại Nhạc Hội
Cám Ơn Anh, cho dù số tiền thu được
khoảng một triệu đô la, chúng ta cũng
chưa giúp được mỗi gia đình
Thương Binh, Quả Phụ Tử Sĩ VNCH được
50 đô la / 1 năm . Bởi vì chỉ
riêng Hội của cựu trung tá Nguyễn Hạnh
Nhơn đã nhận trên 15.000 hồ sơ hợp
lệ).
Tuy nhiên đó là những tấm
lòng và sự nỗ lực đáng được
mọi người chúng ta trân trọng và
cùng ước mong ngọn lửa nghĩa tình
này sẽ được thổi bùng lên bằng
sự tiếp tay của tất cả mọi
người. (Trích P.T.A.N 2)