Tạ Ơn Trời, Nhớ
Ơn Bác
(PHẠM HOA TRẮNG)
Tác giả Phạm Hoa Trắng
tên thật là Phạm Thị Huệ, sinh năm
1954, hiện là cư dân Westminster. Bài viết
về nước Mỹ của bà là một hồi
ức từ thời còn là một nữ sinh thời
chiến.
... Tôi lang thang trong nghĩa trang
Westminter, nơi có tượng đài Chiến Sĩ
Trận Vong. Tôi cố đọc tên từng
ngôi mộ, mong rằng may mắn tìm được
mộ bác để biết tên linh hồn
bác nhưng không tìm thấy. Đời
tôi chỉ có một bác, để hồi
tưởng với lòng biết ơn.
*
Tôi trùm chăn kín mít người để khóc,
dù buổi trưa hè oi bức nhưng tôi buộc
phải làm thế vì chung quanh tôi, một
phòng học chứa hai mươi gia đình. Tôi xấu hổ không dám khóc giữa
đám đông. Ở chỗ tị nạn
này có cả những bạn thanh niên trạc
tuổi tôi, không biết họ nghĩ gì về
tôi: "Con khùng !". Kệ họ !
Oan ức lắm, số là buổi sáng
trước khi ra chợ mua rau quả về bán lại
cho các gia đình tị nạn khác, mẹ bảo
tôi: - Năm nay con phải nghỉ học thôi, mẹ
không còn đồng nào cho con đi học,
con gái học tới lớp chín là được
rồi, theo mẹ buôn bán nuôi gia đình,
nuôi em đi học. Cha con phải đi giúp việc
cho nhà dòng Đa Minh ở Vũng Tàu. Tôi
nghẹn ngào không nói nên lời, vậy
là những ước mơ của mình
đã bay theo khói lửa, chiến cuộc
...
Đó là mùa hè đỏ lửa
1972, tôi cùng gia đình chạy giặc
vào Nam,
nơi tôi đang ở là trường tư thục
của nhà thờ Phước Tuy (Bà Rịa ngày
nay). Tuổi hoa đang độ vào thời mơ mộng,
vậy mà đùng một cái, ngay trong
mùa Phục Sinh, khi tiếng hát Alleluia đang vang
vọng trên môi, tiếng súng nổ lên ầm
ầm, chúng tôi không kịp về nhà
để gom quần áo. Mọi người giành
giựt chen lấn, gọi nhau ới ới.
Có mấy chiếc xe nhà binh GMC
của quân đội chở bà con đi tị nạn.
tôi chưa bao giờ nhìn thấy
cảnh hoảng loạn nào như thế trong đời
mình. Cuối cùng gia đình tôi cũng lên
được xe để chạy vể Huế.
Khoảng hơn một tháng tị nạn ở
trường Việt Hương (Huế), chúng
tôi được chọn đi vào Nam tị nạn,
theo chương trinh khai hoang khẩn cấp của ông
Trần Quang Đán, mỗi nhà được 24
tấm tôn xi măng và 1 bộ khung nhà gọn
nhỏ. Thế là chúng tôi chạy
vào Nam
lập nghiệp. Cha tôi là thợ
mộc nên tranh thủ đi dựng nhà cho những
gia đình khác để kiếm thêm tiền.
Còn chúng tôi ở tạm nhà của chị
ruột (đã có chồng). Một đêm
khuya - lại một đêm khuya - bỗng nghe tiếng
súng "pằng pằng", có tiếng la
hét ở trước cửa nhà, một nhóm
người mặc đồ đen, mang khăn quàng
có sọc kẻ xông vào nhà, chĩa
súng vào anh tôi. Anh tôi lúc ấy
là thương binh loại một, đang bận
đồ lính, tay trái kẹp
chiếc nạng gỗ - nửa tỉnh nửa mê, anh
buột miệng chửi:
- Đ.M tụi bây làm chi rứa, không thấy
tau què rồi hả ?
Người
trẻ tuổi nhất trong đám giựt lấy
cây nạng làm anh tôi chúi nhủi.
Nó nói:
- Mày dám chửi bọn tao hả. Bắt lấy
nó !
Mẹ tôi khóc ròng rã,
quỳ xuống van lạy, chúng tôi cùng nhau
khóc sướt mướt. Tụi nó bắt
chúng tôi sắp hàng ngang để bắn.
May sao, một người có râu, lớn tuổi
hơn xông vào nói:
- Tha cho bọn nó đi, bắt thằng
lính này đi thôi.
Nói dứt lời, tụi nó
lôi anh tôi đi như một tên tù binh. Chúng tôi chỉ biết
nhìn theo khóc. Anh tôi
ngoái lại nghẹn ngào nhưng đành lê bước
chân "què" theo bọn nó vào rừng
...
Thế là chúng tôi mất
thêm một người anh nữa. Người anh thứ ba đã chết
năm 1968 trong trận chiến tại Tiên Phước,
Đà Nẵng. Anh vốn là lực lượng
đặc biệt. Chúng tôi lại
phải chạy trốn ngay đêm hôm đó
xuống Phước Tuy (Bà Rịa). Hết
đau thương này đến đau thương
khác, mẹ tôi như người mất trí
nhưng vẫn phải lo lắng chạy ăn
hằng bữa vì tiền hai người dành dụm
đã mất hết.
Chúng tôi hoàn toàn trắng tay,
bây giờ biết phải làm sao đây
? Những ngày được tị
nạn ở trường đã gần hết
vì học sinh bắt đầu vào niên học
mới.
Nghĩ đến là làm liền, tôi vội
tung chăn mền, lấy học bạ
lớp 9 của tôi mang theo rồi đi bộ đến
trường trung học Châu Văn Tiếp gần
đó. Mùa này đang là
mùa nhập học. Tôi không thể ngờ
mới 15 tuổI đầu, ở một nơi địa
đầu giới tuyến, một con bé thích
đuổi hoa bắt bướm, lại mới vào Nam 2
tháng lại dạn dĩ và can đảm đến
thế. Tôi đứng lấp ló sau
cánh cửa văn phòng Hiệu Trưởng
(lúc ấy trong tôi dơ dáy và xấu
xí lắm), bỗng có một cô giáo
đi vào. Tôi vội thưa:
- Thưa cô !
- Có chuyện gì ? Đây là trường Trung Học,
không phải nơi để xin ăn.
Tôi hốt hoảng:
- Dạ thưa cô, em đến xin nhập học.
Cô ấy nhìn tôi từ đầu đến
chân e ngại:
- Phụ huynh đâu ?
- Dạ, cha em đi giúp việc cho người
ta, mẹ em không có đủ tiền cho em đi học ...
Nói đến đó, nước
mắt tôi dầm dề trên má. Có lẽ cô giáo cũng
động lòng, cô gọi tôi vào hỏi han đủ chuyện. Cô
coi học bạ của tôi, là học bạ của
trường Trung Học Tư Thục La Vang. Cô
nói:
- Đây là trường
công lập, đáng ra em phải vào thi,
nhưng vì điểm số của em cao nên
cô sẽ nhận vào luôn.
Tôi cám ơn cô rối
rít rồi vội vàng chạy về, trong
lòng như mở hội. Đến chiều chờ mẹ về, tôi liền
nói:
- Con đã xin vào học trường
công rồi mẹ.
Mẹ tôi trợn mắt nhìn:
- Cái chi ?! Trường
công thì mặc trường công, rồi ăn
rồi ở, tiền mô ra, rồi em mi nữa
!
Thấy mẹ nói có lý,
tôi đành im lặng, hy vọng vừa bừng
lên bây giờ chợt tắt. Tối đến, tôi chỉ biết
cầu nguyện cùng Chúa ban cho tôi một
phép lạ.
Rồi hết mùa hè, gia
đình tôi lại chuyển về Suối Nghệ,
vùng đất cho dân lập ấp. Mẹ tôi làm
vườn, trồng bắp, trồng sắn, trồng
khoai, đủ mọi thứ. Đứa
em trai tôi được gởi vào học trường
dòng, nơi cha tôi đang làm việc. Tôi kể chuyện xin vào học cho cha
tôi nghe, ông im lặng trầm ngâm.
Không bao giờ ông muốn con cái mình phải
bỏ học, dù khổ thế nào đi nữa
ông cũng lo cho cãc anh chị tôi học hết
tú tài. Ba nhỏ nhẹ vỗ về tôi:
- Thôi được, cha sẽ ráng làm
thêm để cho con một tháng mười đồng.
Cha sẽ gởi
con ở trọ chung với hai đứa em họ,
con ông chú.
Thế là tôi dọn vào ở
với hai cô em họ.
chúng tôi ở với nhau
được một tháng, góp gạo nấu
cơm. Thức ăn là mắm ruốc xào sả
ăn với dưa leo. Ba chị em rất
vui vì được đi học, nhưng ban
đêm - lại ban đêm - bọn "dân
quân tự vệ" lóc chóc cứ kề miệng
ngoài cửa sổ gọi ơi ới: "Em ơi,
em à ..." làm chúng tôi co rúm sợ
hãi, không học hành được gì cả.
Tôi đem chuyện kể với một bạn trong lớp,
chị ấy tên là Tuyết Hoa, lớn hơn
tôi 2 tuổi, tôi và chị ngồi gần nhau
nên rất thân, bỗng chị hỏi tôi:
- Bà có muốn về nhà mình ở
không ?
Tôi thật sự ngạc nhiên, tôi
nhìn chị:
- Ba mẹ chị có
cho em ở không ?
Chị bạn nói
để về hỏi ba mẹ rồi mai trả lời.Thế
là một phép lạ đã đến với
tôi. Tan trường, chị bảo tôi về
nhà lấy đồ vì ba mẹ chị
đã đồng ý. Tôi như người
trong mơ, quên bẵng nói lời cám ơn.
Leo lên xe của chị, tôi không dám hỏi
gì cả, vì chị đi trên chiếc xe Jeep
nhà binh. Xe đỗ trước một căn
nhà lớn có lính gác cổng, chị
đưa tôi vào nhà. Lúc đó, mọi
người đang ăn trưa. Chị nói:
- Chào bà nội
và hai bác đi bé !
Tôi làm theo
như một cái máy. Bà nội tóc trắng
như tuyết, còn hai bác khoảng độ
ngoài năm mươi. Bác trai nói như la:
- Đi thay đồ,
đi thay đồ rồi lên ăn cơm !
Tôi líu ríu
làm theo. Tôi nghĩ: sao nhà họ đông
người quá mà không thấy trẻ con.
Tôi lẳng lặng ngồi gần chị Hoa. Bác
gái hỏi tôi:
- Con tên gì ?
- Dạ, con tên Huệ.
- À, từ nay con sẽ
được gọi là bé Phượng, vì
cậu con Hoa tên là Huệ rồi.
Tôi thỏ thẻ:
"Dạ", trong lòng vui sướng khi có
tên mới như được đổi đời
vậy.
Qua những năm
tháng ở nhà chị Tuyết Hoa, tôi
được biết ba của chị là Đại Tá Trần Cửu Thiên,
chỉ huy trưởng TTHLQG Vạn Kiếp.
Ôi cám ơn Chúa ! Đúng là
phép lạ Chúa ban cho người hiếu học.
Tôi càng ngày càng được mọi
người yêu mến nhất là bà nội.
Một buổi chiều kia, tôi viết một bài
có tựa đề: Cám Ơn Bác Người Ân
Nhân Của Tôi cho tờ Nội San TTHLQG Vạn Kiếp.
Vài hôm sau, bác trai đi làm về,
bác cầm trong tay cuốn báo rồi gọi
tôi ra, bác bắt tôi đọc cho bác
nghe. Tôi không ngờ họ đăng nhanh như vậy,
chỉ sau vài ngày gởi bài. Tôi đọc
xong, bác thưởng cho tôi 1000 đồng.
Bác nói đó là tiền nhuận
bút. Tôi đón lấy và càm ơn
bác rối rít. Trong đời tôi chưa bao
giớ có được số tiền lớn như
vậy. Tôi biết đó là tiền thưởng
của bác chứ Nội San làm gì có nhuận
bút.Rồi ngày tháng trôi đi êm
đềm trong hạnh phúc. Hàng dương liễu
vi vu hát những buổi chiều đoàn
(Khóa Sinh) về sau giờ học tập. Bác cũng
về nhà để nấu ăn. Bác cởi bỏ
quân phục, ra bếp xào nấu như một
người nội trợ. Đến giờ ăn, tất
cả đều ngồi ăn một lần với nhau
(bà nội, hai bác, các con và lính
tráng làm việc
trong nhà). Bác không bao giờ phân biệt
người làm, người ở. Lâu lâu
đột xuất, bác xuống nhà ăn của
Khóa Sinh kiểm tra chất lượng.
- Đ.M ai làm nước
mắm đây ? Bác la to.
Không ai dám trả
lời, các chú lính bếp ở đây
ai cũng sợ bác kiểm tra đột xuất.
- Tụi bây ăn
được không mà bảo Khóa Sinh ăn.
Đổ đi, làm cái khác !
Đó là kỉ
luật của bác, nên tất cả đều sợ
bác. Việc chăm sóc ăn uống cho khóa
sinh luôn luôn được bác kiểm tra.
Rồi cái gì
đến, nó cũng đến. Bác được
lệnh đổi qua vùng II Chiến Thuật. Tôi
mất bác, mất luôn chị Tuyết Hoa.
Ngày chia tay bác và chị, tôi khóc
ròng rã, không nói được lời
nào để cám ơn. Điều đó
làm tôi hối hận cho tới bây giờ. Sau
đó, chị Tuyết Hoa có gởi cho tôi tấm
hình, ở phía sau chị ghi: "Bé Phượng,
coi Trung Dũng giống chú Chi con không ?" Chị
đã kết hôn với chú Chi là Trung
Úy thư ký của bác. Rồi ly loạn lại
đến, cũng mùa Phục Sinh, một ngày
tháng Tư đen tối, tôi bị mất
liên lạc cả bác lẫn chị Tuyết Hoa.
Sau này, nghe nói chị Tuyết Hoa đã
đi Mỹ. Còn bác đi diện H.O nhưng trong
thời gian cải tạo bị đánh đập
tàn nhẫn, bác bị sưng phổi và
đã rời bỏ cuộc sống mà ra đi
mãi mãi.
Hôm nay ngày lễ
Thanksgiving lại đến, cũng là tháng
Các Đẳng Linh Hồn của Công Giáo,
tôi lang thang trong nghĩa trang Westminter, nơi có
tượng đài Chiến Sĩ Trận Vong. Tôi
cố đọc tên từng ngôi mộ, mong rằng
may mắn tìm được mộ bác để
biết tên linh hồn bác nhưng không
tìm thấy. Từ lâu, mỗi tối khi đọc
kinh tôi đều cầu nguyện cho linh hồn
ân nhân là bác nhưng không biết
được tên Thánh bác là gì.
Nhưng tôi biết, ở trên tầng trời cao
xanh, bác đang hưởng phúc thanh nhàn
cùng với Chúa, Mẹ Maria và các
Thánh vì bác chưa bao giờ rời
tràng chuỗi dù ở bất cứ nơi
đâu.
Con không tìm
được mộ bác, bác ơi ! Xin bác
nhận cho con ba nén nhang lòng. Dù ở
đâu, dù hoàn cảnh nào, con luôn nhớ
về bác và cầu nguyện cho bác. Xin gia
đình bác (nếu ai có đọc bài
này) cho tôi bé Phượng, ngày xưa
được bác nuôi dưỡng ăn học gởi
muôn ngàn lời tri ân.
PHẠM
HOA TRẮNG
(Bai Chuyen)