**BAI VO CAC NOI GOI VE
Home
**TIEU SU
**TIN TUC MOI-TIET MUC MOI
**BAI VO CAC NOI GOI VE
**LIEN LAC
**HINH ANH PHU TUNG
**THUONG SON THI TAP
**DUC TUNG THIEN VUONG VA DUC TUY LY VUONG
**TIEU SU DUC TUY LY VUONG
**LIEN KET
TUNG THIEN VUONG - MIEN THAM

New Page 1

Mệ Bông
Trịnh Bách



Vào cuối Xuân năm 1931, nhà báo Mỹ W. Robert Moorei đă mục kích tại kinh đô Huế lễ đón tiếp vua và hoàng hậu Thái-lan sang thăm Việt Nam. Bà Hoàng Thái hậu phải đảm nhiệm việc tiếp khách, v́ vua Bảo Đại c̣n đang du học tại Pháp. Những nghi lễ và sự hoành tráng của các buổi tiếp tân, yến tiệc đă khiến ông Moore hồi tưởng lại những dịp lễ tương tự ở đế đô Bắc Kinh trước Cách mạng Tân Hợi 1911.

Những kỷ niệm thú vị nhất của nhà báo Mỹ này khi ở Huế là việc ông được một vị trưởng Công chúa triều Nguyễn tiếp kiến tại phủ riêng của bà. Ông Moore kể lại rằng: "Vị ái nữ xinh đẹp của Bà Chúa đă rộng lượng cho chúng tôi được thưởng thức tài nghệ đàn tranh của cô. Sau đó cô cùng vị sư gia khiếm thị và các nhạc sĩ đàn dây khác trong phủ hợp tấu, trong khi các ca công trẻ hát những bài ca Huế...". Nàng công nữ xinh đẹp ấy có cái tên rất "Huế" là Mệ Bông. Theo tục lệ cổ của triều Nguyễn, tất cả các thành viên của hoàng tộc đều được gọi là Mệ, và kèm theo là một cái tên nghe thật b́nh dân. Tiếng Mệ dần dà đă thành một âm thanh biểu tượng rất dễ thương của Huế.

Thân mẫu Mệ Bông là Công chúa Công Tằng Tôn Nữ Tôn Tùy, trưởng nữ của Cung Tôn Huệ Hoàng đế Dục Đức (1883). Bà trở thành Trưởng Công chúa khi em trai bà là Hoàng đế Thành Thái lên ngôi năm 1889. Bà được sắc phong tước hiệu Mỹ Lương Công chúa năm 1897. Thường được gọi là Bà Chúa Nhất, Công chúa Mỹ Lương có công rất lớn đối với nghệ thuật tuồng cung đ́nh của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Đội ca vũ tuồng cung đ́nh do bà lập ra và huấn luyện trong phủ của bà đă tŕnh diễn trong hoàng cung từ cuối triều Thành Thái, qua các triều Duy Tân, Khải Định, và nhất là Bảo Đại. Bà Chúa cũng là một trong những sáng lập viên và mạnh thường quân chính của hội Lạc Thiện, lập ra để cứu tế, giúp đỡ đồng bào khốn khó, và các nạn nhân bị thiên tai quanh đế đô. Thân phụ của Mệ Bông là Thượng thư Nguyễn Kế, con trai của Diễn Lộc Quận công, một vị trưởng phụ chính nổi tiếng thời cuối triều Nguyễn.

Mệ Bông giờ đây đă là một lăo bà ở tuổi cửu tuần, nhưng Mệ vẫn chỉ trả lời các câu hỏi liên quan đến tuổi tác bằng những nụ cười thật hiền. Khi tôi ngỏ ư muốn được gặp và phỏng vấn Mệ Bông vào đầu tháng 9-2001, thân quyến của Mệ tỏ ra lo ngại cho tôi. Sau khi bị tai biến mạch năo, Mệ đă nằm liệt giường gần hai năm, nói năng rất khó và Mệ không c̣n nhớ ǵ... Thật ra Mệ Bông c̣n nhớ mọi chuyện rất rơ. "Lúc nào trong phủ Đức Bà cũng nuôi năm chục người. Họ vừa là người giúp việc, vừa là tài tử, đào hát của đoàn tuồng. Người chơi trống hay nhất trong phủ là ông Lon. Người ca giỏi nhất trong đoàn là Mụ Liệu. Ngoài ra c̣n Quy này, Ninh này, Thành này, Yến này... đông lắm! Đức Bà cho họ huấn luyện cả ngày cả đêm...". Mệ cũng kể đến một điệu múa mà các vũ công trên đầu vấn khăn, trong mặc áo bào, xiêm, ngoài khoác áo lá tua. Đây là điệu múa Nữ Tướng mà cậu của Mệ là vua Thành Thái rất ưa thích. Qua điệu múa có tính chất tuồng này, nhà vua đă biểu lộ một cách thụ động hoài băo của ḿnh trong việc cứu đất nước ra khỏi ách thống trị của người Pháp.

Tuy Mệ Bông rất thành thạo về đàn tranh và ca Huế, Mệ chỉ học để tự tiêu khiển thôi. Phần lớn th́ giờ của Mệ được dành cho các công việc trong cung. Trong khi Bà Tiên Cung Thái Hoàng Thái Hậu, bà nội ruột của hoàng đế Bảo Đại, phải chăm sóc các việc lễ nghi, tiếp khách th́ bà Chính cung Thái Hoàng Thái Hậu, tức bà Thánh Cung thường phải nằm nghỉ trong cung Trường Sanh do bị bệnh khớp nặng. Từ thủa nhỏ, Mệ Bông đă phải vào đọc sách, truyện giải sầu cho bà Thánh Cung. V́ Mệ rất thân với Hoàng Thái tử Thiền (tức Hoàng đế Bảo Đại sau này), nên bà Thánh Cung cũng coi Mệ như cháu bà.

Các bà trong nội cung đều thích được Mệ Bông vấn khăn vành dây cho họ. Mệ Bông đă một thời nổi tiếng ở Huế về tài vấn khăn này. Khăn làm bằng nhiễu mỏng, dài từ 10 đến 21 thước tây. Khăn rộng khoảng 45 phân tây, được xếp lại c̣n chiều rộng chừng 5 phân tây. Người có tước phẩm càng cao th́ khăn càng dài. Trước hết một đoạn khăn vấn được bao vào tóc để làm nền. Rồi khăn vành dây được cuốn tiếp theo, phủ ra ngoài. Khăn vành dây có vị trí rất quan trọng trong nghi lễ của triều đ́nh Huế. Bà Đệ Tam Điềm Tần của vua Khải Định đă phải ngủ ngồi nhiều ngày trong các dịp đại kỵ, để không phải vấn lại khăn. Mệ Bông rất hănh diện về tài vấn khăn nhanh của Mệ, chỉ mất khoảng hơn nửa giờ. "Hoàng hậu Nam Phương thường mặc âu phục, nhưng mỗi lần cần đến triều phục th́ bà lại cho vời tôi vào cung để vấn khăn cho bà".

Các hoàng đế cũng cần đến Mệ Bông v́ tài bếp núc của Mệ. Khi Cựu Hoàng Thành Thái về thăm Huế năm 1953, sau suốt ba thập kỷ bị nhà cầm quyền Pháp an trí ở đảo Reunion bên châu Phi, ông đă quyết định: "Ở tại phủ chị Chúa để con Bông nó nấu cho ăn". Trái với sự tưởng tượng của mọi người, các hoàng đế ở Huế không chuộng những món yến tiệc cầu kỳ cho lắm. Các đại yến 60 món, trung yến 40 món, và tiểu yến 30 món với ảnh hưởng Trung Quốc, thường được dùng để đăi quốc khách hay các quan. C̣n mọi món ăn thường ngày để hoàng để ngự thiện có thể nói là đạm bạc. Trong cung có hai ông bếp chính là ông Lợi người bắc, và ông Nghĩa người Quảng Nam, để nấu các cỗ Âu. Nhưng mỗi khi trong cung cần đến tiệc Việt Nam th́ Mệ Bông lại phải vào phụ Má Thống, Má Tṛn, hai người bếp của các món Huế trong cung.

Đối với Mệ Bông th́ thời gian đă dừng lại khi nhà Nguyễn cáo chung với việc Bảo Đại thoái vị năm 1954. Sự mất mát lớn nhất trong đời Mệ Bông xảy ra năm 1948, khi chiến tranh cướp đi mất người chồng trẻ yêu quư của Mệ. Mệ Bông không bao giờ tái giá. Niềm an ủi của Mệ bây giờ là Cung An Định ở An Cựu, nơi Hoàng thái hậu Từ Cung và một số mệnh phụ c̣n giữ lại được phần nào nếp sống xưa. Mệ vẫn hay vào cung sống với Bà, và giúp Bà với hai công việc ưa thích của Mệ là vấn khăn vành dây và bếp núc.

Năm 1954 lại biến đổi đời Mệ Bông thêm lần nữa. Người con gái độc nhất đang tuổi 18 của Mệ bỗng một hôm biệt tích. T́m con đến tận Sài G̣n cũng không ra, Mệ gần như điên loạn. Măi hai năm sau Mệ mới nhận được thơ của cô gửi từ Hà Nội cho biết cô đă tập kết ra Bắc để tham gia Cách mạng. Rồi sự b́nh yên của cung An Định cũng không c̣n khi ông Ngô Đ́nh Diệm ra lệnh quốc hữu hóa cung này. Sau đó ông Diệm lại triệu Mệ Bông về Sài G̣n để nhờ Mệ cố vấn cho các bữa yến tiệc trong Dinh Độc Lập. Từ đó Mệ không bao giờ trở về sống ở Huế nữa.

Khi đất nước thống nhất năm 1975, người con gái tập kết năm xưa lặn lội vào Sài G̣n t́m mẹ. Mệ Bông như được hồi sinh. Mệ xuống tóc để tạ ơn Trời, Phật, và từ đó Mệ chỉ vui với con cháu, ít khi ra ngoài. Lần cuối cùng Mệ Bông trổ tài vấn khăn vành dây là vào dịp đám cưới người cháu gái năm 1985. Các h́nh bóng một thời thân thương cũng đă dần dần ra đi. Hoàng hậu Nam Phương mất bên Pháp năm 1963, Bà Chúa Nhất mất năm 1964, Bà Ân Phi, vợ chính của Vua Khải Định mất năm 1978, Bà Hoàng quư phi Mai Thị Vàng, vợ Vua Duy Tân, mất năm 1980. Rồi Hoàng thái hậu Từ Cung cũng mất năm 1980. Hoàng đế Bảo Đại, người anh em họ của Mệ, mất tại Pháp năm 1997.

Khi tôi đến thăm và phỏng vấn Mệ Bông vào đầu tháng Chín, như có một phép lạ, Mệ đă ngồi dậy được để mặc cái áo mệnh phụ tứ thân, giống như cái áo Bà Chúa Nhất mặc ngày xưa, và chụp ảnh lưu lại cho con cháu. Mệ cười thật tươi và đùa rằng nay Mệ được sắc phong.

Và khi bài viết này đang lên khuôn in, tôi nhận được tin Mệ Bông, tức Công nữ Nguyễn Thị Cẩm Hà, nhân chứng sống cuối cùng của cung vàng điện ngọc Nguyễn triều, đă qua đời ngày Mười chín tháng Chín, năm Hai ngàn lẻ một.

 

****************

New Page 1

SACRAMENTO, NGAY 16 THANG 5 NAM 2004 .
 
THAN GOI :
CHU BUU BAO, TRUONG BAN QUAN TRI PHU TUNG THIEN VUONG,
CHU BUU TO, TRUONG BAN CONG TAC PHU TUNG THIEN VUONG,
THAN GOI TAT CA QUY VI  TRONG BAN QUAN TRI PHU TUNG THIEN VUONG,
THAN GOI TAT CA BA CON PHU TUNG THIEN VUONG,
 
NGAY HOM NAY , 29 THANG 3 AM LICH, LA NGAY KY CUA DUC TUNG THIEN VUONG.
 
BA CON TRONG PHU TOI THAM DU RAT DONG DU .
TRONG DIP NAY, DU O XA XOI NGHIN VAN DAM DUONG, KHONG CO DIP VE THAM DU NGAY KY CUA DUC TUNG THIEN VUONG ,TUNG BUNG VA VUI VE NHU HOM NAY, NHUNG LONG CUA NGUOI THA HUONG NOI XU LA QUE NGUOI VAN TAM TU HUONG VE COI NGUON, QUE CHA DAT TO .
 
TU NAM 1996, KHI TO CHUC LAI BAN QUAN TRI PHU TUNG THIEN VUONG, DEN NAM 2004, LA NAM NAY, DA 8 NAM TROI QUA, QUANG CANH PHU TUNG THIEN VUONG GIO NAY DA KHAC HAN, DA HOAN MY HON XUA, PHU THO DA DUOC CHINH TRANG TOT DEP, SU UU TU MOI MOT CUNG DA THONG QUA, CAY COI TRONG XANH TUOI, CAC CAY CAU DA LEN CAO, DUONG TRANG LAI XI MANG TRANH CANH LUT LOI, BEN PHU DA DUOC LAM LAI TUOM TAT SAU CAC KY LUT LOI, HOC BONG HANG NAM DUOC PHAN PHAT CHO CHAU CHAT HOC HANH GIOI XUAT SAC O NHA TRUONG . TINH THUONG YEU TRONG GIONG HO, TRONG BA CON DA DUOC VUN TRONG, CANG NGAY CANG THEM MUON VAN MOI TINH THAM THIET, DOAN KET, MOT LONG MOT DA, TUONG NHO ONG BA .
 
CHUNG TOI O XA, HOI TUONG LAI NHUNG GI DA QUA KE TU NAM 1996, VA HOI TUONG LAI NHUNG TOT DEP DA DEN VOI PHU TUNG THIEN VUONG, MA LONG CAM THAY CHAN HOA, VUI VE, HAN HOAN KHONG LAM SAO TA XIET .
 
CAC THANH TICH DUOC NHU TREN , CHUNG TA KHONG THE PHU NHAN CONG SUC , NGAY DEM KHO NHOC,  VA THI GIO QUY HOA CUA ONG BUU BAO, TRUONG BAN QUAN TRI, VA ONG BUU TO, TRUONG BAN CONG TAC PHU TUNG THIEN VUONG ,CUNG TAT CA QUY VI TRONG BAN QUAN TRI, DA DEM RA DE PHUC VU CHO PHU THO .
 
VAY NGAY HOM NAY, NHAN DIP LE KY DUC TUNG THIEN VUONG, CHUNG TOI XIN GOI VE DOI LOI TUONG NHO TO TIEN, VA CAU CHUC BAN QUAN TRI CANG NGAY CANG DAY THEM CONG SUC TO BOI PHU TUNG CHO DUOC  TOT DEP, CAU CHUC BA CON PHU TUNG VUI VE, HANH PHUC, SONG TRONG TINH THUONG YEU, DUM BOC LAY NHAU .
 
VA CUNG MOT DIP NAY, CHUNG TOI XIN GOI DEN ONG  BUU BAO , TRUONG BAN QUAN TRI, VA ONG BUU TO ,TRUONG BAN CONG TAC, MOT SO TIEN LA 1000 DO LA DE LO TO CHUC CUNG KY DUC TUNG THIEN VUONG TRONG 10 NAM, CU MOI NAM XUAT  100 DO  DE LO TO CHUC CUNG KY .
 
MOT LAN NUA, CHUNG TOI XIN CHAO TAT CA .
 
BUU HIEP

****************************************************

New Page 1

 

Di sản văn hóa Việt Nam

Nhă nhạc cung đ́nh Huế - Một di sản văn hóa âm nhạc ngàn năm 

LTS : Không phải t́nh cờ Tổ Chức Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc (Unesco) nh́n nhận Nhă nhạc cung đ́nh Huế là một trong 28 kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Đó là một cố gắng liên tục và vượt bực của những người Việt Nam và một số nhà văn hóa Nhật Bản đă vinh danh một nghệ thuật cổ truyền của Việt Nam, tưởng đă bị ch́m vào quên lăng, lên hàng tài sản văn hóa chung của nhân loại. 

Nhă nhạc cung đ́nh Huế là ǵ ? 

    Nhă nhạc cung đ́nh Huế là một thể loại âm nhạc dân tộc cổ điển, bác học thật sự kế thừa một truyền thống ngàn năm, kể từ khi những dàn nhạc - trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đ́nh - xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên các bệ đá kê cột chùa thời Lư, thế kỷ 11-12, đến lúc ông vua cuối cùng triều Nguyễn thoái vị năm 1945.

     Các chế độ chính trị cứ lần lượt nối tiếp nhau qua đi, văn hóa luôn luôn c̣n lại, v́ đó là sáng tạo của con người, sức sống của dân tộc, niềm tự hào của nhân loại. Sau 30 năm từ ngày chế độ quân chủ cáo chung tới ngày được Unesco vinh danh là di sản văn hóa của loài người, Nhă nhạc cung đ́nh Huế vẫn luôn tồn tại cho dù đă phải trải qua biết bao thăng trầm. Đó là nhờ công lao của một bà mẹ vua đă âm thầm ǵn giữ  cho nó sống ; đó cũng nhờ sự kiên tŕ của một số nghệ nhân, nhạc sĩ, nhà nhạc học trong và ngoài nước - được sự yểm trợ của những nhà văn hóa và cơ quan văn hóa nước ngoài "biết người biết của" - giữ cho nó sống. Đó là một may mắn cho dân tộc Việt Nam nói riêng và cho cả nhân loại nói chung, bởi v́ nhiều giá trị lịch sử và nghệ thuật của một nền văn hóa có nguy cơ thất truyền đă được phục hồi.

     Có lẽ không có một loại âm nhạc Việt Nam nào được ghi vào sách sử Hán Nôm, sách báo tiếng Việt, Pháp, Anh, Đức, Ư... rồi sản phẩm nghe nh́n hiện đại, nhiều và lâu dài như Âm nhạc cung đ́nh Việt và Nhă nhạc cung đ́nh Huế, từ An Nam chí lược đời Trần, Đại Việt sử kư toàn thư đời Lê, Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ đời Nguyễn, đến đĩa vinyl 33 ṿng "Âm nhạc Việt Nam truyền thống Huế" năm 1969, đĩa CD-Rom "Nhạc khí dân tộc Việt" năm 2001, những sách vở, bài viết gần đây của Trần Văn Khê, Trần Kiều Lại Thủy, Nguyễn Đắc Xuân

     Sau khi Nhă nhạc cung đ́nh Huế được vinh danh, cánh cửa hy vọng đi vào lâu đài di sản văn hóa nhân loại từ nay rộng mở. Theo tin từ Bộ Văn Hóa và Hội Văn Nghệ dân gian Việt Nam, mười loại h́nh văn hóa âm nhạc độc đáo khác của Việt Nam cũng đang được lập hồ sơ để chuyển tới Unesco xét duyệt với hy vọng được công nhận là di sản phi vật thể của nhân loại. Đó là các điệu Hát ả đào (ca trù), Hát quan họ, Hát xoan hát ghẹo, Hát chèo tàu, Hát dô, Hát văn, Sử thi Tây Nguyên, Hát Sli hà lù hà lô Tày-Nùng và 32 điệu Múa Thái cùng với Áo dài Việt Nam.

     Một sự thật không thể chối căi là Nhă nhạc cung đ́nh Huế có một giá trị nghệ thuật cao. Giáo sư Trần Văn Khê giải thích :

     "Nhạc khí dùng trong nhạc cung đ́nh rất đẹp trong h́nh thức, đóng ráp kỹ, chạm trổ khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng kim, tiếng thổ, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng, tiếng đá, tiếng da, tiếng mộc.

     Dàn nhạc đa dạng : Đại nhạc gồm đại hồng chung, trống đại, trống vơ, bồng, mơ, thanh la, chập chơa, sinh tiền, kèn, nhị ; Tiểu nhạc (hay Nhă nhạc) có đàn dây tơ : đàn nguyệt (2 dây), đàn tam (3 dây), tỳ bà (4 dây), đàn nhị (2 dây có cung kéo) ; có 2 sáo trúc, trống bảng một mặt, 3 thanh la nhỏ, sinh tiền.

     Việc thành lập những dàn nhạc không quan tâm đến số lượng mà đặt trọng tâm vào chất lượng và sự phối hợp màu âm : trong nhă nhạc, khi các nhạc công ḥa tấu ta vẫn nghe rơ tiếng của từng cây đàn : tiếng chững chạc, trang nghiêm của đàn nguyệt, tiếng chuyền tiếng phi bay bướm của tỳ bà, tiếng trong vắt, vuốt ve nên lời dịu ngọt của đàn nhị, tiếng đục khi vê khi khảy của đàn tam, tiếng nỉ non, vi vút của hai chiếc sáo trúc, tiếng kim của tam âm la, tiếng mộc của sinh tiền, tất cả nhạc khí đồng theo tiếng nhịp của trống bảng khi khoan khi nhặt, khi vào nội phách, khi ra ngoại phách, tấu lên 10 bài Ngự, từ nhịp điệu khoan thai của mấy bản Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, lần lần dồn dập của mấy bài Hồ quảng, Liên hoàn, B́nh bán, Tây mai, Kim tiền, rộn ră từ Xuân phong qua Long hổ, đi đến náo nhiệt như tiếng vó ngựa phi trong bài Tẩu mă.

     Thang  âm điệu thức đa dạng, tiết tấu phong phú, bài bản dồi dào.

     Công dụng, chức năng đa dạng : khi là nhạc lễ trong các tế giáo, tế miếu, trong những buổi đại triều, thường triều, khi là loại thính pḥng cung trung chi nhạc, đàn cho vua chúa triều thần nghe chơi, lúc lại là những điệu nhạc giúp vui trong yến tiệc, phụ họa cho các điệu múa cung đ́nh, cho những vở tuồng hát bội.

     Nhạc công, nhạc sĩ, các nghệ sĩ đàn ca, múa hát đều có kỹ thuật rất cao v́ chỉ triều đ́nh mới có khả năng tài chánh, quyền lực chính trị để qui tụ nhiều tài năng từ khắp nơi trong đất nước, có thể tạo điều kiện cho các nghệ sĩ ấy có thời gian và phương tiện trau dồi nghệ thuật để trở nên những nghệ nhân cao tay nghề, sáng tác dồi dào và biểu diễn tinh vi" (1).

     Để có được giá trị nghệ thuật lớn ấy, âm nhạc cung đ́nh Việt và nhă nhạc cung đ́nh Huế không những đă trải qua nhiều thế kỷ sáng tạo nghệ thuật, mà c̣n trải qua một thời gian dài giao lưu âm nhạc, tiếp biến văn hóa Việt - Chăm, Việt - Hoa, kể cả đem chuông đi đánh xứ người.

     Vài ví dụ : từ cuối thế kỷ 10, người Việt, thời Lê Đại Hành, đă tiếp thu âm nhạc cung đ́nh Chămpa ; đầu thế kỷ 15, thời Lê sơ, âm nhạc cung đ́nh triều Minh, Trung Quốc, được tham khảo, thậm chí bị sao chép ; cuối thế kỷ 18, triều Thanh đă có dịp thưởng thức cái mà họ gọi là "An Nam quốc nhạc" của thời Tây Sơn ; năm 1970, đoàn Ba Vũ (Huế) đă biểu diễn một số bài bản và điệu múa của Nhă nhạc cung đ́nh Huế tại Expo quốc tế Osaka, Nhật Bản, v.v. để rồi 33 năm sau giới yêu chuộng âm nhạc ở năm châu bốn biển khám phá lại kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu này của Việt Nam dâng cho nhân loại.

     Vài niên đại, thời điểm, sự kiện vừa kể có thể làm chứng cho một cuộc đại phiêu lưu sáng tạo nghệ thuật và giao lưu văn hóa dài 10 thế kỷ của một dân tộc thương người, yêu thơ, mến nhạc, trọng nhân nghĩa, thủy chung, thiết tha công lư, khao khát ḥa b́nh.

     Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, khi thưởng thức và trân trọng Nhă nhạc cung đ́nh Huế, nói hay viết về nó, người Việt Nam chúng ta không thể không ghi ơn tất cả những ai đă góp phần sáng tạo nó, ǵn giữ bảo vệ, phổ biến, ủng hộ, tài trợ nó, để có được cuộc trung hưng vẻ vang, xứng đáng với giá trị của nó như hôm nay.

     Đó là những điều sẽ được cố gắng gợi tả qua Niên biểu sơ lược này : 

Niên biểu 10 thế kỷ lịch sử Âm nhạc cung đ́nh Việt Nam và Nhă nhạc cung đ́nh Huế 

- Thời vua Lê Đại Hành (trị v́ 980-1005)     Năm 982, vua xâm nhập lăng thổ vương quốc láng giềng Chămpa, chiếm kinh đô Indrapura rồi đưa về Hoa Lư 100 cung kỹ (ca nhi, vũ nữ) Chăm. Kể từ ấy, ảnh hưởng Chăm thâm nhập âm nhạc cung đ́nh Việt. 

- Đời Lư : triều đại quân chủ đầu tiên (thế kỷ 11 và 12)

     Trên nhiều bệ đá kê các cột chùa Vạn Phúc (c̣n gọi là chùa Phật Tích, vùng Kinh Bắc - Bắc Ninh) thấy chạm nổi một dàn nhạc 10 người chơi 8 nhạc khí : thổi tiêu, sanh (ống sáo), đánh phách, trống cơm, kéo nhị, gảy đàn cầm, đàn tam, tỳ bà. Dàn nhạc gồm 4 nhạc khí dây, 2 nhạc khí thổ, 2 nhạc khí gơ này gồm những nhạc khí thuần Việt, hoặc có gốc gác Ấn Độ, Chămpa, Trung Quốc (2). 

- Thời vua Lư Thái Tông (1028-1054)

     Năm 1044, vua đánh Chămpa chiếm thành Phật Thệ, đưa về Thăng Long nhiều cung nữ giỏi hát múa Khúc điệu Tây Thiên (khúc hát, điêïu múa Chăm gốc gác từ Ấn Độ).

     Năm 1060, là người giỏi thơ văn, thích múa nhạc, vua đích thân phiên dịch một khúc nhạc Chămpa, ghi chép một điệu trống Chămpa rồi sai nhạc công tập luyện, biểu diễn.

     Năm 1069, vua đánh Chămpa, bắt được vua Chăm Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Chế Củ buộc ḷng nộp 3 châu Bố Chánh, Địa Lư và Ma Linh (Quảng B́nh, bắc Quảng Trị ngày nay) để chuộc lại tự do. Cuộc Nam tiến của người Việt bắt đầu. Một bộ phận nhân dân Đại Việt và một bộ phận nhân dân Chămpa bắt đầu chung sống với nhau, với cái tốt nhất và cái xấu nhất có thể xảy ra. 

- Thời vua Lư Nhân Tông (1066-1128)

     Dựa trên sách sử và văn bia, nhà sử học văn hóa học Trần Quốc Vượng đă "Phác họa chân dung nhạc sĩ Lư Nhân Tông" : đặc biệt giỏi âm luật, vua đích thân sáng tác những bài ca khúc nhạc cho nhạc công ca nữ cung đ́nh luyện tập. Văn bia chùa Đọi ghi "Vua ta : tứ thơ thâu tóm thiên biến vạn hóa của Đất, Trời, nhạc phổ ḥa hợp âm thanh của Đường, Phạn" (3). 

- Thời vua Lư Cao Tông (1176-1204)

     Năm 1202, vua sai nhạc sĩ cung đ́nh đặt ra Khúc nhạc Chăm ("Chiêm Thành âm") tiếng trong trẻo, ái oán, năo nùng, người nghe phải chảy nước mắt. 

- Đời Trần : thế kỷ 13-14

     Năm 1306, công chúa Huyền Trân, em vua Trần Anh Tông (1293-1314), "nước non ngàn dặm ra đi" sánh duyên cùng vua Chăm Chế Mân, và sính lễ là hai châu Ô và Rí (nam Quảng Trị, Thừa Thiên, bắc Quảng Nam). Sau khi công chúa ca bài Lư qua đèo, nhân dân hai vương quốc Đại Việt và Chămpa xích lại gần nhau hơn chút nữa, nhạc cung đ́nh Thăng Long và nhạc dân gian Thuận Quảng "nhuộm màu Chàm" hơn chút nữa.

     Năm 1307, Lê Tắc, trong An Nam chí lược, cho biết : nhạc cung đ́nh đời Trần có Đại nhạc, trong dân gian có Tiểu nhạc với cả thảy 12 loại nhạc khí : đàn gáo, đàn cầm, tỳ bà, thất huyền, tranh, tam, kèn tất lật, sáo dọc (tiêu), sáo ngang (địch), phách, tiểu bạt và trống cơm (phạn cổ). Trống này, Lê Tắc nói rơ là có gốc gác Chăm. 

- Đời Lê sơ : đầu thế kỷ 15 - đầu thế kỷ 16

     Trị v́ từ 1428 đến 1433, lê Thái Tổ (Lê Lợi) đă giao cho Nguyễn Trăi, tác giả Đại cáo b́nh Ngô, định ra qui chế triều phục và nhă nhạc. Chưa kịp triển khai th́ vua mất.

     Lê Thái Tông (1434-1442) lại giao việc đó cho Nguyễn Trăi tiếp tục làm, cùng với quan hoạn Lương Đăng. Do tŕnh độ tầm thường và tinh thần vọng ngoại của người này, Nguyễn Trăi xin trả lại công việc được giao. Vua ưng thuận rồi sau đó nghe theo ư kiến của Lương Đăng bất chấp sự phản đối của Nguyễn Trăi và bốn đại thần khác.

     Năm 1437, Lương Đăng tŕnh vua hai loại nhạc cung đ́nh mới sao chép theo qui chế nhă nhạc triều Minh : Nhạc ở trên điện vua và Nhạc ở dưới điện vua. Nguyễn Trăi tiếp tục phản đối và tŕnh vua một quan điểm nhân văn và dân chủ cao quí về âm nhạc : "Đời loạn dụng vơ, thời b́nh chuộng văn Ḥa b́nh là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân để chốn xóm thôn không c̣n tiếng oán hận buồn than. Như thế mới không mất cái gốc của âm nhạc" (Toàn thư). Vua khen ngợi tư tưởng của Nguyễn Trăi, nhưng việc thụ động sao chép nhạc nước ngoài là việc đă rồi. Năm năm sau, ngày 19-9-1442 cả nhà Nguyễn Trăi bị kết án tru di tam tộc.

     Năm 1470, Lương Thế Vinh, tác giả Hí phường phả lục, đă cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận lại tham khảo nhă nhạc triều Minh và tŕnh với vua Lê Thánh Tông (1460-1497), người đă chính thức tẩy oan và khôi phục danh dự cho Nguyễn Trăi năm 1464, hai loại nhạc cung đ́nh mới : Đồng văn (khí nhạc) và Nhă nhạc (thanh nhạc).

     Giai đoạn tốt đẹp nhất của đời Lê là thời Hồng Đức của Lê Thánh Tông (1470-1497). Đó là giai đoạn của Hội Tao đàn, của Thánh Tông di thảo, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức bản đồ, Thiên Nam dư hạ tập Nhạc cung đ́nh đời Lê đạt đến đỉnh cao với 8 thể loại : nhạc Tế giao, nhạc Tế miếu, nhạc Tế ngũ tự (5 vị thần), nhạc cứu Mặt Trời, Mặt Trăng (khi có Nhật thực, Nguyệt thực), nhạc Đại triều, nhạc Thường triều, Nhạc cử 9 lần khi đại yến, nhạc dùng trong cung.

     Từ khi chịu ảnh hưởng Trung Quốc mạnh mẽ, nhạc cung đ́nh Việt (được tôn là Nhă nhạc nghĩa là nhạc tao nhă) bắt đầu đối lập với nhạc dân gian lâu đời (vốn được các vua Lư, Trần quí trọng, bấy giờ bị chê bai là tục nhạc, nghĩa là nhạc thô thiển, thậm chí bị gọi là dâm nhạc, tức là nhạc bậy bạ), bị cấm không được tŕnh diễn trong cung đ́nh nữa. Toàn thư ghi : "bải bỏ các tṛ chèo hát". 

- Thời Mạc, Lê trung hưng, Trịnh và Lê mạt  ở Thăng Long và Đàng Ngoài : thế kỷ 16-18

     Bên cạnh Đại Việt sử kư toàn thư (thế kỷ 15-17), Lê triều hội điển (thế kỷ 17), tài liệu phong phú nhất về âm nhạc Đại Việt (Đàng Ngoài) thời kỳ này là những ghi chép quí báu của Phạm Đ́nh Hổ trong Vũ trung tùy bút và của Lê Qúi Đôn trong Kiến văn tiểu lục.

     Trong ba thế kỷ sau đời Lê sơ, ngoài các loại nhạc cung đ́nh kể trên c̣n có Cổ xúy đại nhạc, Nhạc huyền, Quân nhạc, Nhạc Bả lệnh (dùng trong phủ chúa Trịnh), Nhạc Giáo phường (vốn là nhạc dân gian, được đưa vào cung đ́nh thay thế cho Đồng văn và Nhă nhạc bị sa sút). Ba thế kỷ ấy cũng là thời nội chiến Mạc-Lê, Trịnh-Nguyễn liên miên, phân tranh chia cắt kéo dài, chúa tiếm quyền vua, nông dân khởi nghĩa, xă hội lầm than loạn lạc ; đó là những nguyên nhân góp phần làm cho nhạc cung đ́nh Đàng Ngoài ngưng đọng và dần dần đ́nh đốn. 

- Thời các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong : 1623-1777

     Từ những năm 30 của thế kỷ 17, nhà văn hóa lớn của Đàng Trong là Đào Duy Từ (1572-1634) - tác giả của Hổ trướng khu cơ, Ngọa long cương văn, Tư dung văn, của hai lũy Trường Dục và Nhật Lệ c̣n gọi là Lũy Thầy - tương truyền là tác giả một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đ́nh. Về sau ông được thờ như một trong những vị tổ của âm nhạc và sân khấu Huế tại nhà từ đường Thanh B́nh ở Huế đầu thế kỷ 19. Ông đă tiếp thu âm nhạc và sân khấu  Đàng Ngoài để giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623-1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới ở Đàng Trong : Ḥa thanh thự của các chúa ở Phú Xuân là một tổ chức nhạc cung đ́nh lớn gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiền biên).

     Vào cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, nhạc cung đ́nh Phú Xuân (Huế) đă khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692-1725) sau chuyến đi thăm Phú Xuân và Đàng Trong. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa nổi tiếng thời đó là múa Thái liên (hái sen) diễn tả dáng dấp đài các, trang nhă, t́nh tứ của các cô tiểu hầu đô thành Đàng Trong vừa uyển chuyển chèo thuyền vừa tươi cười hái hoa. Các ca nhi vũ nữ ấy "đội măo vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ làm nao ḷng người" (4).

 

- Thời Tây Sơn : 1788-1802

     Năm 1790, sau đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, vua Quang Trung (giả) cầm đầu một đoàn sứ giả sang thăm hữu nghị triều Thanh ở Bắc Kinh, cống nạp lễ vật, cầu ḥa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Hoàng đế phong cho vua Quang Trung tước "An Nam quốc vương" và vui vẻ thưởng thức đoàn "An Nam quốc nhạc" biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép sinh động, cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư thời Tây Sơn mà nhạc cung đ́nh của ta cuối thế kỷ 18 hiện ra khá rơ nét.

     Hội điển triều Thanh mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công, vũ công của ta.

     Về phần nhạc khí, theo giáo sư Trần Văn Khê, nghệ nhân cung đ́nh Tây Sơn chơi 8 loại nhạc khí mà hội điển triều Thanh đă ghi lại bằng chữ Nôm : "Một cái cổ (kai kou : trống), một cái phách (kai po), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai-t'an hien-tse), một cái đàn hồ cầm (kai tan hou kin), một cái đàn song vận (kai tan choang wen), tức là đàn nguyệt, một cái đàn tỳ bà (kai tan pi pa), một cái tam âm la (kai san in lo).

     Về phần hát xướng, Đại Việt quốc thư của ta bổ sung như sau : Nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc Đại Việt gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đ́nh Phú Xuân đă biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe "Nhạc phủ từ khúc thập điệu". Có thể đây chính là liên khúc 10 bản Thập thủ liên hoàn, c̣n gọi là Mười bản Tấu hay Mười bài Ngự nổi tiếng trong nhă nhạc cung đ́nh Huế, thậm chí có nghệ nhân c̣n gọi sai là "Mười bản Tàu" (có sự lẫn lộn giữa Tấu và Tàu, Tầu) (5).

 

- Thời thịnh triều Nguyễn : 1802-1885

     Thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đ́nh Đại Việt, Việt Nam, Đại Nam là thời thịnh của triều Nguyễn từ khi Gia Long lên ngôi (1902) đến trước lúc kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ (1885).

     Theo những tài liệu chủ yếu như Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỷ 19) và các công tŕnh lớn của Quốc sử quán (giữa thế kỷ 19) như Đại Nam thực lục chính biên, Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ th́ nhă nhạc cung đ́nh Phú Xuân trong suốt 80 năm đă được phục hồi, chấn chỉnh và phát triển. Các loại Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đă ảnh hưởng qua lại, thâm nhập lẫn nhau với nhạc cổ điển thính pḥng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuồng cung đ́nh (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế).

     Đáng chú ư là nhiều nhà hát, rạp hát lớn nhỏ của vua chúa, đại thần và của cả dân thường được xây dựng : đài Thông minh trong cung Ninh Thọ đời Gia Long, Duyệt thị đường trong hoàng cung đời Minh Mạng, Minh khiêm đường trong Khiêm cung (lăng Tự Đức), rạp hát Ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên trong tư dinh thượng thư Đào Tấn đă không loại trừ hay lấn lướt sự tấp nập dân gian của những rạp hát Ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đ́nh họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát Bà Tuần (tồn tại đến 1975), v.v.

     Đời Gia Long (1802-1820), Việt tương đội, kế thừa Ḥa thanh thự của các chúa Nguyễn, là một tổ chức âm nhạc cung đ́nh lớn với 200 nghệ nhân ưu tú tuyển từ nhiều nơi trong nước. Sân khấu ca múa nhạc và hát bội đầu tiên được dựng lên là đài Thông minh, dành cho vua và hoàng gia.

     Đến đời Minh Mạng (1820-1840), nhà vua cho dựng nhà hát lớn đầu tiên trong lịch sử âm nhạc và kịch nghệ Việt Nam : Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh b́nh thự với qui mô lớn hơn, lại lập thêm đội Nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, nhạc nữ ; đặc biệt triều đ́nh c̣n cho dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế thờ Đào Duy Từ và hàng chục vị khác : đó là Thanh b́nh từ đường (1825), trước nhà thờ dựng bia và một sân khấu để biểu diễn trong các dịp tế lễ. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng âm nhạc và kịch nghệ cung đ́nh đă phát triển tốt đẹp.

     Đời Tự Đức (1841-1883), âm nhạc thính pḥng (ca Huế, đờn Huế), nhă nhạc và hát bội cung đ́nh đạt tới đỉnh cao. Nhà hát lớn Minh Khiêm đường được dựng trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ trở thành Khiêm lăng). Ông hoàng bà chúa tham gia dựng rạp hát, sáng tác nhạc và tuồng hát bội. Tương truyền Tứ đại cảnh là một tác phẩm của Tự Đức (?), ông vua này đă lập ra một thứ Hội Tao đàn mang tên Hiệu thư pḥng, nơi vua và các danh nho thời ấy xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác và nhuận sắc các vở tuồng hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc Đào Tấn (1845-1907) là một trong những cột trụ của cơ quan văn hóa cung đ́nh ấy. Thời Tự Đức, nhiều tác phẩm viết về nhạc Huế cổ điển và cung đ́nh ra đời (được các nhạc sĩ Vĩnh Phan, Nguyễn Hữu Ba, giáo sư Hoàng Xuân Hăn sưu tầm, ǵn giữ) : đó là những Nam cầm phổ, Nguyệt cầm phổ ghi dấu một thời vang bóng.

 

- Thời suy triều Nguyễn : 1885 -1945

     Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược vương quốc Đại Nam từ Đà Nẵng rồi lấn chiếm dần các tỉnh Nam bộ, Bắc bộ (1858-1883). Triều đ́nh vội kư hàng ước rồi tháng 8-1885 kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra ngồi làm v́, mất hết thực quyền. Đời sống cung đ́nh tẻ nhạt, âm nhạc cung đ́nh ngày càng sa sút.

     Thành Thái (1889-1925) lập Vơ can đội, rồi thêm đội Đồng ấu (nhạc công diễn viên thiếu niên làm dự bị cho Vơ can đội). Tất cả đều hoạt động lai rai, cầm chừng.

     Khải Định (1916-1925) dựng thêm nhà hát Cửu tư đài trong cung An Định.

     Trong thời gian từ 1914 đến 1944, một sự kiện văn hóa đáng ghi nhớ : Tập san Những Người Bạn của Huế Cổ Kính (Bulletin des Amis du Vieux Huế, tiếng Pháp) ra đời tại Huế và đă xuất bản tổng cộng 120 tập, dày hàng vạn trang trong suốt 30 năm, dưới sự điều khiển của hai nhà Việt Nam học lỗi lạc : linh mục Cadière và ông Orband. Nhiều bài khảo tả có giá trị về âm nhạc và lễ hội cung đ́nh được công bố, nổi bật là công tŕnh của Hoàng Yến (1919) về Âm nhạc ở Huế và của R. Orband về Lễ tế Nam Giao.

     Thời Bảo Đại (1933-1945), Vơ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc với khoảng 100 nhạc công, ca công, vũ công hoạt động rời rạc trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính : tham gia phục vụ phần nhạc và múa trong lễ Tế Nam giao (tổ chức ba năm một lần). Ba vũ đội quen được gọi là đội Nhạc chánh Nam triều.

     Năm 1942, triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần cuối cùng Nhă nhạc cung đ́nh Huế biểu diễn trọng thể và đúng qui cách trước công chúng.

     Ngày 31-8-1945, trên khán đài uy nghi của Ngọ Môn, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn thoái vị. Nhă nhạc cung đ́nh tạm thời ră đám.

 

- Nửa thế kỷ cố gắng phục hồi : 1945-1993

     Một ít lâu sau ngày Bảo Đại thoái vị, cựu hoàng thái hậu mà nhân dân Huế thời ấy cẩn kính gọi là Đức Từ Cung (hay Đức Từ) thực sự là người có công cứu Nhă Nhạc cung đ́nh Huế thoát nguy cơ tuyệt tự. Từ 1946 đến 1975, với tiền riêng và biết chọn mặt gởi vàng, bà ủy nhiệm cho ông Nguyễn Hữu Ḥa (tức Đội Ḥa, con ông Đội Thức, người chỉ huy Ba vũ đội nổi tiếng một thời) đi gom một số nhạc công cung đ́nh thất nghiệp (Lữ Hữu Thi, Nguyễn Mạnh Cẩm, La Cháu, Nguyễn Kế, Trần Kích) rồi lập lại một ban lễ nhạc gồm khoảng mươi người và các con cháu thạo nhạc của họ để thỉnh thoảng phục vụ các buổi tế lễ, kỵ lạp do bà và Tôn nhơn phủ tổ chức. Chính các cụ nghệ nhân ấy (năm nay nếu c̣n sống th́ cũng đă trên 90 xuân) và con cháu của họ là hạt nhân của đoàn Ba vũ đă hoạt động cầm chừng tại Huế cho đến trước 1975.

     Năm 1962, được sự tài trợ của Viện bảo tàng quốc gia nghệ thuật Á Đông Guimet và Trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học (CNRS) Pháp, luận án tiến sĩ của Trần Văn Khê, La Musique vietnamienne traditionnelle, được nhà xuất bản PUF (Paris) cho phát hành. Lần đầu tiên hơn 100 trang nghiên cứu nhạc học bằng tiếng Pháp được dành cho Nhă nhạc cung đ́nh Huế. Sau khi tác phẩm này được công bố, trong những thập niên 1960-1990, Trần Văn Khê đă được nhiều nhà xuất bản các bộ bách khoa thư Âu, Mỹ mời viết về nhạc Việt Nam và nhạc châu Á.

     Trong những năm 1963-1968, hai nhà nhạc học Việt Nam, Nguyễn Hữu Ba (Tỳ bà trang, Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Huế, Sài G̣n) và Trần Văn Khê (CNRS, CEMO Paris) được viện trưởng Viện Quốc Tế Nghiên Cứu Âm Nhạc Đối Chiếu (Tây Bá Linh), Alain Daniélou, tài trợ. Tại Huế, nghệ sĩ Nguyễn Hữu Ba, người trực tiếp phụ trách sưu tầm, ghi âm, chụp ảnh, tập hợp tài liệu nghiên cứu làm việc với ông Đội Ḥa và các lăo nghệ nhân trong và ngoài đoàn Ba Vũ để ghi âm nhiều bài bản nhạc Huế cổ điển và cung đ́nh. Sau gần sáu năm làm việc, nhiều tác phẩm âm nhạc cổ điển và nhạc cung đ́nh Huế sẽ được chọn lọc và công bố trong một đĩa nhựa vinyl dành riêng cho âm nhạc Việt Nam, do Unesco bảo trợ trong Bộ Hợp Tuyển Âm Nhạc Phương Đông (Anthologie musicale de l'Orient).

     Năm 1967, cuốn Musique du Vietnam của Trần Văn Khê được nhà xuất bản Buchet-Chastel Paris phát hành. Trong tác phẩm cập nhật hóa này (được bổ sung năm 1996), tác giả đă dành hơn 50 trang để nói về nhạc khí, lịch sử và giá trị nhạc cổ điển, nhạc cung đ́nh Huế.

     Năm 1969, Unesco công bố cùng một lúc tại Paris, New York và Cộng Ḥa Liên Bang Đức đĩa hát Âm nhạc Việt Nam I : truyền thống Huế, do Trần Văn Khê và Nguyễn Hữu Ba ghi âm và giới thiệu bằng ba thứ tiếng (Anh, Pháp, Đức), và Viện Quốc Tế Nghiên Cứu Âm Nhạc Đối Chiếu phát hành (Barenreiter Musicaphon BM30L2022). Nội dung đĩa hát gồm 11 tác phẩm về lễ nhạc, nhạc tôn giáo và nhạc tiêu khiển : Mă vũ và Mang, Phượng vũ, Đăng đàn, Mười bài Ngự, Đào điên, Ngũ lôi cổ, Tụng Lăng nghiêm, Tán Nhứt điển, Độc tấu đàn bầu, Phú lục chậm và Tứ đại cảnh.

     Ngay sau khi được phát hành, đĩa hát này đă liên tiếp nhận hai giải thưởng lớn : Giải âm nhạc Deutscher Schallplatten của Cộng Ḥa Liên Bang Đức năm 1969 và Giải dân tộc nhạc học của Viện Hàn Lâm Đĩa Hát Pháp năm 1970. Sự thành công của đĩa hát âm nhạc truyền thống Huế này đánh dấu sự sống lại của một di sản văn hóa từ lâu bị lăng quên. Từ sau ngày đó thế giới văn hóa biết đến nền âm nhạc cổ điển, nhạc cung đ́nh Việt Nam xứng đáng sánh vai với Ya-yue của Trung Quốc, Gagaku của Nhật Bản, Ah-ak của Triều Tiên.

     Năm 1970 một đoàn nghệ nhân Việt Nam, do giáo sư Nguyễn Hữu Ba dẫn đầu, đă được mời lên biểu diễn trên sân khấu lớn của Expo quốc tế Osaka (Nhật Bản), một số bài ca bản nhạc và điệu múa cung đ́nh.

     Năm 1981, tổng giám đốc Unesco Amadou Matar MBow đến Hà Nội và Huế phát động Cuộc vận động quốc tế giúp Việt Nam bảo vệ trùng tu di tích lịch sử, văn hóa Huế. Nhân buổi biểu diễn ca múa nhạc cung đ́nh tại Huế, chào mừng đoàn thượng khách, giáo sư Trần Văn Khê đă gợi ư với tổng giám đốc Unesco nên bảo vệ nền thi ca, âm nhạc, vũ điệu, kịch nghệ của cung đ́nh Huế, v́ đó là cái hồn, cung điện lăng tẩm của cố đô chỉ là cái xác.

     Năm 1997, nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) công bố cuốn Âm nhạc cung đ́nh triều Nguyễn của Trần Kiều Lại Thủy, công tŕnh đầu tiên bằng tiếng Việt đáng chú ư về đề tài này.

     Di tích lịch sử - văn hóa cố đô Huế và Nhă nhạc cung đ́nh Huế được nh́n nhận là di sản văn hóa chung của nhân loại : 1993-2003

     Tháng 6-1993, Unesco tổ chức Hội thảo quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại tại Paris, trong đó dự án bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của cố đô Huế và của các sắc tộc thiểu số Việt Nam.

     Tháng 12-1993, tổng giám đốc Unesco, ông Federico Mayor, tuyên bố Tổng thể di tích lịch sử - văn hóa cố đô Huế, di sản nghệ thuật kiến trúc của Việt Nam, là di sản văn hóa của nhân loại.

     Để chuẩn bị lễ kỷ niệm 10 năm (1993-2003) cố đô Huế được nh́n nhận là di sản văn hóa của nhân loại, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đă lập : Dự án qui hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa (tŕnh chính phủ), Hồ sơ Nhă nhạc cung đ́nh Huế (tŕnh Unesco), thành lập Nhà hát nghệ thuật cung đ́nh Huế, xuất bản nhiều sách nghiên cứu và sách giới thiệu di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Huế

     Đầu năm 1994, Unesco tổ chức hai buổi hội thảo quốc tế khác, một tại Hà Nội về Di sản văn hóa phi vật thể các sắc tộc Tây Nguyên do giáo sư G. Condominas chủ tọa và một tại Huế về Di sản văn hóa phi vật thể cố đô Huế do bà Noriko Aikawa và giáo sư Trần Văn Khê chủ tọa.

     Tháng 7-1994, cơ quan văn hóa Arion Edo của Nhật Bản mời đoàn nghệ thuật âm nhạc và múa cung đ́nh Huế, do nữ nghệ nhân La Cẩm Vân dẫn đầu, biểu diễn tại Đại nhạc hội quốc tế mùa hè ở thủ đô Tokyo, cố đô Kyoto và nhiều thành phố khác. Đài truyền h́nh NHK đă chiếu lại toàn bộ các buổi tŕnh diễn cho dân chúng Nhật Bản xem.

     Năm sau, do sự vận động của hai giáo sư Yamakuti Osamu và Tokumaru Yoshihito, quỹ Toyota Foundation đă tài trợ cho đoàn nghiên cứu nhạc học và chuyên viên kỹ thuật nghe nh́n Nhật Bản, với những trang bị tối tân nhất, sang Việt Nam thu âm và ghi h́nh tất cả những ǵ mà các lăo nghệ nhân c̣n nhớ được về Nhă nhạc cung đ́nh Huế để mang về nghiên cứu. Tất cả đă được đúc kết lại thành bộ Hồ sơ nhạc học sinh động và đồ sộ tồn trữ tại Viện đại học Osaka và Tokyo, bản sao gởi tặng Việt Nam.

     Những năm kế tiếp, 1995 và 2002, hai đoàn nghệ thuật Việt Nam (hát ả đào, nhạc cổ điển và cung đ́nh Huế) đến Pháp tŕnh diễn tại trụ sở Unesco (Paris), Nhà Văn hóa Thế giới Paris, nhiều thành phố khác tại Pháp và châu Âu. Các lăo nghệ nhân cung đ́nh đă được hoan nghênh nhiệt liệt.

     Năm 1997, hai giáo sư Yamakuti và Tokumaru lại vận động quỹ Japan Foundation tài trợ cho Đại học Huế mở lớp đào tạo 4 năm Nhă nhạc cung đ́nh. Tháng 6-2000, dưới sự d́u dắt của hai nghệ nhân lăo thành và ba giảng viên nhạc học, 11 sinh viên đầu tiên được cấp bằng tốt nghiệp cử nhân âm nhạc cung đ́nh.

     Trong hai ngày, 26 và 27-8-2002, Hội thảo quốc tế về Nhă nhạc cung đ́nh lần đầu tiên được tổ chức tại Huế. Nhân dịp này bà Noriko Aikawa, trưởng Vụ văn hóa và sáng tạo nghệ thuật Unesco, và giáo sư Trần Văn Khê đă giúp phía Việt Nam chấn chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hồ sơ Nhă nhạc cung đ́nh tŕnh Unesco.

     Đầu năm 2003, loạt bài của nghệ sĩ Trịnh Bách viết về Nhă nhạc cung đ́nh triều Nguyễn (6) chứa đựng nhiều tư liệu độc đáo về nhă nhạc cung đ́nh Việt Nam, nhất là đă làm bất tử những các cụ nghệ nhân, những "di sản văn hóa sống" : Lữ Hữu Thi, Lê Văn Lương, Lữ Hữu Cử

     Ngày 7-11-2003, tại Paris, tổng giám đốc Unesco, ông Koichiro Matsura, tuyên bố Nhă nhạc cung đ́nh Huế cùng với 27 kiệt tác của các nước khác được nh́n nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.

     Trong buổi trao bằng Di sản văn hóa phi vật thể Nhă nhạc cung đ́nh Huế ngày 31-1-2004, hơn một ngàn người có mặt trong hội trường Unesco (Paris) đă có dịp thưởng thức bài Tam luân cửu chuyển, Mười bài Ngự, các điệu múa Lân mẹ đẻ lân con, Lục cúng hoa đăng đặc sắc của những nghệ nhân Việt Nam, trong đó có cụ Trần Kích 90 tuổi.

     Để kết thúc, xin mượn lời tâm huyết của giáo sư Trần Văn Khê : "Chúng ta rất vui mừng, phấn khởi khi được thế giới công nhận nhạc cung đ́nh Việt Nam là một kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại Di sản văn hóa của ông cha ta để lại có bề dày của lịch sử, bề sâu của nghệ thuật. Chúng ta nên vô cùng thận trọng trong việc giữ ǵn và nhất là trong việc phát triển. Đừng để cho nhiệt t́nh của chúng ta [] làm biến chất cái hay của truyền thống".

     Đó cũng là lời nhắn nhủ dành riêng cho những người làm công tác quản lư văn hóa ở trong nước : Phải biết ǵn giữ trọn vẹn di sản của ông cha cho con cháu.

Lê Văn Hảo (Paris)

Chú thích :

(1) Trần Văn Khê, tham luận đọc tại Hội thảo quốc tế Nhă nhạc cung đ́nh Huế, Huế, 26-27 tháng 8-2002 : "Giá trị lịch sử và nghệ thuật của Nhă nhạc cung đ́nh Huế", tạp chí Kiến thức ngày nay, tháng 9-2002, tr. 7-11.

(2) Phát hiện khảo cổ học tại chỗ của Louis Bezacier năm 1940 ; Nghiên cứu nhạc học của Trần Văn Khê cuối thập kỷ 1950.

(3) Văn hóa Việt Nam, t́m ṭi và suy ngẫm, 2000, tr.712.

(4) Bản dịch Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, 1963.

(5) Đại Thanh hội điển sự lệ, bản in 1908, quyển 528, Thư viện Hội châu A Paris ; Đại Việt quốc thư, Trung tâm Học liệu Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài G̣n, 1962.

Choose a picture from the Gallery

New Page 1

Muốn xem guestbook có dấu chử Việt, xin đem chuột (mouse), bấm vào View ở phần trên,  bấm Encoding ở phần dưới  và bấm auto-select để xem guestbook  có dấu tiếng Việt .

 

Sign my Guestbook FREE GUESTBOOKS View my Guestbook

Ba?o Đa?i
Bảo Đại Vị hoàng đế cuối cùng
 

 
 
Vua Bảo Đại và hoàng hậu
                                    Nam Phương (Nguồn ảnh: Nguyễn Tấn Lộc)
Vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương kết hôn năm 1934
Tạp chí Lá thư thính giả tuần này của ban Việt ngữ có khách mời là hai người anh em họ của Cựu Hoàng Bảo Đại.

Nhân dịp này, trang Văn hóa có bài tóm lược cuộc đời của vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn.

Hoàng tử Vĩnh Thụy, sinh năm 1913 ở Huế và trở thành Đông cung thái tử năm 1922.

Ông được đưa sang Pháp học, theo sự chăm sóc của Khâm sứ Charles.

Ngày 8-1-1926, ông chính thức nối ngôi cha, vua Khải Định, và rồi lại quay về học tiếp ở Pháp. Công việc cai trị đất nước để lại trong tay chính quyền thuộc địa Pháp và Hội đồng phụ chính triều đình Huế, do Nguyễn Hữu Bài một tín đồ Thiên chúa giáo - đứng đầu.

Khi Bảo Đại sắp bước sang tuổi thành niên (18), triều đình Huế thúc giục người Pháp đưa vị hoàng đế quay về, trong lúc đa số quan chức Pháp cảm thấy Bảo Đại nên ở lại thêm ít nhất hai năm để học. Có vẻ như một trong các lý do là Pháp muốn tình hình tại Việt Nam bình ổn trước sự trở về của hoàng đế.

Và sự trở về đã là chủ đề cho một chiến dịch quảng bá nhằm tạo hiệu quả tối đa. Tháng Năm 1931, Bộ trưởng thuộc địa Reynaud, trong cuộc gặp với hội đồng phụ chính ở Huế, tuyên bố: đất nước các ông, sau sự trở về của hoàng đế Bảo Đại, sẽ chứng kiến một trong những khoảnh khắc vĩ đại trong lịch sử.

Sự háo hức của người Việt có thể tìm thấy qua các bình luận trên báo chí thời đó. Thảo luận về tiềm năng sẽ có cải cách chính trị được bổ sung bằng các tường thuật nói về sự chuẩn bị cho ngày về cũng như các tin đồn tăng thêm tự do cho báo chí bản địa.

Đảo chính năm 1933
Ngày 6-9-1932, Bảo Đại, ở tuổi 19, quay về Việt Nam. Một trong những quyết định đầu tiên của vị vua là bãi bỏ tục lạy (các quan thôi khỏi khấu đầu quỳ tấu ở trước sân đ́nh).

 
Bảo Đại khi còn nhỏ
Bảo Đại đi học ở Pháp trước khi về Việt Nam

Rồi vào ngày 2-5-1933, với sự chuẩn thuận của toàn quyền Pasquier, ông thực hiện điều mà người đương thời gọi là cuộc đảo chính âm thầm bằng việc hạ bệ Nguyễn Hữu Bài và bộ sậu của ông này. Nhiều nhân vật trẻ được đưa vào nội các, nổi bật nhất là Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm và Bùi Bằng Đoàn.

Phản ứng của báo chí đương thời trước sự kiện này nói chung tích cực. Một bài của tờ Annam Nouveau nhắc về sự gia tăng uy tín mà Bảo Đại có được từ cuộc đảo chính và bình luận là tất cả chứng tỏ ông hoàn toàn đồng thuận với tư tưởng của giai tầng ưu tú mới.

Như vậy mấy tháng đầu tiên sau khi Bảo Đại trở về có vẻ đánh dấu một sự khởi đầu thuận lợi. Bằng việc thay đổi nhân sự ở cấp cao nhất, ông làm hài lòng cả phe bảo hoàng muốn nhà vua thâu tóm thêm quyền lực và cả những người ít thủ cựu có khuynh hướng chỉ trích triều đình đương thời. Nhưng một biện pháp như thế không có nhiều ý nghĩa trừ phi nó biến thành uy quyền thật sự và các cải cách lớn. Khoảng thời gian từ đây đến khi Thế chiến Hai nổ ra sẽ chứng tỏ mức độ thay đổi mà có thể xảy ra.

Thời kì mới 1933-1939
Như dự kiến, cơ cấu chính quyền mới kêu gọi thêm các cải cách, với từng nhân vật có các quan điểm khác nhau.

Nhịp độ công việc của bộ máy mới bị đứt đoạn vì sự từ chức bất ngờ của Ngô Đình Diệm vào giữa tháng Bảy 1933.

Đã có nhiều lý do giải thích tình tiết này. Chẳng hạn, những tài liệu của Pháp ghi nhận Ngô Đình Diệm tỏ ra không hợp với vị trí mới. Mặc dù có tiếng trung thực và có khả năng khi làm quan cấp tỉnh, nhưng ông Diệm tỏ ra thờ ơ với cương vị của một bộ trưởng. Toàn quyền Pasquier ghi nhận: Rõ ràng chúng ta đang tiếp xúc một người bí ẩn, rất thờ ơ với những điều thế tục và muốn rút lui ngay khi có cơ hội. Trong hồi kí của mình, Bảo Đại lại bảo Ngô Đình Diệm trình bày với ông là ông bất mãn khi người Pháp trắng trợn vi phạm hiệp ước về chế độ bảo hộ. Và cũng có thuyết nói cuộc xung đột căn bản là giữa Phạm Quỳnh và Nguyễn Hữu Bài; trong lúc Diệm và Bài có liên hệ dựa trên gia đình và tôn giáo (anh trai của Diệm, Ngô Đình Khôi, cưới con gái của Nguyễn Hữu Bài).

Dù thế nào, trong khuôn khổ nội dung ta đang bàn, sự từ chức thể hiện những mâu thuẫn trong nội bộ triều đình, góp phần vào việc đình trệ các dự định cải tổ. Một yếu tố khác là chính thái độ Bảo Đại. Trong hồi ký, ông bảo mình bị sốc và mất ảo tưởng khi quay về chỉ để nhận ra mình chả có mấy quyền hành. Mặc dù luôn cần thận trọng khi đọc các hồi ký, nhưng không phải không có lý để giả định Bảo Đại thật sự thất vọng với kết quả của những cải cách ban đầu mà ông nắm vai trò khởi xướng. Ngoài ra cái chết vì tai nạn máy bay của toàn quyền Pierre Pasquier đầu năm 1934 cũng làm mất đi con người ủng hộ Bảo Đại mạnh mẽ nhất.

Và cuối cùng, chắc chắn Bảo Đại nhận ra rằng cải cách nào thì cũng không làm thay đổi mối quan hệ căn bản giữa Pháp và Việt Nam. Chức vụ Résident Supérieur và toàn quyền nắm thế chủ động, và mọi quyết định quan trọng đều phải thông qua một hoặc cả hai nhân vật này. Trong hoàn cảnh đó, Bảo Đại có ít thực quyền, và bất kì sự nhiệt tình nào của ông ắt hẳn cũng dần phai lạt.

Thế chiến Hai

Ngày 3-9-1939, Pháp tuyên chiến với Đức. Mười ngày sau, Bảo Đại nộp bản đề nghị cải cách gồm bốn điểm. Tân toàn quyền Catroux lấy lý do tình hình chiến tranh để thoái thác việc thảo luận. Nhưng ông có quà an ủi là chiếc máy bay Morane 343 cho vị vua trẻ để tiêu khiển.

 
Bảo Đại năm 1995 (Nguồn
                                    ảnh: Nguyễn Tấn Lộc)
Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945

Dù có quan tâm đến cải cách, Bảo Đại không phải là một lãnh tụ chính trị hay thậm chí một người tranh cãi bướng bỉnh. Sau này, khi đề nghị chương trình cải cách với toàn quyền Jean Decoux, ông được bảo là giống như ở Anh, hoàng đế trị vì nhưng không cai trị. Bảo Đại không tốn thời gian phản đối: ông chọn vai trò mà nhiều người sau này gọi là một playboy hoàn hảo.

Đêm 9-3-1945, Nhật làm đảo chính Pháp tại Đông Dương. Ngày 11-3, sau cuộc gặp với đại sứ Nhật Yokoyama, Bảo Đại công khai bãi bỏ hiệp ước 1884 với người Pháp và tuyên bố sự độc lập của Việt Nam nằm trong khối Đại Đông Á.

Ngày 19-3-1945, dưới sức ép của Nhật, Bảo Đại buộc phải cách chức Phạm Quỳnh, người thân Pháp. Vài tuần sau, Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt và hành quyết. Một chính phủ mới, với thủ tướng Trần Trọng Kim, được lấp vào chỗ trống. Họ dự định cải cách hiến pháp cùng nhiều chủ đề khác, trước khi nhận ra quyền quyết định nằm trong tay người Nhật.

Thoái vị
Sau vụ đánh bom Hiroshima, chính quyền Nhật đầu hàng ngày 8-5-1945. Ngày 17-8, chính quyền Huế ra hai đạo dụ. Một nói rằng Bảo Đại mời lãnh đạo Việt Minh đến Huế để thành lập nội các và rằng ông sẵn sàng chuyển giao quyền lực cho họ nếu đó là ý nguyện của dân. Chiếu thứ hai xác nhận sự độc lập của Việt Nam. Sau khi Hà Nội rơi vào tay Việt Minh ngày 19-8, mọi sự xem như an bài. Đêm 23-8-1945, Chính phủ Cách mạng Lâm thời gửi điện đ̣i Bảo Đại thoái vị. Để rồi ngày 30-8-1945, một lễ thoái vị diễn ra trước Ngọ môn. Bảo Đại - người từ nay trở thành công dân Vĩnh Thụy - tuyên bố: "Thà làm dân một nước độc lập, hơn làm vua một nước nô lệ".

Sự nghiệp chính trị của Bảo Đại chưa kết thúc với việc thoái vị, tuy ông chỉ là một nhánh trong cả mạng lưới những hi vọng và chính sách tác động tới sự phát triển của Việt Nam theo sau Nhật đầu hàng tháng Tám 1945. Ông tiếp tục đóng một vai trò phức tạp và mơ hồ trên chính trường, với việc trở về sau thời gian lưu vong cuối thập niên 1940 để trở thành Quốc trưởng do Pháp bảo trợ. Cuối cùng năm 1955, ông bị Ngô Đình Diệm truất phế. Đến thời điểm này, chế độ quân chủ Việt Nam vĩnh viễn kết thúc.

 

H́nh ?nh Hu? qua ca Hu? Friday
H́nh ảnh Huế qua ca Huế
Friday, March 12, 2004 6:41:15 PM   
 
cahue.jpg
 
Lê Thanh

LTS.- H́nh ảnh của Huế được biểu hiện qua ca Huế. Và đó cũng là h́nh ảnh của Huế buồn man mác, buồn muôn thuở. Bài viết dưới đây là của một đồng hương gốc gác Huế viết về nỗi nhớ Huế qua ca Huế:

Có thể nói ví von rằng: Sức sống của ca Huế giống như Mùa Xuân: Nó sung sức, mượt mà, duyên dáng, ấm áp... và trường tồn bởi v́ nó là một nhánh của dân ca nước Việt.

Một số nhà nghiên cứu cho biết: Ḍng ca dân tộc này đă h́nh thành, phát triển trong không thời gian từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18 tại đất Huế thơ mộng và chính xác hơn là nó ra đời từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu - tức là Chúa Minh (1692-1725). Chính ông chúa lăng mạn, hào hoa này đă ứng tác những bài hát ngắn, điệu buồn buồn mà sau này, người ta gọi những bài có giọng điệu đó là Nam Ai. Đầu tiên các làn điệu ca Huế được hâm mộ trong giới quyền quư: Các vương tôn, quư tộc, các Mệ ở kinh thành Huế đều ưa chuộng hát ca Huế, dần dần ca Huế xâm nhập vào mọi nơi, mọi người, kể cả những chỗ dân dă với nội dung, h́nh thức thể hiện đều phong phú, đắm say ḷng người... (phổ biến là các điệu Nam B́nh, Nam Ai, Hành Vân, Lưu Thủy... với lời hát đơn giản, giàu chất thơ, đậm màu dân ca của vùng và gắn với những điệu ḥ, điệu lư). Trước khi bắt vào một bài ca, người Huế thường mào đầu bằng một điệu ḥ, điệu lư đặc sắc, có liên quan ít nhiều đến nội dung bài ca và nhạc điệu gần gũi với nhau. Ví dụ trước khi hát bài Tương tư khúc th́ nên bắc cầu bằng các điệu lư như Lư Tử vi, Lư năm canh; c̣n khi chuẩn bị hát điệu Nam Ai th́ người hát sẽ cất giọng ḥ Mái nh́ da diết v.v..

Thời xa xưa, các ông hoàng, bà chúa không những biết hát, thích hát ca Huế, mà c̣n tham gia biên soạn nhạc, lời, làm nhạc cụ. Hồi đó những tên tuổi của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Ưng B́nh Thúc Giạ, Công Chúa Mai An rất quen thuộc và nổi tiếng trong giới chuộng ca Huế.

Trong dân chúng cũng có những người theo đuổi nghiệp ca Huế và được nhắc đến trong sự ngưỡng mộ, kính trọng, được xă hội coi là những nghệ nhân. Đó là ông Ca Soạn, Lư Vũ, Thừa Khâm, Nguyễn Kế, các bà, cô Đẩu Nương, Tuyết Hương, Châu Loan, Châu Dinh, Hồng Lễ... những người đă có nhiều đóng góp làm cho loại h́nh ca Huế phát triển mạnh.

Người mê ca Huế hát ở khắp nơi: Tại cung điện, phủ đệ Chúa Nguyễn và nơi ở của các bề tôi xa hoa, u tịch; trong căn pḥng ấm cúng, bạn bè tụ họp hát thi nhau; trong vườn Huế mướt quá, xanh như ngọc - ca Huế lan tỏa cho con người và cây, hoa cùng thưởng thức; với những con đ̣ trôi lững thững trên ḍng Hương Giang, th́ giọng ḥ Mái Nh́, Mái đẩy cùng lời ca du dương làm quên cả thời gian v.v.. Ngoài những lời hát ứng tác, lời được soạn cố định, người ta c̣n phổ những bài thơ, đoạn thơ kiểu như:

Bến Tầm dương canh khuya đưa khách

Tạnh hơi thu, lau lách đ́u hiu,

Người xuống ngụa, khách dừng chèo,

Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti (Bài Tỳ bà hành của nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường); hoặc

Hôm nay, năm ngoái cửa này,

Hoa đào rạng rỡ, hây hây má người,

Người má đào ở đâu rồi?

Hoa đào năm ngoái vẫn cười gió đông

(Bài Đề đô thành Nam Trang của Thôi Hộ đời nhà Đường).

Sau này, khổ thơ

Đưa người ta không đưa qua sông,

Sao nghe tiếng sóng vỗ trong ḷng,

Nắng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong

(Tống biệt hành của Thâm Tâm)

Và một số bài của Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử... cũng được dân hát ca Huế đưa vào phổ làn điệu rồi hát.

Ngày nay ca Huế vẫn tồn tại trong kho tàng dân ca nước ta. Đông đảo các nhạc sĩ có duyên với ca Huế đă khai thác làn điệu của nó để sáng tác nên những bài ca lay động ḷng người. Các bài hát như Huế một t́nh yêu của tôi, Gửi Huế yêu thương, Mưa trên xứ Huế... có lẽ thành công là nhờ phần lớn vào chất ca Huế. Nhiều bài hát về Huế mang phong cách ca Huế đă được các ca sĩ như Bảo Yến, Thu Hiền, Hương Mơ, Quang Linh... thể hiện rất đạt, không những được khán giả trong nước mà bà con người Việt sống ở nước ngoài (nhất là người Huế) và các bạn ngoại quốc yêu Huế, nhiệt liệt hoan nghênh.

Mùa xuân về, được nói về ca Huế, nghe ca Huế, nghe bài hát mang âm hưởng dân ca Huế là một hạnh phúc. Dù sao, ca nhạc là một h́nh thức gần gũi với hồn người, với cái đẹp, cái thiện... và dễ làm con người đến gần nhau, hiểu nhau, mến nhau, cảm nhau.

*********************************************

VUA BAO DAI ,VO, VA ONG BA BAC SI VU HAU (09/1985)
vuhauvavuabaodai.jpg

CO THU VAN, CO DA THAO VA DUC TU CUNG (01/1971)
thuvandathao.jpg

New Page 1

Ngày 10 tháng 12 năm 2003

Trong bài số 2 chúng tôi có đăng bài " Nam Phương Hoàng Hậu " với h́nh ảnh của Nam Phương Hoàng Hậu và Vua Bảo Đại . Nay chúng tôi vừa nhận được hai tấm h́nh do Bác Sỉ Vủ Hậu gởi đến . Tấm thứ nhất, Vua Bảo Đại và vợ chụp chung một tấm h́nh với hai ông bà bác sỉ Vủ Hậu tại Paris, tháng 9 năm 1985 . Tấm thứ hai là h́nh của bà Vủ Hậu, tức cô Thu Vân , và cô em là Dạ Thảo chụp chung với đức Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại ,h́nh chụp tháng giêng năm 1971. Cô Thu Vân gọi Đức Từ Cung bằng cô .

 

***************************************

THU?N AN QUI CHÂU

Ngày 12 tháng 12 năm 2003 .

Bài thứ Mười Bốn

Để thay đổi không khí, xin mời Quư vị xem bài thơ chử Hán mà Đức Tùng Thiện Vương đă làm sau một chuyến đi chơi thuyền từ băi bể Thuận An trở về , thuyền lướt nhẹ nhàng trên sông Hương không có chút gợn sóng, thuyền về đến sông Lợi Nông, bây giờ là sông An Cựu . Bài thơ chử Hán do Cụ Ưng Tŕnh, Hiệp Tá Đại Học Sĩ và Linh Mục Bửu Dưỡng dịch ra tiếng Việt .

THUẬN AN QUI CHÂU

Phong khẫn mộ triều b́nh,

Qui châu phong lưu khinh,

Loan đa phàm lủ chuyễn,

Giang vĩnh nguyệt đồng hành .

Sa dự hồi mâu thất,

B́nh sơn kháng thủ nghinh ;

Hầu môn quần trĩ vấn,

Hải vật sách lam khuynh .

 

Dịch nghĩa :

 

Thuyền đi Thuận An về,

Gió mạnh nước chiều băng .

Thuyền về buông nhẹ ḍng,

Nhiều eo nặng trở buồm,

Sông dài đồng với trăng .

Nh́n lui đă mất băi cát,

Ngự B́nh đưa tay ra đón, 

Cửa chờ có bầy trẻ hỏi, 

Cá biển chúng đ̣i nghiêng giỏ để xem .

 

Dịch thơ :

 

Chiều hôm gió mạnh nước thăng bằng,

Buông nhẹ thuyền về lướt giữa ḍng .

Dăi đất quanh co buồm chuyển trở,

Con sông dài thẳng bóng trăng song  .

Mắt nh́n băi cát không c̣n thấy,

Tay đón núi B́nh vẫn cứ trông ;

Trước cửa đợi chờ bầy trẻ hỏi ,

Đ̣i nghiêng giỏ cá chúng đương mong .

 

B́nh luận :

Thi-sĩ tă một cuộc đi chơi Thuận An lúc trở về . Ngày xưa,các ông hoàng, bà chúa, tao nhân mặc khách năng đi chơi thuyền, nhất là trong mùa hè .Không như ngày nay, có xe hơi, đi đường bộ . Xưa vẫn đi thuyền trên sông Hương . Thường trong lúc chiều hôm, mặt trời vừa khuất bóng th́ có gió mát . Hôm nay, thấy gió mạnh mà ngọn nước vẫn bằng phẳng . Đây là một điều dường như có tánh cách mâu thuẫn khác thường, nên thi gia đă phải lưu ư . V́ hể gió mạnh th́ có sóng, mặt nước chao động chứ không bằng phẳng .  Những ai có dịp đi thuyền trên sông Hương trong buổi chiều hôm, giữa tiết mùa hạ, nếu lưu ư, chắc đă trông thấy cănh đó . Mặt nước sông Hương vẫn rộng, khiến  cho có khi gió thổi mạnh,nhưng không lướt trên mặt nước, nhất là gió Nam hay gió Bắc, thỗi từ bờ nầy sang bờ kia, chứ không phải theo gịng con sông, dọc theo hướng Đông Tây .

Khi thuyền ở Thuận An về là ngược gịng nước , nhưng v́ nước sông Hương có điều đặc biệt, là trừ phi những lúc mưa gió, ngoài ra nước vẫn phẳng lặng, dường như trên mặt hồ, nên chiếc thuyền nho nhỏ có thể phóng đi một cách nhẹ nhàng, dưới một hai mái chèo thư thă .

Ngày nay từ phía Đông Ba lên đến Giă Viên, hai bên đều ngay thẳng, không có quanh co bao nhiêu . Nhưng đương thời, Tùng Thiện Vương, thế kỷ thứ 19, bờ sông Hương chưa được sữa sang xây đắp, nên có nhiều chỗ dôi ra lỏm vào . Thuyền dọc theo bờ sông, muốn tránh cho khỏi tạt vào đất, nên phải theo những chỗ quanh co, thành thử nhiều lần phải thay trở cánh buồm .

Mặt trăng vừa mọc chiếu sáng giữa ḍng sông,thuyền đi tới vẫn thấy có nước có trăng, khiến cho khách có căm tưởng là trăng đồng hành với nước, mặc dù con sông vẫn dài . Không rỏ lúc nầy thuyền thi sĩ đang c̣n ở trên Hương Giang hay đă vào sông Lợi Nông, (Sông An Cựu) là con sông nhỏ  do vua Minh Mang đă cho đào nối liền sông Hương ra biển, đi qua từ Phủ Cam đến sông Lợi Nông  là nơi có nhà của  Tùng Thiện Vương .

Có lẽ câu thứ năm nói rỏ là thuyền đă vào sông Lợi Nông, v́ đưa mắt nh́n lui không thấy c̣n băi cát trắng . Ngày nay cũng c̣n có thể phân biệt bờ sông Hương phần nhiều lài lài từ  trên đường xuống dưới mặt nước , trừ bên tă ngạn người Pháp đă xây thành , c̣n hai bên sông Lợi Nông th́ đất vẫn cao, nên băi cát thi sĩ muốn nói chắc là ở trên sông Hương, chứ không phải sông Lợi Nông . Hay là Ngài muốn nói đến cồn Giả Viên , khi thuyền đă đi vào Phủ Cam , th́ không c̣n trông thấy nữa , nhưng lại thấy rỏ núi Ngự B́nh dường như đưa tay ra chào đón .

Tuy con sông Lợi Nông không hẳn là song song với núi Ngự B́nh, nhưng có điều đáng chú ư, là đứng trên con sông ấy, cũng thấy núi kia đối diện với ḿnh; và núi chạy dài khác nào như hai cánh tay đưa ra đối với khách đứng trên thuyền .

Khi thuyền đến bến, ngay trước nhà thi sĩ th́ thấy một đoàn trẻ đứng chờ trước cửa, vội chạy đến hỏi han nhộn nhịp . Đoàn trẻ nầy âu hẳn là con cháu thi sĩ, theo tiếng ngày xưa trong hoàng tộc, cũng gọi là công tử hay công tôn ;nhưng nói đúng hơn là con trai và con gái, chứ chưa có đến hàng cháu . Có phải v́ trời đă tối mà chưa thấy về, nên mong mỏi chờ đợi chăng ? Hỏi han v́ đâu về tối ,cuộc đi chơi có vui, có khỏe ǵ không ? Nhưng đây là một đoàn trẻ, chứ đâu phải người lớn để có ư tứ như thế . Dù có t́nh chăng nữa, cũng không chắc nói ra lời .Thi sĩ không hề ngạc nhiên và cũng không chút phiền trách, lại tă đúng sự thật v́ tính t́nh trẻ con . Điều đang mong mỏi là đi biễn về có đưa về nhiều cá nhiều tôm chăng, nên yêu cầu nghiêng giỏ lại để xem thử được nhiều ít lớn nhỏ thế nào . Tính ṭ ṃ và tính tham ăn của con trẻ, dù con ông hoàng tử cũng thế, thi sĩ đă diễn tả một cách rất tự nhiên .

Đọc bài thơ nầy biết được một vài đặc tính của tác giả . Người ưa thích phong cảnh sông núi, thích đi chơi biển, lại giản dị ,hiền hậu, chiều chuộng trẻ con . Hay để ư đến từng chi tiết, nhất là những điểm đặc biệt khác thường, không mấy ai lưu ư : gió thổi mạnh mà nước vẫn bằng, một khúc sông mà buồm phải nhiều lần thay đổi, nước và trăng cùng đi với nhau . Người dể có cảm t́nh và nhiều tưởng tượng : thuyền về th́ phóng ḿnh nhẹ nhàng trên sóng nước hợp với ḷng người trong thuyền chăng  ? Bải cát kia không c̣n trông thấy nửa, khách có lưu luyến chăng ? Hay v́ ai đă vô t́nh không bằng trăng kia vẫn đi theo nước . Núi Ngự đưa tay chào đón vị thi sĩ đi về, hay là thi sĩ có ư nói núi kia cũng như của ḿnh, cảm khái của một ông hoàng tử hay của một người có ư tưởng cao xa , v́ theo tên, núi ấy là bức b́nh phong của vua : th́ chính ḿnh cũng là người ở trong nhà vua với tinh thần tôn quân, tuyệt nhiên không hề có ư tưởng vượt quyền . Vừa tính, vừa ư, vừa khí khái, vừa tế nhị, vừa hiền hậu, vừa đơn giản, thấy đủ trong tám câu thơ nầy .

 

**************************

1883

1883-1884

Trong bài thứ 13 dưới đây , xin Quư Vị đọc qua một giai đoạn cực kỳ bi đát của gịng Họ Nguyển dưới sự đô hộ tàn ác của Thực dân Pháp và sự chuyên quyền thái quá của các quan lại Triều Đ́nh Việt Nam thời bây giờ . Chỉ trong ṿng 4 tháng mà 3 vua Việt Nam đă bị giết chết đem lại một sự xáo trộn làm yếm kém tinh thần chiến đấu của nhóm cần vương nỗi dậy chống Pháp .

T́nh trạng biến động nói trên đă được đúc kết thành một câu đối mà tất cả dân chúng đều truyền khẩu , câu đối như sau :

"Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết,

Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường"

nghĩa là :

"Một sông hai nước lời khôn nói,

Bốn tháng ba vua triệu chẳng lành"

Một con sông Hương mà bờ bên hửu là đại diện nước Pháp, bờ bên trái là Nam Triều ,làm sao ḥa hợp được, làm sao nói chuyện cho hợp ư nhau được . Hai câu đối ở trên, ở chử chót, là Thuyết và Tường ,dụng ư ám chỉ Tôn Thất Thuyết và Nguyển Văn Tường là hai đ́nh thần đă nhúng tay vào việc giết chết 3 vua .

 

Bài thứ 13

TỨ NGUYỆT TAM VƯƠNG

Bốn tháng ba vua

Từ Dục Đức đến Kiến Phúc là một trong những giai đoạn đen tối nhất của lịch sử nhà Nguyển .

Vua Tự Đức có nhiều vợ song không có con nên đành phải nuôi 3 người cháu gọi ḿnh là bác ruột làm con nuôi, có tên như sau :

1-Ưng Chân tức Dục Đức, con Thoại Thái Vương .

2-Ưng Đường tức Chánh Mông, con Kiến Thái Vương .

3-Ưng Đăng tức Dưỡng Thiện , cũng con Kiến Thái Vương

Trước khi chết, Tự Đức để lại một bản di chiếu chỉ định hoàng tử trưởng Dục Đức 31 tuổi lên nối ngôi . 

Tuy nhiên di chiếu của vua Tự Đức có nhiều đoạn rất bất lợi cho vua Dục Đức . Nhà vua cho Dục Đức tính hiếu dâm, tâm t́nh xấu, mắt có tật dù xưa nay vẫu dấu kín, sợ sau nầy không c̣n thấy sáng . Nhà vua răn cho Ưng Chân không được cẩu thả trong sự nghiệp cai trị để làm tṛn nhiệm vụ , không phụ mệnh trời giao phó .

V́ vậy mà Phụ Chánh Đại Thần Trần Tiễn Thành dâng sớ xin vua bỏ bớt mấy đoạn liên quan đến nết xấu của Dục Đức và việc Dục Đức  "không dám đương được việc lớn",sợ làm cho hại đến danh dự và uy tín của người phải nắm vận mệnh quốc gia vào thời kỳ vương triều gặp nhiều khó khăn , nhưng vua Tự Đức không đồng ư bỏ ,mà theo nhà vua, nhằm mục đích nhắc người kế vị phải tự răn ḿnh, tu tĩnh .

SỰ PHẾ BỎ DỤC ĐỨC

Ngày 14 tháng 6 năm Tự Đức thứ 36 (17-07-1883), vua Tự Đức truyền đến các đại thần trong viện Cơ Mật bản di chúc chỉ định con nuôi lớn nhất là Thụy Quốc Công Ưng Chân nối ngôi, Trần Tiễn Thành là phụ chính Đại Thần, Nguyển Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là đồng phụ chính Đại Thần . Vua Tự Đức băng hà vào ngày 18 tháng ấy . Hoàng Tử là Thụy Quốc Công vào điện Hoàng Khúc chịu tang . Nhưng ngày 18, mặc dù không có sự đồng ư của Trần Tiễn Thành, mà 2 Nguyển Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng lên Hoàng Thái Hậu tờ hạch tội người kế vị theo di chiếu và xin cử người khác thay . Bản hạch tội kê 3 tội lớn của hoàng tử là :

1-Muốn sữa di chiếu .

2-Có đại tang mà mặc quần áo màu .

3-Hư hỏng, ăn chơi .

Hoàng Thái Hậu Từ Dủ chấp thuận, truyền rằng : Tiên Đế cũng biết các tật xấu của người mà ngài chỉ định kế vị và hết sức lo lắng, song sở dĩ phải chọn hoàng tử v́ t́nh h́nh thù trong giặc ngoài đe dọa, cần có vua đă trưởng thành để cầm quyền chính , nhưng bởi ông hoàng ấy không bỏ tính xấu, nên cần được thay thế .

Trong buổi thiết triều, khi Nguyển Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tŕnh bày cho các quan lại biết lư do phế Thụy Quốc Công . Trần Tiễn Thành định can thiệp nhưng Thuyết giận dử thét :  "Ông cũng có tội nặng, c̣n định nói ǵ ? " Cả triều đ́nh đều khuất phục , chỉ trừ quan khoa đạo Phan Đ́nh Phùng can rằng : "Tự quân chưa có tội ǵ mà phế bỏ như thế th́ sao phải lẽ ?" Nguyển Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyền bắt ngay lập tức . Sau nhờ sự can thiệp của Nguyển Trọng Hợp làm cho Thuyết hiểu là một người dũng cảm đến thế sẽ có lúc giúp ích được việc lớn , vị thủ lảnh tương lai của phong trào cần vương mới chỉ bị cách tuột hết chức tước và đuổi về quê .Dục Đức bị đưa về giam tại một pḥng nhỏ kín mít vừa được cấp tốc xây lên ngay trong biệt thự của ḿnh . Dục Đức sống sót được gần một tháng và chết sau đó .

 

VUA HIEP HOA
hiephoa.jpg

L? T?N TÔN HI?P HOÀ

LỄ TẤN TÔN HIỆP HOÀ

Sau khi truất phế được Dục Đức, Nguyển Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đề nghị lên Đức Từ Dủ Hoàng Thái Hậu đưa Lăng Quốc Công Hồng Dật, em ruột vua Tự Đức , con thư 29 của Thiệu Trị , lên làm vua .

Được sự đồng ư của Đức Từ Dủ, Tường và Thuyết cử một phái đoàn lên Kim Long rước Lăng Quốc Công vào Đại nội để chuẫn bị làm lễ Tân Tôn .

Nhưng Lăng Quốc Công từ chối . Năn nĩ măi không được, cuối cùng phải dùng vỏ lực ép ông lên kiệu rước vào Cẫm Thành , hai hôm sau làm lễ Tấn Tôn tại điện Thái Ḥa . Tương truyền trong buổi lễ, khi các quan đứng sắp hàng lạy, có một con chim đậu trên ngọn cây trước điện kêu tiếng lớn . Đến khi đọc di chiếu , lại có một đoàn dê đi qua cầu Kim Thúy, người ta cho là điềm không tốt . Quả nhiên, Hiệp Ḥa chỉ làm vua được 4 tháng 10 ngày trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn .

Nguyên nhân đưa đến cái chết bi thảm như sau :

Hiệp Ḥa lên ngôi lúc đă 37 tuổi nên không cam tâm làm tên bù nh́n trong tay hai phụ chính đại thần, chỉ chờ cơ hội thuận lợi là t́m cách thoát khỏi . Cơ hội ấy là ngày kư hiệp ước Harmand (25-8-1883) sau khi Pháp chiếm Thuận An . 

Khoăng 4 tháng sau khi lên ngôi, Hiệp Ḥa nhận được một mật sớ của 2 quan đại thần Hồng Sâm và Hồng Ph́ xin giết hai quyền thần Nguyển Văn Tường và Tôn Thất Thuyết . Sau khi xem sớ và châu phê :"Chuyễn cho Trần Tiễn Thành ", Hiệp Ḥa giao cho Thái Giám Trần Đạt đích thân mang đến cho Trần Tiễn Thành . Theo thông lệ, tờ sớ được đặt trong chiếc tráp có đóng ấn riêng . Trời chập choạng tối, tên thái giám đến gần cửa nhật tinh th́ gặp Nguyển Văn Tường đang vào cung . Thấy viên thái giám bối rối, Tường sinh nghi bèn đoạt lấy chiếc tráp, mở ra lấy tờ giấy ghi bản án tử h́nh của ông ta . Nguyển Văn Tường đi thẳng tới bộ binh trao tờ sớ cho Tôn Thất Thuyết. Thuyết triệu tập ngay đ́nh thần để xử tội Hiệp Ḥa ,Trần Tiễn Thành, Hồng Sâm và Hồng Ph́ ,tội mưu sát các viên phụ chính .

Lấy chử kư của các quan xong, Nguyển Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thân hành vào cung Diên Thọ để dâng lên Hoàng Thái Hậu tờ sớ để xin Hoàng Thái Hậu cho phế vua Hiệp Ḥa lập người khác, đó là Ưng Đăng, hoàng tử thứ ba của vua Tự Đức .

Ngay trong đêm 28 tháng 11 ( 29 tháng 10 âm lịch) Tôn Thất Thuyết thu tất cả ch́a khóa trong hoàng thành sau khi cửa đóng kín, ông sai Ông Ích Khiêm và Trương Văn Để dẫn 50 người lính vào điện Càn Thành bắt vua phải tự xử ḿnh theo lệ "tam ban triều điễn" dành cho các đế vương khanh tướng phạm tội tử h́nh .

TON THAT THUYET
tonthatthuyet.jpg

KI?N PHÚC

KIẾN PHÚC

LÊN NGÔI TRONG NƯỚC MẮT

 

Kiến Phúc là Hoàng tử thứ ba của vua Tự Đức, nguyên là con thứ ba của Kiến Thái Vương, phụ thiếp là bà Bùi Thị Thanh,  sanh năm Kỷ Tỵ (1869) . Năm thứ 23 triều Tự Đức,tháng giêng,  Tự Đức truyền đem vào cung nuôi làm Hoàng thái tử . Khi ấy nhà vua mới 2 tuổi . Bà học phi Nguyển Văn Thị phụng mệnh nuôi nấng .

Sau khi hai quan đại thần họp các quan văn, vỏ ở Tịch Điền để các quan cùng kư tên vào lá sớ truất phế Hiệp Ḥa và đưa hoàng tử Ưng Đăng lên ngôi , bây giờ đă sang canh tư (2 giờ sáng) , mưa gió sụt sùi, quan Hậu quân Nguyển Hanh được cử đi rước hoàng tử ở Khiêm Lăng, nơi hoàng tử được đưa về ở từ sau đám tang của vua Tự Đức .

Khi biết có đoàn rước đến, hoàng tử trốn dưới gầm giường, người ta lôi hoàng tử ra, đưa lên kiệu, mặc cho hoàng tử la hét, khóc lóc . Kiệu của hoàng tử được cán đến Tịch Điền, vào nhà quan canh . Trời tờ mờ sáng, mưa gió vẫn sụt sùi không dứt .

Khi hai vị phụ chính cho hoàng tử biết sự t́nh , hoàng tử lấy lư do ḿnh c̣n ít tuổi và thiếu kinh nghiệm để từ chối ngai vàng, nhưng bị mọi người xung quanh du dỗ và thúc ép ,rốt cuộc phải nhận lời . Hai vị Phụ chính báo cho các quan , trong đó có thêm các quan gặp phải phiên trực trong cung đêm đó .

Ngày 1-12-1883, Ưng Đăng lên ngôi với niên hiệu Kiến Phúc .

 

MỘT CÂU NÓI ĐỔI MẠNG ĐẾ VƯƠNG

 

Khi chọn Ưng Đăng về làm con nuôi, Vua Tự Đức đă giao việc nuôi nấng và dạy dỗ cho bà phi thứ ba là Học Phi .Cho nên khi trở thành vua Kiến Phúc th́ thế lực của bà Học Phi lên ngay . Nguyển Văn Tường thấy được điều ấy nên t́m cách để lấy cảm t́nh với bà Học Phi . Dịp may của Tường đă đến . Kiến Phúc bị bệnh đậu mùa, bà Học Phi ngày nào cũng hầu cạnh đức vua c̣n bé bỏng từ tờ mờ sáng cho đến nữa đêm . Quan phụ chính Nguyển Văn Tường  tối tối thường đến chầu Hoàng Đế và Hoàng mẫu .Kiến Phúc đă nhiều lần bắt gặp thái độ lă lơi giữa Nguyển Văn Tường với bà Học Phi nên rất tức bực .

Một đêm Kiến Phúc giă vờ ngủ để theo dơi câu chuyện trao đỗi giữa hai người . Đến một lúc chịu không nỗi, Kiến Phúc kêu lên :"Lành bệnh rồi tao sẽ chặt đầu cả ba họ nhà mi ".

Ngay tối đó, sau khi uống thuốc của bà Học Phi dâng lên, nhà vua qua đời . Cái chết của Kiến Phúc tuy vẫn c̣n trong ṿng bí mật nhưng người đời nghi là Nguyển Văn Tường đă đánh tháo thuốc của Thái Y Viện , sau khi nghe câu nói đầy phẫn nộ và nguy hiểm của nhà vua .

 

************************

 

 

CAU TRUONG TIEN
cautruongtien2.jpg

Đức Tùng Thiện Vương, với tâm hồn thi sĩ, thường hay ngao du sơn thủy, thích chèo thuyền trên sông Hương, thă thuyền dưới đêm trăng, nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ, tiếng gà gáy làng Thọ Xương . Các câu ca dao trong bài thứ 12 nầy rất hợp t́nh hợp cănh với Miên Thẫm Tùng Thiện Vương.

Bài thứ 12

CA DAO XỨ HUẾ

Nguyển Quư Đại

Huế kiêu sa và quyền lực một thời vang bóng, nhưng Huế đă lùi vào dĩ văng chỉ c̣n lại di tích lịch sử và thi ca lăng mạn. Viết về thi ca, lễ, nhạc xứ Huế quá rộng và bất tận. Tôi chỉ tham khảo những nét chính qua thi ca b́nh dân. Ca dao truyền tụng từ đời nầy sang đời khác được phổ biến sâu rộng trong dân gian, măi măi trường tồn trong lâu đài văn hóa dân tộc.

Xong trung học ra Đại học Huế, tôi có cơ hội tiếp xúc với phong tục đời sống, cảm nhận thi ca b́nh dân của Huế vào hồn. Kỷ niệm c̣n vướng đọng dư âm hơn 28 năm qua, nhớ về Huế mùa hè lắm ve sầu hót véo von, sông Hương nước trong xanh, lững lờ chảy về Thuận An, các đàn cá đối ung dung bơi lội t́m mồi. Hai bên bờ phượng vĩ nở đỏ rực, lộ hẳn trên nền trời trong xanh. Có lẽ đúng đất Thần kinh thơ mộng, nên thi ca b́nh dân phong phú, lăng mạn . Các điệu ḥ trên sông Hương trong những đêm trăng đẹp, đă làm rung động ḷng người lữ khách.

Đến Huế để nh́n lại những cung điện, đền đài, lăng tẩm, ăn các món ăn đặc sản .. chưa đủ , nhưng nếu nghe tiếng hát ru con qua ca dao, các giọng ḥ trên sông Hương, như vậy mới gọi là thưởng thức trọn vẹn được cái hay, thơ mộng của Huế.

Thi ca b́nh dân gợi lại dư âm, cái uy nghi của Kinh đô, Từ cửa Ngọ Môn cao vời vợi có lầu Ngũ phụng uy quyền qua các triều đại đến Điện Thái Ḥa nơi thiết đại-triều giờ đây vắng bóng người.. Thời xa xưa người Việt dùng loại đèn chai đốt sáng, đă biến mất theo sự phát triễn khoa học, đèn điện sáng tiện lợi, nhưng không tạo được nét huyền ảo trong những đêm trăng non ở Huế .

Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba cấp, Phu Văn Lâu hai tầng


Ai ơi chớ phụ đèn chai
Thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn


Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Người xưa tạo lập để công hầu vô ra.


Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh,


Ba cửa thẳng, hai cửa quanh
Sinh em ra phận gái, không hỏi chốn kinh thành làm chi !

 

Huế đất không rộng nhưng có chợ Đông Ba trước có tên là Đông Phước thay đổi vài lần , năm 1899 dời ra phố Tràng Tiền cho đến ngày nay, chùa Diệu Đế ở đông ngạn sông Đông Ba, Thiên Mụ..các di tích dù bị tàn phá bởi chiến tranh, thiên tai được trùng tu, những địa danh gắn liền với lịch sử, và phong tục.


Văn Thánh trồng thông
Vơ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xă Tắc hai hàng mù u. (1)


Đông Ba , Gia Hội hai Cầu
Ngó lên Diệu Đế trống lầu gác chuông


Bến chợ Đông Ba, tiếng gà eo óc
Bến chùa Thọ Lộc, tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương giợn sóng khuynh thành

 

Theo tương truyền năm 1601 chúa Nguyễn Hoàng đến đây thấy phần đất thiên, cảnh đẹp, trước có sông sau là hồ, dựng nên chùa Thiên Mụ, măi đến năm 1710 chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc chuông nặng 3285 cân ta, tiếng chuông ngân vọng ra xa, bên kia sông là làng Long Thọ Xương , có tiếng gà gáy ó o .


Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương


Huế đẹp thơ mộng, từ Đà nẳng ra trước khi đến Huế thấy núi Ngự B́nh nh́n phía trước tṛn nhưng sau hơi méo, cây cối không cao nhưng có nơi chim cu đứng gáy. Bến đ̣ nằm trên đường Huỳnh Thúc Kháng, dưới cầu Gia Hội những chiếc đ̣ nhỏ có mái cong.   Nếu khách bộ hành đi ngang qua đó sẽ được mời gọi. Muốn thưởng thức vẽ đẹp Hương giang, thuê thuyền đi trên sông, với gió mát, vẽ đẹp của thiên nhiên mây nước..đi vào thế giới yên tĩnh, tâm hồn thỏa mái nghe vọng lại tiếng hát cung đàn của ai đó .

Thuyền ai lơ lửng trên sông,
Có ḷng đợi khách hay không hỡi thuyền?
Để ta kết ngăi nối duyên
Trai anh hào gặp được thuyền quyên c̣n ǵ ?
Thuyền ai trôi trước cho em lướt tới cùng ,
Chiều đă về, trời đất mông lung,
Phải duyên th́ xích lại cho đỡ năo nùng đêm sương.
Núi Ngự B́nh mơ màng trăng gió
Niềm tâm sự ai thấu rơ cho ḿnh
Đoái nh́n sông Hương nước chảy thanh thanh
Sông bao nhiêu nước, dạ sầu bấy nhiêu !

Biến cố của Kinh thành Huế sau khi vua Tự Đức(1829-1883) băng hà, để lại những rối ren trong nội bộ triều chính (2) , được nhắc lại qua cao dao :


Một nhà sinh được ba vua  (3)
Vua c̣n, vua mất , vua thua chạy dài .


Gẫm xem thế sự mà rầu
Ở giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi .


Nhất giang lưỡng quốc nam phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường (4)


Thực dân Pháp đô hộ, Triều đ́nh Việt Nam mất hết uy quyền chỉ làm v́, thực quyền do thực dân và bọn tay sai cai trị, bóc lột tận xương tủy dân tộc. Các vua quan Việt Nam đều phẩn uất. Thành Thái bị phế, vua Hàm Nghi và Duy tân đều muốn khởi nghĩa dành lại độc lập, nhưng đều thất bại. (5)


Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu , ai sầu, ai thảm ?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông ?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông ?
Nghe câu mái đẩy chạnh ḷng nước non!

Sông Hương chảy đến chợ Đông Ba chia làm ba nhánh, không kể sông Đông Ba chảy dọc theo phía Đông hoàng thành về Bao Vinh, một nhánh chảy về Gia Hội chợ Dinh, Băi Dâu , một nhánh chảy dọc theo thôn Vĩ Dạ xuống ngă Ba Śnh. Ở giữa hai nhánh nầy là Cồn Hến. Một nhánh khác chảy về Chợ Cống có Đập Đá ngăn lại.

Thuyền từ Đông Ba, thuyền qua Đập Đá
Thuyền về Vĩ Dạ, thẳng ngă ba Śnh
Lờ đờ bóng ngả chênh chênh
Giọng ḥ xa vọng, nhắn t́nh nước non .


Thời thế ngửa nghiêng, Huế đôi lúc trỡ nên u buồn trầm mặc, sầu muộn trong thời tao loạn. những biến đổi của cuộc đời, chỉ để lại cho con người giọt nước mắt thương đau !

Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Sầu vơi giọt lệ nước sông Hương


Nơi bến Trường Tiền có cây đa bóng mát,
Gần bến Bồ Đề có băi phẳng ĺ
Trời ơi ! sanh giặc làm chi ?
Để quân Trấn Vũ phải ra đi cơ hàn !


Đêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng
Tiếng hát ngư ông giữa sông Nhật Lệ,
Tiếng kêu đàn nhạn trên áng Hoành Sơn
Một ḿnh em ngồi giữa sông Hương,
Tiếng ca theo khúc đoạn trường ai nghe !
 

Nhiều sĩ phu không cộng tác với chính quyền thuộc địa, một ḷng chống lại thực dân, nhưng không thiếu những người v́ quyền lợi cá nhân làm tay sai cho giặc, để vinh thân ph́ gia .
 

Đất Thừa Thiên trai thanh gái lịch
Non xanh nước biếc, điện ngọc, đền rồng
Tháp bảy tầng, thánh miếu, chùa Ông
Trách ai hai dạ một ḷng
Tham đồng bạc trắng phụ ḷng dân đen !

T́nh yêu với tổ quốc cũng như gia đ́nh được truyền tụng, cao dao chứa đựng được ḷng hiếu thảo của con cái đối cha mẹ ông bà.

Đêm đêm khấn vái Phật Trời
Cầu xin cha mẹ sống đời với con
Vô chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành .

Con gái lúc trưởng thành lập gia đ́nh, theo chồng đi về một vùng trời nào xa xăm tận Quảng Nam,  không quên nh́n mái nhà xưa thân yêu luyến tiếc tuổi thơ , xa gia đ́nh theo quan niệm xưa  "xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử .

Ra đi ngó trước ngó sau ,
Ngó nhà mấy cột , ngó cau mấy buồng.
Chiều chiều ra đứng ngơ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều

Mỗi địa phương đều có những lời hát ru con, từ thành thị cho tới thôn quê có những nét giống nhau, nhưng âm hưởng tùy theo lời ru à ời ..kéo dài thanh thoát . Chúng ta đă được mẹ hiền, hát ru ngủ lúc c̣n bé nằm trong nôi, Những trưa hè thanh vắng trong thành nội, vọng lại tiếng hát ru con à ời kéo dài âm thanh như lời dặn ḍ
 

Mạ ơi ! chớ đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ!
Ru con con thét cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam phổ, mua trầu chợ Dinh
Cá tôm mua tại chợ Śnh
Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường


Con chim xanh xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu ngành dâu da
Cực ḷng em chẳng nói ra,
Chờ trăng trăng lặng chờ hoa hoa tàn...


Nguồn an ủi của tuổi già được sống bên con cháu có ḷng hiếu thảo. Chữ hiếu là căn bản đạo đức của văn hóa lâu đời. Người Việt rất thiết tha với mái ấm gia đ́nh. Các món ăn ngon, dâng ba mẹ dùng như gạo vùng An Cựu nổi tiếng thơm ngon. Cha mẹ phải từ giả cơi đời nầy, theo định luật sinh tồn của tạo hóa. Phong tục thờ cúng tổ tiên tưởng nhớ ông bà. Trông lên bàn thờ nhang tàn đèn tắt, cảm thấy nỗi buồn lắng đọng


Ngó lên nhang tắt đèn lờ
Mẫu thân đâu vắng bàn thờ lạnh tanh !


Mẹ Già như chuối ba hương
Như xôi nếp một , như đường mía lau
Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi ,
Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già .


T́nh yêu là những rung động của hai tầng số tâm hồn gặp nhau, ca dao Huế cho t́nh ca đó len lỏi vào ḷng, vượt thời gian tâm lư cũng như vật lư, t́m đến với t́nh yêu những phút giây đợi chờ, thương nhơ, hay giận hờn .


Đường vô xứ Huế loanh quanh,
Non sông nước biếc như tranh họa đồ
Thương anh, em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang (6)
Phá Tam giang ngày rày đă cạn,
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm


Lời nguyện ước một ḷng thủy chung, đá ṃn theo thời gian xâm thực nhưng ḷng người, t́nh yêu phải một ḷng một dạ. Hạnh phúc không đánh đổi bằng tiền, không phải ở địa vị cao sang, hạnh phúc chính là ở chổ sống bên nhau, trong bất cứ hoàn cảnh nào.


Khi nào cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền !
Tay bưng dĩa nuối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau !
Núi Ngự B́nh trước tṛn sau méo,
Sông An Cựu nắng đục mưa trong,
Đôi ta nguyện kết chữ đồng,
Đá ṃn sông cạn mà ḷng thủy chung!
Dăy dọc ṭa ngang, giàu sang có số,
Kim Long, Nam Phổ, nước đổ về Śnh
Hai đứa ḿnh gá nghĩa ba sinh,
Dẫu có mần răng đi nữa, hai đứa ḿnh không thể bỏ nhau
Đôi ta kết nghĩa vợ chồng
Đá ṃn, sông cạn mà ḷng thủy chung !


Sông nước thiên nhiên, cô gái chèo đ̣ duyên dáng mái tóc thề dưới chiếc nón bài thơ. Phong cảnh nhân t́nh như một bức tranh, đủ màu sắc, có sông hồ, có vườn, chùa , trái cây ngọt ngào .
 

Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đây là chỗ rẽ của ḷng
Mai kia rồi biết trên sông bến nào?


Hồ Tĩnh Tâm giàu sen bạch diệp
Đất Hương Cần ngọt quít thơm cam
Ai về Cầu ngói Thanh Toàn
Cho anh về với một đ̣an cho vui.
Ai về Cầu ngói Dạ Lê,
Cho em về với thăm quê bên chồng.


Đố ai biết rít mấy chân
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người
Đông Ba, Gia Hội hai cầu
Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông.

 

Nhớ nhung nhẹ nhàng, buồn trách xa xôi, những ước mơ thầm kín thuyền t́nh cập bến yêu đương
 

Kim Long có gái mỹ miều,
Ta thương ta nhớ, ta liều ta đi!
Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn,
Chèo qua Ngọc Trản, đến vạn Kim Long ;
Sương sa gió thổi lạnh lùng ;
Sóng xao trăng lặn , gợi ḷng nhớ thương !


Nỗi xót xa khi t́nh yêu bị chia ly, buồn cuộc đời dâu bể, cảnh vật đổi thay mỗi người một phương trời vô định .
 


Nước chảy xuôi , con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vược lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi !


Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng
Vàng trên tay rớt xuống không phiền,
Phiền người bội nghĩa biết mấy niên cho hết sầu!
Em nói với anh như ŕu chém xuống đá,
Như rựa chém xuống đất, như mật rót vào tai.
Răng chừ em lại nghe ai
Qua cầu nghiêng nón chạm vai không chào ?
Anh nói với em như ŕu chém xuống đá
Như rạ chém xuống đất, như mật rót vào tai.
Bây chừ anh lại nghe ai.
Bỏ em ở chốn non đoài thảm chưa ?

 

Chia tay nhưng vẫn mơ ngày hội ngộ, với số phận đẩy đưa trong bi thương và gợi cảm
 

Cầu Trường Tiền sáu vài, mười hai nhịp
Anh qua rồi xin kịp về sau
Kẻo mai tê bóng xế ngang cầu
Bạn c̣n thương bạn biết gửi sầu nơi mô ?


Chim xa rừng c̣n thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi
Thà rằng không biết th́ thôi
Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn .

 

Tập tục ngàn xưa dựng sẳn bức từng môn đăng hộ đối một chướng ngại lớn lao viễn ảnh đen tối của ái t́nh !  Quan niệm hôn nhân, cha mẹ đặt đâu c̣n ngồi đó, hôn nhân gượng ép, t́nh yêu đôi khi phải phó mặt cho định mệnh an bài.

Núi Ngự B́nh trước tṛn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong.
Đôi ta như chỉ lộn vồng,
Nợ th́ có nợ, vợ chồng không duyên !
Bởi v́ mẹ thầy lánh đục t́m trong
Cho nên duyên chàng, phận thiếp cứ long đong măi hoài !

Sự kỳ diệu của tạo hóa, màu nhiệm của định luật ràng buộc ái t́nh đưa đến hôn nhân , đàn bà cần các đức tính công dung ngôn hạnh nhưng không thể thiếu ḷng chung thủy.

Đôi ta kết nghĩa vợ chồng
Đá ṃn, sông cạn mà ḷng thủy chung !
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng có đôi !
Lên non em cũng lên theo
Xuống thuyền em cũng đắp đeo mạn thuyền !

Ca dao là kho tàng văn chương b́nh dân vô giá, đi vào chiều sâu tâm t́nh vừa như nhớ nhung, nhẹ nhàng, buồn trách xa xôi, gợi lại h́nh ảnh xa xưa thời thơ ấu, kỷ niệm khó quên. Bài tham khảo không tránh những thiếu sót nhưng nhắc lại ca dao, mong sưởi ấm tâm hồn trong những ngày xa quê hương!


Chim bay lưng trời mà c̣n có tổ
Cá lội giữa ḍng vẫn có hố hang
Người đời đă có tổ-quốc giang-san
T́nh thần ư chí phải nhịp nhàng với non sông
 

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

  • Chú thích:

    (1) Dưới thời vua Tự Đức để lại chiến công hiển hách, quân Pháp từ Thuận An tiến về Kinh thành Huế, bị quân triều đ́nh mai phục bất th́nh ĺnh đổ trái mù u ra mặt đường, giặc Pháp bị bất ngờ đạp trên trái mù u té, phục quân đổ ra đánh chém, giặc Pháp thua chạy dài, các hàng cây mù u xanh tươi của Xă Tắc c̣n đó, gợi lại niềm tự hào dân tộc đă chiến thắng quân xâm lược.

    (2) Các đại thần như Nguyễn Văn Tường (1824-1886) và Tôn Thất Thuyết (1835-1913) đă chuyên quyền, cách chức ngự sử Phan Đ́nh Phùng (1844-18959, và Ông Ích Khiêm. Trong bốn tháng kể từ ngày Tự Đức mất triều đ́nh phế lập ba vua. Vua Hàm Nghi trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp ngày 23.4.1885 thất bại bỏ Kinh thành và thảo hịch Cần Vương, bị bắt ngày 26.9.1888 đày sang Algérie
    (Kiên Thái Vương con thứ 26 vua Thiệu Trị có 5 trai hai gái, con đầu là vua Đồng Khánh(1863-1888), con thứ ba là Kiến Phúc(1872-1943) mất, con thứ năm là Hàm Nghi (1872-1943)
    Ông Ích Khiêm (1840-1890) khảng khái ở trong ngục đă ngâm hai câu thơ trên, Sông Hương chia hai gịng nước, th́ khó nói chuyện, một bên trong bên đục. Ngụ ư bờ bên kia là ṭa Khâm xứ Pháp, bên nấy nầy thuộc Nam triều

    (3)Trong bốn tháng phế lập ba vua Dục Đức, Hiệp Ḥa, Kiến Phúc

    (4) Hai chữ cuối của hai câu trên ám chỉ Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tương


    (5) Cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân (1900-1945) năm 1916 thất bại vua Duy Tân bị bắt ngày 6-5-1916 bị đày san đảo Réunion. Trần Cao Vân (1866-1916) và Thái Phiên(1882-1916) cùng nhiều người yêu nước tham gia phong trào đều bị tử h́nh tại pháp trường An Ḥa gần Huế. trong dân gian c̣n ghi nhớ, bến Văn Lâu nơi gặp gỡ của vua Duy Tân giả đi câu che sự theo dỏi của mật thám Pháp, bàn việc đại sự khởi nghĩa chống Tây .
    Truông là đồi cát có nhiều cây cối gọi là truông nhà Hồ địa danh Hồ Xá, Vĩnh Linh Quảng Trị thưở xa xưa nhiều toán cướp, cướp hành lư khách qua truông. Phá Tam Giang phá là hồ rộng lớn ở huyện Quảng Điền có 3 sông hợp lại Tả Giang,Trung giang, Hữu giang .

    Chú thích thêm về các thổ ngữ của người Huế Mẹ = mạ; ngó = nh́n ; ngủ muồi = ngủ cho ngon; đi mô = đi đâu; mai tê = mai kia , răng chừ = sao giờ; con rít = con rết; mần răng = làm sao; cái rạ = cái rựa..

     
  • Tài liệu Tham Khảo
    • Cố Đô Huế Tác giả Thái Văn Kiểm
    • Việt Nam Sử lược Trần Trọng Kim
    • Kinh Thi Việt Nam
    • Cao dao www.cadaovn.eu.tc

    *********************************

    duytanphoto.jpg
    VUA DUY TAN

    Ngày 11  tháng 11 nam 2003

    Ngày 11  tháng 11 năm 2003.

    Xin xem bài thứ 11 nói về Vua Duy Tân , một vị vua hết ḷng vi dân v́ nước, và hai vị anh hùng v́ quốc vong thân Trần Cao Vân và Thái Phiên trong một cuộc nỗi dậy chống thực dân Pháp qua các bài sưu tầm của Thái Văn Kiểm,  Nguyển Văn Mai,  Trần Nông,  Hoàng Trọng Thược, 

    VUA DUY TÂN

    (1907-1916)

    MỘT CUỘC TUYỂN CHỌN HOÀNG ĐẾ KỲ LẠ

    Hoàng Trọng Thược

    Sau khi bắt giam vua Thành Thái , viên Toàn Quyền Đông Dương, viên Khâm Sứ Trung Kỳ Levécque và một số viên chức Pháp tháp tùng rầm rộ kéo vào Đại Nội họp với đông đủ các quan đại thần Nam Triều , nhằm mục đích chọn một hoàng đế kế vị vua Thành Thái .

    Pháp bắt buộc Nam Triều phải đem ra tŕnh diện tấc cả hoàng tử con của vua phế đế, để Pháp "chọn mặt gửi vàng" . Sau khi ăn mặc chĩnh tề, các hoàng tử được đưa ra trước "Hội  Đồng Thượng Đỉnh". Nhưng khi kiểm điểm lại th́ thiếu hoàng tử Vỉnh San lên tám tuổi .Pháp buộc phải t́m cho ra mới nghe . Thôi th́ tất cả thị vệ và cung nử đang phục dịch trong cung cấm được huy động đi t́m kiếm , một sự náo loạn xảy ra trong cung điện, tưởng chừng như có biến cố trọng đại ǵ . 

    Đợi đă lâu mà chưa thấy Nam Triều đưa hoàng tử Vỉnh San ra tŕnh diện, viên Toàn Quyền Pháp tỏ vẻ giân dử, toan đứng dậy bỏ ra về th́ một thị vệ dẫn hoàng tử đến, mặt mủi lem luốc, áo quần dính đầy mạng nhện . Đ́nh thần bèn giăi thích cho viên Toàn Quyền hay rằng : v́ quá sợ bị chọn  làm Hoàng Đế, , hoàng tử đă trốn chui trốn nhủi, nên mới ra nông nỗi . Để tŕnh diện kịp thời, hoàng tử không kịp đi tắm rửa và thay quần áo .

    Mục đích của Pháp là đưa lên ngôi một ông vua đần độn , không có tinh thần chống Pháp dể sai khiến về sau nầy ; càng nhỏ tuổi càng tốt, dể bề uốn nắn . Cho nên khi viên Toàn Quyền thấy Hoàng Tử Vỉnh San đang c̣n nhỏ và quá nhát gan như đ́nh thần đă cho biết, th́ tỏ vẻ măn nguyện lắm . 

    Thực ra , hoàng tử vắng mặt lúc nầy không phải v́ sợ,mà ham chui xuống dưới các bộ hầm hạ trong cung điện để bắt dế .

    Ít hôm sau đó, trong buổi lễ đăng quang có mặt viên Toàn Quyền và đoàn tùy tùng hôm nọ, hoàng tử tỏ ra chững chạc như người lớn, đối đáp với vị đại diện Pháp rất lưu loát, tỏ ra thông minh lạ thường, đôi khi c̣n nói những câu trịch thượng và xốc óc, khiến cho viên Toàn Quyền Pháp chưng hững . Nhưng việc đă trót lở mất rồi, dù có thay đỗi cũng không được nữa .

    Chín năm sau, hẳn viên Toàn Quyền nầy c̣n hối tiếc hơn nửa khi hoàng tử ấy , trên ngôi vị hoàng đế, đă cầm đầu một cuộc khởi nghĩa chống Pháp vào đêm 2, rạng ngày 3 tháng 5 năm 1916 .

    NHỮNG CÂU NÓI XẤC XƯỢC

    Hoàng Trọng Thược

    Trong buổi lễ đăng quang, sau khi ở bên ngoài 21 súng lệnh nỗ vang báo hiệu buổi lễ bắt đầu, viên Toàn Quyền theo nghi lễ đọc chúc từ khai mạc, vua Duy Tân bước xuống ngai đứng nghe .  Vua mặc bộ đồ đại triều nặng nề mà phải đứng nghe viên Toàn Quyền đọc chúc từ quá lâu nên rất khó chịu . Tuy nhiên ngoài mặt vua vẫn giử được vẻ b́nh thản và trang nghiêm . Đến khi viên Toàn Quyền dứt lời vua Duy Tân tiến tới bắt tay và hỏi gọn lớn bằng tiếng Pháp :"Ông đọc chúc từ lâu như vậy, ông có mệt không ? ", làm cho viên Toàn Quyền chửng hửng .

    Trước đó khi các viên chức cao cấp Pháp đến chào vua, mặc dầu vua biết rỏ hai vị đại diện cao cấp nhất của chánh quyền bảo hộ nhưng vẫn giả đ̣ không biết, hỏi : "Trong các ông, ai là Toàn Quyền , ai là Khâm Sứ . Các câu hỏi của vua Duy Tân có vẻ ngây thơ, nhưng thật ra mĩa mai và thâm thúy .

    ÔNG VUA TINH NGHỊCH NHƯNG TẾ NHỊ

    Hoàng Trọng Thược

    Năm 1911, Ông Tôn Thất Sa được Khâm sư Trung kỳ cử vào nắn tượng vua Duy Tân theo mẫu sống để Pháp đem sang trưng bày tại cuộc đấu xảo ở Paris tổ chức vào năm sau .Trong khoảng hơn một tháng, ngày hai buổi, mỗi buổi một giờ, vua mặc đại triều ra ngồi trên ngai vàng đặt ở giửa Điện Dưỡng Tâm để làm mẫu cho ông Sa nặn tượng .Trong mấy buổi đầu, trước sự có mặt của phụ đạo Pháp Eberhardt , nhà vua giữ thái độ dè dặt, khong hề nói ông Sa mô/t lời.  Về sau nhà vua lựa khi Eberhardt vắng mặt mới ra ngồi làm kiểu và lúc đó nhà vua thân mật, ân cần hỏi thăm gia đ́nh, cuộc sống của người nắn tượng . Vua cho phép ông Sa cởi áo ngoài để nắn tượng cho được thoải mái, có khi c̣n sai người đem trà ra mời ông Sa dùng xem như một người thân .

    Thế nhưng khi mặt của pho tượng gần xong thi lạ thay mặt và mủi vẫn y nguyên, nhưng cái miệng th́ vêu ra và nhe răng như mĩa mai và chế nhạo ai, làm ông Sa bàng hoàng, sững sốt. Khi vua lại ra ngồi làm kiểu, ông lặng lẽ chửa lại những chổ bị sửa, nhà vua cũng không nói ǵ  . Qua hôm sau, việc chơi khăm hôm trước lại y hệt, làm cho ông Sa tức đến sôi gan và bí mật t́m ra thủ phạm cho bằng được .

    Đến ngày thứ ba khi về nhà ăn cơm xong, ông Sa không ngủ trủa mà lén đi vào Điện Dưởng Tâm. Tại đây, một cănh tượng làm ông suưt té ngữa v́ ngạc nhiên  : chính vua Duy Tân,tay trái cầm một cái gương soi,tay phải măn  mo nơi mặt pho tượng,miệng của vua vêu ra để lộ hai hàm răng ! Thỉnh thoăng vua nh́n mặt ḿnh trong gương rồi quay sang nh́n mặt pho tượng để nắn theo ư muốn của ḿnh.  Khi bị ông Sa bắt quả tang, vua cười nói :

    Ta muốn pho tượng của ta chế nhạo cả nước Pháp khi công tŕnh ấy được đưa qua đấu xảo ỏ Paris.

    -"Tâu Hoàng Thượng, nhưng Hoàng Thượng có nghĩ rằng như vậy, ông Khâm Sứ có thể nghiêm trị tôi không ?"

    -"Té ra rứa à ? Ta không nghĩ đến, thôi ta xin lỗi thầy .

    Rồi nhà vua leo lên ngai ngồi để ông Sa sữa chửa lại cái miệng của pho tượng và tiến hành công việc của ông .

    Về sau công tŕnh hoàn thành tốt đẹp, ông Sa được vào Đại Nội để tiếp tục họa chân dung vua theo nhiều cách : sơn dầu, thủy mạc, bút ch́ ....Cứ mồi lần họa xong một bức và tiếp tục qua bức khác, ông thấy một bàn tay nho nhỏ xinh xinh thọc vào túi áo bà ba của ḿnh , nhưng không dám nh́n vào,tuy biết đó là bàn tay của nhà vua .

    Đợi đến khi ra khỏi Điện Dưỡng Tâm rồi, ông tḥ tay vào túi áo th́ đó là những tờ bạc . Th́ ra nhà vua đă kín đáo và tế nhị trả tiền công cho ông . Cứ một bức họa cở nhỏ hoàn thành  vua đút vào túi áo ông 20 đồng, nếu cở lớn th́ 50 đồng . Ông Sa rất lấy làm cảm động , một phần v́ cử chỉ tế nhị của vua , và phần khác, vào năm 1911, đó là những số tiền lớn gấp mấy lần số lương hàng tháng của ông .

    Sau nầy không được vào Đại nội nữa do lệnh cấm của người Pháp, nhưng h́nh ảnh vị vua thiếu niên thông minh tinh nghịch mà tế nhị đó vẫn làm cho ông Sa nhớ măi và tiếc nuối .

    VUA DUY TÂN NẠP PHI

    Hoàng Trọng Thược

    Khi vua Duy Tân đến tuổi lấy vợ, chiếu theo lệ do vua Minh Mạng đặt ra, nha vua không sách lập Hoàng Hậu mà chỉ nạp phi, nghĩa là tuyển cung phi vào nội .Người được vua tuyển chọn làm "Đệ nhất giai phi", tức Hoàng Quư Phi, là cô Mai Thị Vàng, trưởng nử của ông Mai Khắc Đôn, phụ đạo nhà vua ở thôn Kim Long, xă Hương Long, Huyện Hương Trà, Tỉnh Thừa Thiên .Theo lời của bà Duy Tân kể lại th́ cuộc t́nh duyên của bà như sau :

    Năm 1915, vua Duy Tân được 16 tuổi (sinh 1900), bà 17 tuổi (sinh 1889) . Một hôm nhà vua hỏi Mai Khắc Đôn :

    -"Con gái của thầy có cô nào lớn không ?"

    -"Muôn tâu, con gái của thần đều nhỏ dại "

    Thế rồi một  ngày nọ, nhà vua ngồi xe song mả với ông Đôn đi qua bộ lễ, nơi ông ở, thấy cô Mai Thị Vàng cùng các em đang chơi ở cỗng, liền hỏi :

    -"Có phải cô gái lớn kia là con của thầy không ?"

    -"Dạ phải ."

    -"Con gái của thầy lớn vậy, sao thầy lại dâu tôi ? "

    Lúc bây giờ cô Vàng đến bộ Lễ thăm cha, chứ thường ngày cô ở tại thôn Kim Long với mẹ . 

    Sau đó ít lâu, nhà vua cho hai người nhà đến thôn Kim Long để xem mặt cô Vàng và xin ảnh của cô để đem về cho Lưởng Tôn Cung xem .

    Một tháng sau, lễ hỏi của cô Vàng được cử hành tại nhà ông phụ đạo họ Mai ở Kim Long, rồi qua ngày 30/01/1906, lễ nạp phi được tổ chức trọng thể . Trước đó vua Duy Tân đă cho Ông Mai Khắc Đôn biết lư do cuộc hôn nhân nầy như sau :

    -"V́ công ơn Thầy dạy tôi, nay tôi xin làm con rể của Thầy để trả ơn Thầy ."

    Bà Duy Tân c̣n cho biết thêm các chi tiết về lễ nạp phí được diễn ra như sau :

    "Thời gian trước đó , Lưởng Tôn Cung cho người đi thâu thập các ảnh của các tiểu thư con các quan đại thần đem vào Nội để nhà vua và các bà chọn một Hoàng Quư Phi cho Hoàng Thượng . V́ nhà ông phụ đạo họ Mai thanh bạch, nên cô Mai Thị Vàng ăn mặc đơn giản, đứng bên cạnh một chiếc ghế mây để chụp h́nh . C̣n các tiểu thư khác, khi đứng trước máy ảnh ăn mặc thật lộng lẫy, đeo nhiều nử trang quư giá, có cô c̣n ngồi trên một chiếc ghế có hai con chim phụng chầu hai bên . Ma9.c dù vậy, cuối cùng cô Vàng lại được tuyển .

    Lễ nạp phi được diễn ra như sau :

    Giờ Tư ngày 26 tháng chạp năm Bính Thin (30/01/1916) đám rước dâu gồm toàn phụ nử, trong đó có 6 bà thượng thư mặc áo mang phụ, chít khăn vành, các bà đại thần khác và một số thị nử cầm phát trần,bạch hạc, thiên tuế đến bộ Lễ, có một xe ngọc lệ tứ mả đi theo với cờ xí linh đ́nh .

    Về phía nhà gái, cô dâu mặc áo rộng ,đội khăn vành kiểu mạng phụ, đeo một đôi hưởng, và một đôi ṿng vàng, hai môn nử trang nay được đem đến khi nạp lễ,đựng trong một cái hộp phủ khăn điều, ngoại các thứ khác như cau lồng, rượu ché

    Qua giờ Ngọ sau khi cô dâu lạy bàn thờ tổ tiên và lạy cha mẹ xong,một cây pháo quả được đốt nổ vang, báo hiệu cuộc rước dâu bắt đầu . Cô dâu cùng 6 bà thượng thư lên kiệu ngọc lệ tứ mả chậm rải tiến vào cung,theo sau là đoàn tùy tùng .

    Có một điều xẫy ra, mà người ta cho là điềm xấu. Khi đám rước dâu đi ra, cây pháo qua chỉ nỗ có một tiếng rồi tắt hẳn .

    Trước lễ nạp phi, trong Nội sai thị vệ đem ra nhà cô dâu 20 nén bạc, mấy nén vàng cùng hai mươi cây sô, sa gấm, nhiễu đủ màu, mấy nén vàng dùng để làm đồ nử trang và vật dụng cho cô dâu nhu gương, lược, hộp đựng phấn sáp

    Kể từ ngày nạp phi, trong 3 ngày đêm liền, tại bộ Lễ ban ngày có bày cổ thết các quan ta, quan tây và bà con bên nhà gái, ban đêm th́ có múa bông và ca hát, đàn dịch do ban  đồng ấu của Đai nội phụ trách để cho quan khách thưởng thức.

    Sau khi được rước vào hoàng cung, bà phi tức bà Mai Thị Vàng chỉ có đến bái yết hai bà đích mẫu và sanh mẫu của vua chứ không có nghi lễ ǵ khác.

    Vua và bà phi ở tại Điện Kiến Trung, vua ở căn tả, bà phi ở căn hửu, c̣n căn giửa dùng để thờ Đức Thánh Trần .

      CHẶT ĐẦU TÂY

    Theo báo Tri Tân

    Tương truyền khi vua Duy Tân mới mười hai tuổi có dự ngự yến ở ṭa Khâm sứ cùng với viên cố đạo người Phap. Viên cố đạo nầy đă có tuổi, lại là người thông thạo tiếng Việt và tiếng Hán. Thấy nhà vua ít tuổi song có veẻ thông minh và tuấn tú, ông ta mới ra một vế câu đối như sau :

    Rút ruột ông Vua tam phân thiên hạ .

    (Chử Vương là vua, nếu bỏ đi một nét dọc th́ thành chử Tam, câu nầy có ư nhắc đến chính phủ thực dân Pháp chia nước ta ra làm ba kỳ )

    Vua Duy Tân nghe xong liền ứng khẩu đối ngay:

    Chặt đầu thằng Tây tứ hải giai huynh

    (Chử Tây nếu bỏ đầu th́ thành chử Tứ, câu nầy rỏ ràng thể hiện sự căm ghét Pháp của vị thiếu niên.)

    Câu đối tuy không chĩnh lắm song cũng đủ làm cho tên cố đạo đau điếng, tím mặt lại, không nói ǵ nửa .

    CÂU HỎI NHỎ, Ư NGHĨA LỚN

    Thái Văn Kiểm

    Mùa hè năm nào Vua Duy Tân cũng ra nghĩ mát ở Cửa Tùng., một cửa biển đẹp,yên tịnh, có bải tắm bằng phẳng cát trắng và mịn .

    Một hôm nhà vua từ bải tắm đi lên, hai tay dính đầy cát, một người thị vệ liền bưng đến một thau nước ngọt mời vua rửa tay . Vua vừa rửa vừa hỏi :Tay bẫn lấy nước mà rửa, nước bẩn lấy chi mà rửa ?.

    Người thị vệ lúng túng không trả lời được . Nhà vua bèn đặt lại câu hỏi : Nước bẫn th́ làm thế nào cho sạch ? Người thị vệ vẫn không trả lời được . Vua Duy Tân bèn nói :Nước bẩn th́ phải t́m cách trừ khử những chất ngoại lai lẩn vào trong đó, có hiểu không ?

      NGỒI TRÊN NƯỚC

    Thái Văn Kiểm

    Để cách ly vua Duy Tân với Triều Đ́nh Huế, thực dân Pháp cho xây dựng nhà thừa lương ở Cửa Tùng để vua ra chơi . Song giửa cảnh trời cao bể rộng đó nhà vua trẻ không nguôi ngoai nỗi đau khổ, v́ sao vua Thành Thái bị đày, đất nước v́ sao không có chủ quyền, đồng bào v́ sao lầm than, cực khổ măi ?

    Một hôm quan Thượng thư Nguyển Hửu Bài ra thăm, thấy vua buồn bèn bày chuyện đi câu . Vua , tôi chèo thuyền ra cửa biển . Mới thă câu nhấp nháy mấy cái th́ lưởi câu mắc  không kéo lên được, nhà vua hí hoáy gở câu, nhân tiện ra một câu đối để ḍ xem ư nghĩ của quan Thượng thư về hoàn cảnh quốc gia,dân tộc ra sao . Vua nói :

    Ngồi trên nước không ngăn được nước,

    Buôn câu ra đă lở phải lần .

    Ông Nguyển Hửu Bài trước câu đối đó, định khuyên vua Duy Tân không nên có những ư nghĩ táo bạo như thế, bằng câu trả lời :

    Sống ở đời mà ngán cho đời,

    Nhắm mắt lại đến đâu hay đó.

    Nghe lời khuyên, vua Duy Tân  rất thất vọng về ông Bài . Từ đó, nhà vua tỏ ra xem thường ông Thượng Nguyển và cả đám đ́nh thần, nhà vua cũng chẳng c̣n tin tưỡng một ai .

     

      VIỆT NAM QUANG PHỤC HỘI VÀ VUA DUY TÂN

    Thái Văn Kiểm

    Khi vua Thành Thái bị đày ở Vũng Tàu, vua Duy Tân vô cùng đau khổ, uớc mong sao cho nước nhà độc lập. Tư tưỡng chống Pháp manh nha từ thuở nhỏ, bây giờ càng ngày càng nẫy nở. Nhưng thực lực chống Pháp ở đâu ? Quan lại Triều đ́nh như Nguyển Hửu Bài làm sao tin tưỡng được ? Nhà vua trong tay không có một chút quyền lực nào !

    Thời cơ đă đến  khi Việt Nam Quang Phục Hội, mà lănh tụ là Thái Phiên và Trần Cao Vân, đặt kế hoạch tiếp xúc với ông vua có tư tưỡng chống Pháp nầy .

    Để có điều kiện tiếp xúc với nhà vua, Hội Quang Phục bỏ ra một số tiền lớn thương lượng với người lái xe ô tô của vua Duy Tân, yêu cầu người nầy xin thôi việc và giới thiệu Phan Hửu Khánh vào thay . Khánh là hội viên Quang Phục Hội . Thương lượng có kết quả. Thế là người của Quang Phục  Hội đă hàng ngày ở bên cạnh ông vua yêu nước .

    Một hôm nhà vua ngự du Cửa Tùng, Phan Hửu Khanh đâng lá thư của Quang Phục Hội. Nội dung là thư nói về sự cơ cực lầm than của nhân dân, thảm họa quốc gia, dân tộc, và nêu lên ư định phục quốc của nhân dân . Lời lẽ trong thư có nhiều đoạn thật hao hùng và cảm động .

    Ḱa Mỹ Quốc ḍng giống rợ đen năm mươi năm c̣n có thể tự cường, huống chi ta con cháu nhà vua, hai mươi lăm  triệu nỡ đành hèn yếu .

    Trời sinh vua thông minh, chính trực,có chí cử binh chống Pháp. Đất sinh người tài giỏi, có quyền đuổi giặc thương dân !

    Đức vua cha là vua Thành Thái, vi tội ǵ bị đày ? Lăng tẫm vua Tự Đức v́ cớ ǵ mà bị bới ?

    Xem xong thư,vua Duy Tân rất cảm động, tha thiết nói với Khánh cho gặp người đă gởi phong thư .

    Phan Hửu Khánh sung sướng quỳ xuống bái tạ và xin sẽ tổ chức cuộc gặp mặt . Vua Duy Tân thoắt đứng dây cầm vai Khánh nâng lên .

    Đáng lẽ ta phải tạ ơn nhà ngươi, sao nhà ngươi lại bái lạy ta, thương mến ta th́ hảy giúp ta

      NHỮNG NGÀY KHỞI NGHĨA

    Thái Văn Kiểm

    Sau cuộc gặp gở lịch sử bên Hồ Tĩnh Tâm với Thái Phiên và Trần Cao Vân, nhà vua lặng lẽ trở về hoàng cung . các lảnh tụ Quang Phục Hội trở lại đất Quảng khẫn trương vạch kế hoạch để đợi thời cơ khởi nghĩa .

    Sau nhiều ngày hội họp bí mật, một kế hoạch khởi nghĩa  đă được thông qua . Thái Phiên được bầu làm chủ tịch, Trần Cao Vân làm quân sư . Theo Trần Cao Vân dịch số ấn định cuộc khởi nghĩa sẽ nỗ ra vào một ngày giờ nào đó mới mong thành công ; ngày giờ do ông truyền đi đến các tĩnh trong bài thơ sau :

    Một mối xa thư đă biết chưa ?

    Bắc- Nam hai ngă gặp nhau vừa .

    Đường rầy đă thẳng thang mây bước

    Ống khói càng cao ngọn gió đưa.

    Sấm dậy tứ bề trăm máy chuyễn,

    Phút thâu muôn dặm nữa giờ trưa

    Trời sai ra đón xong từ đấy,

    Một mối xa thư đă biết chưa ?

    Ngày giờ hẹn ước là giờ Ngọ, tháng Ngọ, và ngày Ngọ ( Phút thâu muôn dặm nửa giờ trưa ) .

    Nhưng v́ t́nh thế bức bách, hàng ngàn lính tùng chinh sắp xuống tàu đi Tây, nếu không khởi nghĩa sớm th́ mất một lực lượng lớn nên phải thuận theo yêu cầu của vua Duy Tân khởi nghĩa sớm hơn, tức ngày 03/05/1916 .

    Vào đêm 3 rạng ngày 4 tháng 5, vua Duy Tân chân đi đất, đầu chít khăn đen, mặc áo cụt đồ xẫm, quần vải trắng , bí mật ra khỏi hoàng thành. Một chiếc thuyền dưới sự điều khiển của Trần Cao Vân đậu chờ nhà vua ở bến Thương Bạc. Người vừa bước xuống th́ thuyền quay mủi ngược lên sông đào Lợi Nông  (Sông An Cựu).

    Tại một ngôi nhà trên bờ sông Lợi Nông, nhà vua gặp Nguyển Đ́nh Trứ, người được chỉ định đánh vào đồn Mang Cá.  Nhà vua khuyến khích Trứ hăy ra sức giết rụi Pháp. Trứ giơ tay tuyên thệ, nhưng ngay sau đó đă về ṭa Khâm sứ, báo cho Công Sứ biết mọi chuyện . Tên Công Sứ báo ngay với viên Khâm Sứ Trung Kỳ là Charles. Charles vào Điện Càn Thành xem xét lúc 2 giờ sáng, biết ngay là cuộc khởi nghĩa bắt đầu, vội dùng điện thoại truyền lệnh giới nghiêm, thu hết súng ống của lính tùng chinh đồn trú trong Mang Cá  Thuyền chở vua Duy Tân chèo gấp về Hà Trung, nhưng ở được một hôm,sợ bị bại lộ, vua Duy Tân và đoàn tùy tùng phải ngược lên vùng  núi ph́a Tây Nam Thừa Thiên, trú tại nhà tên Đội Cơ ở xóm Ngủ Tây, thôn An Cựu, (Xả Thủy An ngày nay) .

    Khi đoàn đến th́ ông Đội đi vắng, bà  Đội nấu cháo gà dâng vua . Nghe lao xao, trùm Tôn, anh ruột Đội Cơ ở gần đó, chạy sang, thấy vua tôi đang húp cháo gà, chạy một mạch về báo với ṭa Khâm .

    Khoảng 11 giờ trưa, bọn Pháp gồm có Đổng Lư của Ṭa Khâm Le Folt, chánh mật thám Trung Kỳ Sogny dẫn lính theo trùm Tôn bắt được vua Duy Tân . Cuộc khởi nghĩa cứu nước coi như tan vở .Các lănh đạo cuộc khởi nghĩa đều không tránh được bàn tay Sogny .

      NHỮNG MẨU ĐỐI THOẠI NGẮN

    Thái Văn Kiểm

    Thấy vua Duy Tân đứng nh́n trời, sau khi cuộc khởi nghĩa bị bại lộ,  Le Folt đến giở mủ chào và nói một cách mĩa mai :

    En bien,Sir ! vous avez fini cette randonnée ? 

    (Thế nào, Hoàng Thượng ngự giá đến đây là hết rồi chứ ?) .

    Vua Duy Tân nhún vai và cũng đáp lại bằng tiếng Pháp :

    Vous ne pas pouvez comprendre 

    (Các nguơi chẳng hiểu dược đâu ).

    Lúc bây giờ con mắt của trùm mật thám Sogny thấy dưới áo vua có một vật ǵ cồm cộm rất khả nghi. Sogny nghĩ là súng ,nên nh́n hau hau vào đó.   Biết ư, vua Duy Tân nói :

    "Mấy ông tưỡng cái ni là súng ha? Không phải mô, tôi mà có súng th́ tôi bắn các ông chết hết rồi .Đây là cục lương khô thôi ."

    Thật ra đó không phải là lương khô mà là hai cái ấn vàng của nhà vua . Tên chánh mật thám khi ấy mới yên tâm .  Le Folt sai người t́m một cái kiệu và một cái lọng  để rước vua xuống xe hơi đă chờ sẳn dưới chân đồi . Nhà vua lặng thinh khoác tay từ chối kiệu và lọng vàng .Ngài bước xảng xái xuống đồi, không tỏ ra sợ sệt ǵ .

    Buổi trưa hôm ấy về đến Ṭa Khâm, tên Khâm sứ Charles nở nụ cười đắc thắng, bắt tay vua Duy Tân và nói :

    En bien ! Sir, vous êtes content de votre équipée ? 

    (Bệ Hạ bằng ḷng cuộc du ngoạn chứ ?)

    Vua Duy Tân điềm nhiên trả lời bằng tiếng Pháp 

    Non, puisquelle na pas réussi ! 

    ( Không, bởi v́ nó không thành công !)

    Từ đó vua Duy Tân giử thái độ lảnh đạm cho đến khi bị đưa vào nhà giam Mang Cá.

     

      NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG Ở QUÊ HƯƠNG

    Nguyển Văn Mai,Thái Văn Kiểm 

    Khâm Sứ Pháp Le Marchand de Trigon đến thay Khâm Sứ Charles, buộc Triều Đ́nh Huế luận tội vua Duy Tân rất khắc nghiệt . 

    Vua một nước dưới quyền bảo hộ của Pháp đang chiến đấu với kẻ thù là Dức, mà khởi loạn chống lại Pháp là phản loạn, phải tội tử h́nh . 

    Pháp giao cho Triều Đ́nh thuyết phục nhà vua, nếu nhà vua biết ăn năn hối cải th́ tha, c̣n không phải mang trọng tội .

    Mọi lời thuyết phục của Triều Đ́nh đều chẳng có ư nghĩa ǵ với nhà vua . Hai Bà Hoàng Mẫu, Nguyển Thị Vân Anh, và Nguyển Thị Định được mời từ Khiêm Lăng về Mang Cá thuyết phục vua, nhưng nhà vua xin hai bà được từ chối mọi lời khuyên nhủ .

    Cuối cùng, Ṭa Khâm Sứ điện ra Hà Nội mời Toàn Quyền Đông Dương vào giăi quyết . Vua Duy Tân tră lời một cách thẳng thắn :

    Các người muốn ép ta làm vua nước Nam th́ phải coi ta như ông vua trưởng thành ,bất tất phải đặt phụ chánh,và phải giao cho ta quyền hành của một vị vua được trực tiếp với nước Pháp và Ngoại quốc."

    Toàn Quyền Pháp cũng bất lực .

    Không thuyết phục được vua Duy Tân, thực dân Pháp ra hạn một tuần lễ phải đưa vua  Duy Tân ra xữ công khai .Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung đươc ủy nhiệm thảo bản án .

    Các vị lănh đạo Quang Phục Hội Thái Phiên, Trần Cao Vân đang ở trong ngục chờ ngày ra pháp trường, viết vào một mănh giấy vấn thuớc một bức thư nhờ người bí mật đưa tận tay ông Hồ Dắc Trung. Đó là một câu đối :

    Trung là ai ?  Nghĩa là ai ? Cân đai vỏng lọng là ai ? Thà để cô thần tử biệt .

    Trời c̣n đó ! Xă tắc c̣n đó ! Miễn cho Thánh Thượng sinh toàn . 

    Ông Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho hai ông Thái Phiên ,Trần Cao Vân cùng Tôn Thất Đề, Nguyển Quang Siêu . Thi hành bản án, bốn ông đều bị chém  đầu. Vua Duy Tân bị đày sang đảo Réunion .

    Vua Duy Tân  bị bắt đi đày cùng với vua cha, vua Thành Thái Vua  Duy Tân xuống tàu Avardiana ngày 3-11-1916, đến bến ngày 20-11-1916. Cùng đi trong chuyến nầy có bà hoàng mẫu Nguyễn Thị Định ( tức là thân mẫu của ngài ), bà Mai Thị Vàng , cùng hoàng nữ Lương Nhân, con gái thứ 16 của vua Thành Thái.   Sống ở đảo Réunion được 2 năm.  Về sau, không chịu đựng được khí hậu khắc nghiệt ở Phi Châu, nên các bà đều xin hồi hương về Huế.    Bà Nguyễn Thị Định tá túc tại An Lăng, An Cựu và sau đó mất không rỏ ngày tháng năm.   Bà Mai Thị Vàng mất vào ngày 25 tháng 1 năm Canh Thân (tức 11-3-1980) tại Kim Long, Hương Trà, Thừa Thiên.  

     Bà Nguyển Thị Định trong bài thơ làm vào năm  1919  nói lên nỗi đau khổ thống thiết  của một bà mẹ với những giọt nước mắt âm thầm khi từ giă chồng và con:

      Con ôi, ruột mẹ ngấu như tương

    Bảy nổi ba ch́m xiết thảm thương.

    Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,

    Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương

    Quê người đành gởi thân trăm tuổi,

    Đất tổ mong v́ ́ nợ bốn phương.

    Mẹ cũng trông mau rồi một kiếp

    Để cho vẹn nỗi mối can thường.

                

    TẤM L̉NG CỦA MỘT VỊ VUA BỊ LƯU ĐÀY

                                 Trần Nông

    Khoảng năm 1916-1917, thời vua Khải Định , Việt Nam có đưa 50 lính khổ đỏ qua giúp Pháp. Phương tiện chuyễn vận bằng tàu thủy,chạy bằng than . Do chuẫn bị sơ thất, tàu đến đảo Réunion th́ hết than phải nằm tại đây một tháng đợi than tiếp tế . Thời gian tàu nằm c̣n dài, lại nhằm nơi ở của hai vua Thành Thái và Duy Tân, anh em lính mới bàn đi thăm hai ngài, vi đây là dịp may hiếm có .Được biết vua Thành Thái ở gần hơn nên đi thăm trước . Sau khi thăm vua Thành Thái xong, anh em mới xin địa chỉ của vua Duy Tân để đi thăm vào một ngày khác ..

    Ngày đi thăm vua Duy Tân, anh em lính sĩ quan và hạ sĩ quan đều ăn mặc sắc phục rất chĩnh tề như khi đi thăm vua Thành Thái. Đội, Cai, ai có huy chương huy hiệu ,ga lon đều gắn hết vào áo nghiêm chĩnh. Phái đoàn đi tới ngỏ thấy vắng tanh không có ai lai văng cả, chĩ thấy có một người khoảng trung niên mặc đồ xanh, nằm dưới một chiếc xe hơi như đang cắm cúi sữa, nên anh em c̣n đứng chờ chưa dám đường  đột vô nhà vội . Chừng 5 phút sau, có một cậu bé chừng 14, 15 tuổi từ trong nhà bước ra xong Đội trưởng phái đoàn mới ngoắc cậu bé lại để hỏi :Có vua Duy Tân ở nhà không em ? Trả lời: Đó,ông đang nằm sửa xe đó. Ông Đội mới nói :Cha, may quá, nhờ em vô báo với ngài có lính Việt Nam đến thăm ngài. Sau đó cả phái đoàn sắp hàng chĩnh tề để chờ đón vua .

    Cậu bé vừa báo xong, nhà vua lật đật chui ra khỏi xe, ngắm nh́n đoàn lính đứng chờ một lúc, chẵng nói một tiếng nào, rồi lại chui xuống đít xe làm việc như củ, không ra đón tiếp .Anh em đều lấy làm lạ về thái độ hờ hững của Ngăi. Phái đoàn ngơ ngác đứng một lúc rồi rút lui có trật tự .

    Hôm sau cả đoàn lại kéo nhau đến thăm vua Thành Thái  để ḍ hỏi cho ra tại sao đoàn đến thăm mà vua Duy Tân không đón tiếp . Sau khi ông Đội kể rỏ đầu đuôi câu chuyện, vua Thành Thái mĩm cười và nói :Hôm anh em đi thăm ông Hoàng tôi, anh em ăn mặc như thế nào ? Ông đội trả lời :Anh em đều mặc quân phục chĩnh tề như bửa đến thăm ngài vậy . Vua Thành Thái cười nói :Cha rũi quá, hôm anh em đi thăm  ông Hoàng tôi mà tôi quên dặn . Anh em không được ông Hoàng tôi đón tiếp, chẳng có ǵ lạ mà lư do là chẳng những ông Hoàng tôi chống thực dân Pháp mà  chống cả sắc phục của Pháp trang bị cho lính Việt Nam . Vua Thành Thái nói tiếp :Thôi bây giờ như thế nầy,nếu anh em cố t́nh muốn đi thăm Ông Hoàng tôi lần thứ hai th́ chỉ mặc  thường phục , đừng đeo huy chương, huy hiệu, đừng đeo lon, th́ ông sẽ đón tiếp tử tế lắm .

    Khi nào ông nghe người Việt Nam đến đăo nầy, không  phân biệt hạng người nào, ông Hoàng tôi đều lái xe đến thăm cả.  Từ khi xa quê hương đến nay, ông Hoàng tôi nhớ người Việt Nam lắm .Huống chi anh em là lính Việt Nam, bị thực dân Pháp ép buộc đem qua Pháp làm tôi tớ cho chúng, lẽ nào ông Hoàng tôi hờ hững cho đành .

    Quả đúng như lời vua Thành Thái nói, lần đi thăm thứ hai,vua Duy Tân có một thái độ niềm nở vui tươi khác thường . Anh em lính tới ngỏ, ngài ở trong nhà ngó thấy liền lật đật chạy ra đón tiếp khác nào người thân ở xa lâu ngày đến thăm . Ngài lần lượt bắt tay từng người một, cả 50 anh em không sót một người nào .Ngài đưa anh em vào nhà tiếp đăi rất tử tế, nhà cửa rộng răi, vườn  tược cây cối um tùm có vẻ sầm uất, trong nhaà xe cộ máy móc đầy đủ tiện nghi như một nhà khá giă ở thành thị xua .Trong thời gian tiếp đăi, ngài hỏi thăm lung tung, nào là việc dân việc nước . Ngài cũng không quên hỏi thăm đời tư của từng anh em một . Ngài hỏi lư do nào anh em sang Pháp mà có th́ giờ thăm Ngài. Được ông đội trưởng tră lời tỷ mĩ , ngài mới nói : Tôi nhớ ngươi Việt Nam lắm, nay may mắn dược một số đông người Việt đến thăm, tôi mừng lắm như bắt được của quư không bằng . Gia đ́nh tôi sống thong thă, ngoài số lương hàng năm Triều đ́nh Việt Nam gởi cho tôi , tôi c̣n có nhiều nghề khác,nhất là nghề săn xuất đồ chơi trẻ em được các nước hâm mộ, nên làm ra được bao nhiêu sản xuất hết bấy nhiêu, do đó gia đ́nh tôi nay được thoái mái phong lưu. Một dịp may hiếm có được người Việt Nam đến thăm .Vă lại thời gian anh em đi Pháp c̣n lâu, bây giờ anh em đă tới đây, cứ an tâm ở lại với gia đ́nh tôi cho vui để tôi đở nhớ nhà . Như kế hoạch hoạt động đời sống của gia đ́nh tôi đă kể cho anh em rỏ, th́ tôi có thể nuôi anh em trong thời gian anh em ở đảo nầy . Xin anh em vui ḷng đừng ngại ǵ .

    Ông đội trưởng đoàn viện dẫn lư do từ chối mấy ngài cũng cố giử không muốn cho đi, nên cực chẳng đă mới điện tín cho tàu biết khi nào có than phải tin trước cho anh em biết để đủ th́ giờ trở về tàu chuẫn bị lên đường sang Pháp .

    Anh em nễ ḷng tốt của ngài phải ở lại với ngài hơn nửa tháng . Đến khi nhận dược điện tín của chủ tàu, ông dội tŕnh lên cho vua Duy Tân xem xin từ giă, sắc mặt ngài có vẻ buồn  nhưng rồii ngài cũng tuyên bố :Thôi như thế tôi cũng đủ tạm thỏa măn, bây giờ là bổn phận anh em phải thi hành, tôi không dám cầm anh em nữa .

     

     

     

    NGÀY CU?I CÙNG C?A VUA DUY TÂN

    NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VUA DUY TÂN : TỬ NẠN MÁY BAY

     

    Vua Duy Tân tử nạn trong một chuyến máy bay vào cuối năm 1945 .

    Tai nạn nầy hiện nay c̣n nằm trong ṿng bí mật, chưa có nguồn tin nào phanh phui ra . 

    Thời kỳ ấy, Tổng Thống Pháp De Gaule có ư định đem vua Duy Tân về nước để làm một thế đứng đương đầu với Nhà Cách Mạng Hồ Chí  Minh .

    Hài cốt của Vua Duy Tân được đem về Việt Nam ngày 4 tháng 4 năm 1987 và chôn cất tại Nghĩa Trang An- Lăng .

    Van chuong ngh? thu?t b́nh dân

    Ngày  1  tháng 11 năm 2003 .

    Bài thứ 10

    VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT B̀NH DÂN

    Mỹ Xuyên

    Nếu thử ngồi phân loại ca dao, tục ngữ đôi khi chúng ta gặp phải những khó khăn dưới hai thể loại diễn thao đậm nét phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Thông thường tục ngữ được truyền khẩu từ kinh nghiệm sống dồi dào của cha ông chúng ta từ đời này sang đời khác. Tiền nhân dùng lời hay ư đẹp kết cấu thành những câu có vần điệu, đọc nghe suông tai để dễ dàng huấn thị chúng ta hơn theo tâm lư học sư phạm mà chúng ta thường được biết qua phương thức các bài học thuộc ḷng từ nhỏ. Đôi khi tục ngữ chỉ hàm mang tiếng nói của lương tri, lư trí, đạo nghĩa ở đời đến với đời sau. Tục ngữ được gieo thật có vần điệu và điều tiên quyết là phải ngắn gọn dễ hiểu, không lắt léo bằng những ngôn từ khiến người nghe phải động tâm, động trí để suy nghĩ.

    "Thương người như thể thương thân"
    (Nguyễn Trải - Gia Huấn Ca)


    Tục ngữ là lời nói (ngữ) trong thói quen có tự lâu đời (tục). Có thể tục ngữ cũng chỉ là câu nói phát xuất từ cửa miệng của một người nào đó trong dân gian, nhưng v́ có lẽ đă có ư nghĩa sâu đậm, lại có vần điệu nên dễ đi vào ḷng người nghe, dễ truyền tụng và lâu dần trở nên tục ngữ. Tục ngữ c̣n có những tên gọi chỉ định khác một chút như ngạn ngữ (lời xưa lưu truyền lại cho hậu thế), phương ngôn (những lời hay ư đẹp quy tụ tại một địa phương). Có khi tụ.c ngữ được truyền miệng biến thể thành ngữ là những lời nói đă có sẳn và không có chất thơ trong câu nói phổ biến như:

    "Dốt đặc cán mai"

    để chỉ sự thiếu văn hóa hay là

    "Tiên học lễ, hậu học văn"

    để huấn thị chúng ta đầu tiên phải biết lễ phép, tôn ti trật tự đối với người trên trước hoặc trong phép tắc xă giao thường nhật, sau đó mới đến học chữ nghĩa để mở mang trí tuệ, hữu ích cho xă hội, cho môi truờng chung quanh.

    Lời hát của tục ngữ tuy lắm lúc ẩn dụ nhưng lại mang âm hưởng thuần khiết của nội dung không bóng bẩy hoặc mang tính trữ t́nh lăng mạn như ta thường t́m thấy trong ca dao.

    Ca dao là tiếng hát của tâm hồn qua sự giao động khi đối diện với môi cảnh trí bên ngoài hay thựng khi là một đối tác phản ứng hứng khởi của tâm linh khi tiếp xúc với đời thường. Lắm khi ca dao xuất hiện từ tính bộc phát khi đối chứng với hoàn cảnh có liên cảm với thân phận, xă hội, quê hương đất nước. H́nh ảnh một đứa bé mồ côi xách giỏ hái rau rúng động trước mộ phần của mẹ với nỗi đau khôn cùng đă được học giả Lâm Kim Quang nhắc đến trong bài viết của ông khi bàn về văn chương b́nh dân thật linh động t́m về dưới hai câu:

    "Chiều chiều xách giỏ hái rau
    Ngó lên mă mẹ ruột đau như dần"

    Động tác xách giỏ, ngó lên với từ ngữ b́nh dân nhưng lại hàm tính chân thật diễn đạt một h́nh ảnh thật b́nh thường của đứa bé phải tự cưu mang bản thân lồng vào một khung cảnh đáng thương là đau ḷng trước ngôi mộ của mẹ. Hai câu này chỉ mang nặng tính trữ t́nh, phối hợp âm điệu để thể hiện một thứ t́nh cảm thiêng liêng đó là t́nh mẫu tử và mô tả t́nh cảnh của một đứa bé mồ côi mà không mang nội dung huấn thị chúng ta một điều ǵ trực tiếp. Có chăng là qua cảm xúc hai câu ca dao mà dấy lên trong ta một suy nghĩ để tự tâm rèn lấy ḿnh.

    Đặc điểm trong ca dao là tiêu chuẩn trữ t́nh của nó theo tiếng vọng của tâm hồn người thể hiện và vần điệu độc đáo khiến người nghe mần cảm trên nhiều phương diện. Ca dao được trải dài trên t́nh yêu, đó là t́nh yêu quê hương, t́nh yêu thiên nhiên đất nước, t́nh yêu con người, đôi lứa v.v.v được truyền khẩu mạnh mẽ qua tính chất linh động tượng h́nh, tượng thanh của nó mà có lẽ đặc biệt nhất dưới h́nh thức các làn ca, điệu ḥ trong dân gian.

    Có nhiều cụ học giả uyên thâm như Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1928), Dương Quảng Hàm (1941), Phạm Quỳnh, Paulus Của, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Trọng Lực, Hoa Bằng, Thuần Phong, Đào Văn Hội, Minh Hương, Phạm Văn Diêu và c̣n nhiều vị khác nữa đă cố gắng sưu tầm và t́m định nghĩa thỏa đáng cho ca dao. Tựu trung tất cả các vị học giả này đều t́m về một mẫu số chung như sau:

    "ca dao là thi ca truyền miệng, dân ca trong dân gian mang nhiều tính trữ t́nh và phản ảnh đời sống hiện thực, xă hội, nhân t́nh thế thái, phong tục, tín ngưỡng theo nhiều bản chất có khi là ngẫu hứng, có lúc là sự quan sát theo dơi lâu ngày mà thành".

    Tuy nhiên có vài vị học giả cho rằng ca dao là một loại thi ca có tác giả hẳn ḥi ? Chúng tôi th́ không hạch vấn về tác giả bởi v́ chúng tôi tin tưởng rằng một khi những câu ḥ, điệu hát ca dao được lưu truyền rộng răi phổ biến trong dân gian th́ đă trở thành của dân gian và mang tính đại chúng. Thiết tưởng chúng ta không luận bàn về tác giả của ca dao làm ǵ nữa.


    Trong Việt Nam Tự Điển (Hà Nội 1931) ca dao đă được định nghĩa là câu hát phổ thông trong dân gian. Và theo cụ Dương Quảng Hàm th́ ca dao thông thường gói trọn trong thể lục bát chính thức, lục bát biến thể, song thất lục bát, song thất lục bát biến thể. Chúng tôi cảm phục trước sự nhận xét của cụ. Tuy nhiên theo chúng tôi có lẽ đây là thể loại ca dao xưa. Ca dao ngày nay có thể lồng dưới h́nh thức dân ca chăng? Phong dao và đồng dao thông thường cũng được truyền miệng thật phổ biến trong dân gian có lẽ cũng phát xuất từ ca dao. Các làn điệu ḥ lư nam bộ, ḥ mái đạy, các khúc hát quan họ của Bắc Ninh cũng mang đậm nét âm hưởng ca dao. Do đó cũng có thể dân ca 3 miền phát xuất từ ca dao chăng ?


    Nếu t́m hiểu cặn kẽ hai chữ ca dao th́ ca là hát và dao là những bài hát không có chương khúc hẳn hoi, là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian. Theo chúng tôi th́ ca dao chúng ta vẫn thường biết là ca dao cổ, c̣n những bài dân ca mới lưu truyền trong dân gian nên được gọi là ca dao mới.

    oOo


    "Trầu Sài G̣n xé ra nửa tá
    Thuốc G̣ Vắp hút đă một hơi,
    Buồn t́nh gá nghĩa em chơi,
    Hay là anh quyết ở đời với em ?"

    Chỉ với bốn câu hát ḥ huê t́nh dưới điệu chánh phong đă mang âm hưởng ca dao với ư lời mộc mạc thố lộ tâm t́nh của một gă thanh niên muốn tỏ t́nh. Khác với ca dao cổ mang tính đượm t́nh, văn phong thường man mát giọng hát quê hương:


    "Hai tay bưng dĩa muối gừng
    Gừng cay, muối mặn xin đừng bỏ nhau"

    Ví dụ muối và gừng là hai phong vị mặn và cay để bộc tả gian truân có nhau trong cuộc sống lứa đôi với đúc kết t́nh nghĩa mặn mà không thể chia cắt được. Có lẽ trong thi ca b́nh dân, th́ t́nh yêu đôi lứa trong ca dao được ca ngợi rơ nét nhất, bởi ca dao là tiếng vọng của tâm hồn, ca dao là điệu hát của ư nghĩ, chuyên chở tâm sự đến con người:


    "Tḥ tay xuống ngắt cọng ng̣
    Thương anh đứt ruột giă đ̣ ngó lơ"

    Quả thật t́nh yêu trong ca dao được chọn làm chủ đề chính trải dài trên ba miền đất nước, nó phản ảnh đời sống thật của người dân lồng dưới các điệu ḥ, các câu ca đối đáp:

    Nữ (vấn):

    "Ḥ ơi ! Trên đời mọi vật bẩn nhơ
    Đều nhờ nước rữa trở nên trong lành
    Đến khi nước phải nhơ tanh
    Lấy ǵ mà rửa xin anh phân cùng..."

    Nam (đáp):

    "Ḥ ơi ! Em ơi trải bao thế hệ oai hùng
    Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay
    Hi sinh bao quản thân dài
    Máu đào từng rửa, nước rày thành trong..."

    Nội dung câu ḥ đa phần dựa trên cơ sở của thơ lục bát, nhưng lắm lúc xử lư có thể giữ nguyên hoặc biến chuyển mở rộng dài hơn để khớp với câu ḥ. Có lẽ v́ vậy việc sáng tác những câu ḥ thường là đại chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng thu hút được sự hâm mộ của dân gian.

    Hai ví dụ trên cho ta thấy tính b́nh dân và dễ dàng biến chuyển từ ca dao sang dân ca mà nếu chúng ta không khó tính cố t́nh phân biệt ra thế nào là ca dao, thế nào là đồng dao, phong dao, dân ca th́ chúng ta lại được dịp thích thú khi t́m hiểu về dân ca Nam Bộ. Dân ca Nam Bộ là thể loại dân ca truyền miệng ở phương Nam. Tựa kề bên những điệu ḥ trữ t́nh, tươi mát, dân ca Nam Bộ c̣n chuyên chở đến cho chúng ta những bài hát điệu Lư.

    Lư là những đoản khúc ân t́nh lạc quan yêu đời, ngắn gọn, trong sáng và gợi cảm. Lư được các nhạc sĩ vô danh b́nh dân trong dân gian khai phá bằng các nhịp điệu phong phú và sinh động. Mà một trong những bài hát chúng ta rất quen thuộc chúng ta thường nghe:

    "Khớp con ngựa ngựa ô (2x)
    Ngựa ô ăn khớp, ăn khớp con ngựa ô
    Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
    Búp sen lá dặm, dây cương nhuộm thắm
    Cáng roi anh bịt đồng tḥa..."

    Là anh í a anh đưa nàng...anh đưa nàng...anh đưa nàng về dinh (2x)


    Khi luận về phương diện âm hưởng, và những bước nhạc âm giai của các điệu ḥ và Lư Nam Bộ, chúng ta đă phát hiện ra được thuần chất tinh khiết, trong lành, chân thật pha lẫn chút âm điệu mênh mông của ḥ cùng nhịp điệu sinh động, phấn chấn của các điệu Lư. Nếu không luận về tiết tấu mà bàn về kết cấu, Lư đă có những sự phân biệt về câu cú, khúc và đoạn mạch lạc. Âm điệu được uyển chuyển nhưng rơ ràng trong tính nhất quán toàn cục khiến người nghe dễ dàng ghi nhận chứ không mang tính nhảy vọt chuyển thanh cầu kỳ, phức tạp để trở thành lủng củng thiếu lớp lang nếu không khéo léo tổ chức.

    oOo


    Khi nghiêng góc nh́n hưóng về miền Trung, chắc hẳn chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi các làn điệu Lư Vọng Phu, Lư Tàng Tít lại xuất hiện nơi đây trên các sân khấu tuồng cũng như dân ca Kịch Bài Cḥi. Nhiều khi các điệu Lư lại được tu sửa và thay đổi cho thích hợp với tính chất bẩm sinh của người dân của vùng hăy nghe Lư Ngựa Ô tại Quảng Nam với làn điệu riêng biệt kín đáo và sâu sắc:


    "Ngựa ở yên thắng kiệu vàng
    Yên tra khớp bạc đưa chàng hồi hương"

    Mỗi một miền trên đất nước lại có một làn điệu Lư phong vị khác nhau, có những bước đi riêng trên âm hưởng, dáng dấp riêng súc tích và uyển chuyển khi thể hiện nội dung. Có lẽ những nét chấm phá tuyệt vời của dân ca bộc phát từ ca dao trong phương thể lục bát chính thức và lục bát biến thể rồi lồng vào các chuỗi tiếng đệm, câu láy biến cách ẩn núp dưới các điệp từ như í a, t́nh tang, là, mà, trông, là hù, là khoan ... để âm vị thêm linh động màu sắc cho các làn điệu và gấy thêm cảm xúc người tŕnh bày.

    Càng về Nam ta càng được nghe các làn điệu dân ca mang thang âm bán cung. Với điệu Thức Oán trở thành tiêu biểu và điểm riêng của dân ca truyền thống miền Nam. Tuy các điệu Lư có thay đổi khác nhau theo dạng âm nhưng trực âm chính vẫn tồn tại dưới dạng Ngũ Cung nguyên thủy.

    Có lẽ từng bước đi ở nhiều thể loại văn chương nghệ thuật Việt Nam có phát triển theo thời gian, không gian và nội dung khác nhau. Nhưng bản sắc t́nh yêu quê hương, đất nươc và con người luôn t́m về trong tục ngữ, ca dao, dân ca luôn gợi nhớ cội nguồn. Bản ngă dân tộc có c̣n và phát triển khi tiếng nói và bản chất thiện tâm dân tộc phát triển. Những mong những đứa con Việt mọi miền trái đất luôn cố gắng rèn luyện, ôn nhớ và phát triển văn hóa của ḿnh.

    Chúng tôi xin mượn tâm sự hướng về miền Tây hiện đang trong cơn hoạn nạn thiên tai làm thi ư để viết bốn câu thơ thay lời kết:

    "Quê hương một cơi xa mờ,
    Gạo thương Đồng Tháp măi chờ đợi anh,
    Cho dù trăm hướng xuân xanh,
    Đến khi đầu bạc vẫn quanh cội nguồn."

    __________________________________________________
    Đề mục tham khảo:
    (1) Lâm Kim Quang - Việt Nam: Đất và Người qua Văn Chương B́nh Dân
    (2) Phạm Duy - Dân Ca Việt Nam
    (3) Vương Hồng Sển - Saigon Năm Xưa

     

    ************************************************

    Ngày  3 tháng 11 nam 2003

    Ngày  1  tháng 11 năm 2003 .

    Bài thứ 9

    CÂU H̉ HUẾ CỦA ƯNG B̀NH THÚC GIẠ THỊ

    Tiến sỉ Trần Văn Khê

    Giáo sư âm nhạc 

     

    Năm 1955 , khi tôi bắt đầu nghiên cứu về âm nhạc Huế để soạn luận án tiến si về âm nhạc truyền thống Việt Nam th́ tôi nghe một câu ḥ trong dĩa Beka 78  :

    "Một vũng nước trong,  mười gịng nước đục,

    Một trăm người tục, một chục người thanh .

    Biết ai gan ruột gởi ḿnh,

    Mua tơ thêu lấy tượng B́nh Nguyên Quân."

    Tôi nghe câu ḥ mái nh́ hay quá , lại có tiếng đờn phụ họa của giáo sư Nguyển Hửu Ba, th́ lúc đó tôi cứ tin rằng, câu ḥ đó là trong nhân gian, mà không biết rằng tác giả lại là cụ  Ưng B́nh Thúc Giạ Thị . Sau đó, tôi nghe Châu Loan, khi đi tham dự hội nghị thanh niên ở Ba Lan, ḥ câu ḥ khác :

    "Chiều chiều trước bến Văn Lâu,

    Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm,

    Ai thương ai cảm , ai nhớ ai mong,

    Thuyền ai thấp thoáng bên sông,

    Đưa câu mái đẩy động ḷng nước non ."

    th́ tôi tưỡng đó cũng là một câu ḥ trong nhân gian, rất hay, mà tôi th́ không biết ngâm theo giọng Huế, nên tôi bắt chước theo  giọng ḥ của chị Châu Loan, để mà khi đi nước nầy nước nọ , lúc giới thiệu âm nhạc ba Miền, cũng có được một câu ḥ miền Trung, ḥ đúng theo giọng người Huế, th́ tôi giới thiệu rằng câu ḥ đó là của nhân gian .

    Sau khi tôi trở về Việt Nam, gặp nhà thơ Tôn Nử Hỹ Khương, trong câu chuyện, tôi mới biết câu ḥ đó là câu ḥ thân phụ nhà thơ Tôn Nử Hỹ Khương là cụ Ưng B́nh Thúc Giạ Thị , th́ tôi vô cùng cảm phục .

    Một nhà thơ khi mà sáng tác ra một câu ḥ, một điệu hát dược người ta ḥ, người ta hát lại mà không biết rằng đó là của ai, th́ tức là câu ḥ tiếng hát đó đă đi thẳng vào ḷng người, đi sâu vào trong ḷng người ḥ người hát , và tưỡng rằng đó là câu ḥ câu hát của  nhân giang, th́ tôi cho đó là một phần thưởng rất lớn của một nhà thơ, được quần chúng cho rằng câu ḥ ấy phù hợp với tâm tư khắc khoải trong ḷng mọi người .

    Trong nhiều năm qua , người xứ Huế nói riêng, Việt Nam ta nói chung, thường nhắc đến thi ông Ưng B́nh Thúc Giạ Thị .

    Ưng B́nh Thúc Giạ Thị sanh năm Đinh Sửu 1877, mất năm Tân Sửu 1961, hưởng thọ 85 tuổi, là cháu nội  của nhà thơ Tuy Lư Vương . Ông tốt nghiệp trường Quốc Học Huế, đổ đầu kỳ thi kư lục, đổ cử nhân Hán học, ra làm quan thăng đến hàm Thượng Thư rồi Hiệp Tá Đại Học Sỉ . Th́ giờ của Ông cũng dành một phần cho bầu rượu túi thơ, câu ḥ điệu hát . Các sách chinh của Ông đă được xuất bản gồm Tuồng Lộ Địch, T́nh Thúc Giạ, Bán buồn mua vui v..v.. Những câu ḥ của Ông làm ra, theo thời đại , tùy hoàn cănh, có vui, có buồn, có thương có giận, tĩnh say ngồi khóc với non sông . Ai đă từng nghe giai thoại vua Duy Tân, có khi giă dạng người dân ra ngồi câu cá ở Phú Văn Lâu, chờ gặp Trần Cao Vân để mật bàn chuyện quốc sự , mới càng thấm thía với ư tứ thâm trầm, sâu sắc của câu ḥ :

    "Chiều chiều trước bến Văn Lâu,

    Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm"

    T́nh thương của Ưng B́nh Thúc Giạ Thị là một t́nh thương bao la, thương thân phận con người , trong đó có những người con gái, trôi nỗi trên sông Hương :

    "Tiếng hát Ngư Ông, giữa sông Bành Lệ ,

    Tiếng kêu hàn nhạn giữa áng Hoành dương,

    Một ḿnh em đứng giữa sông Hương, 

    Tiếng ca du nử đoạn trường ai nghe .

    Ướt áo xanh lụy t́nh Tư Mả,

    Khách thiên giai vẫn lạ mà quen,

    Nước non ai kẻ bạn hiền,

    Biết ai ly phụ giữa miền sông Hương.

    Biết ở đâu là cầu Ô Thước,

    Mênh mông nguyện ước, dưới nước trên trời,

    Đêm khuya ngớt tạnh mù khơi,

    Khúc sông quạnh vắng có người sầu riêng .

    Nước đầu cầu khúc sâu khúc cạn,

    Chèo qua Ngọc Trản đến vạn Kim Long,

    Sương sa gió thổi lạnh lùng,

    Sóng xao trăng lặng gây ḷng nhớ thương.

    Bên chợ Đông Ba tiếng gà gáy sáng,

    Bên làng Thọ Lộc tiếng trống sang canh,

    Giửa sông Hương tiếng sóng khuynh thành,

    Đêm khuya một chiếc thuyền t́nh ngữa nghiêng .

    Để kết thúc, có thể nói nhà thơ Ưng B́nh Thúc Giạ Thị đă để lại cho hậu thế một kho tàng quư báu tô điểm sâu đậm cho nền Văn hóa nước nhà .

    ************************************************

     

     

     

     

     

     

    Ngày  28 tháng 10 nam 2003

    Xin mời Quư Vị xem bài số 8, trích đăng bài "Lạc Tịnh Viên"  của  Nguyển Thị Hiệp và của Bác Sỉ Công Tằng Tôn Nử Phùng Mai ở Nevada .

    Ngày  30 tháng 10 năm 2003 .

    Bài thứ 8

    LẠC TỊNH VIÊN

    Nguyển Thị Hiệp 

    Về phía Hửu Ngạn sông Hương, từ cầu Tràng Tiền thẳng một mạch lên ga Huế và từ ga Huế , đến cầu Bến Ngự nh́n qua bên kia sông , một ṭa nhà cổ kính ,với hàng rào chè tàu, cẫn và hoàng điệp bao bọc ngoài với chiếc cổng h́nh ṿm, đó là ngôi vườn lớn với ba toà nhà cổ kính gọi là Lạc Tịnh Viên .

    Thoạt tiên khu vườn rộng 8 sào đất, coi như đất hoang, với túp lều tranh trên đó .Chủ nhân ông là cụ thượng Hồng Khảng, con thứ 10 của Tùng Thiện Vương tạo mải năm 1889 . Đến năm  1897, chủ  nhân tạo lập ngôi nhà ngói thay túp lều khi mới mua .  Tuy Lư Vương đặt tên là Hy Trần Trai . Khu vườn nầy nguyên thuộc làng Dương Xuân, huyện Hương Thủy, nhưng đến năm 1900, khi xây xong cầu Tràng Tiền, theo quy hoạch của chính quyền, Lạc Tịnh Viên thuộc thành phố Huế . Năm 1901, chủ nhân xây thêm bên trái ngôi vườn một căn nhà mới, gọi là Di Tâm Thích Thể Đường . Mười năm sau, cụ Thượng lại xây thêm bên phải ngôi vườn, một ngôi nhà theo kiểu tân thời, hồi đó lấy tên là Vấn Trai . Xây nhà theo lối nầy gọi là Tam hợp viên, có lẽ chủ nhân muốn mô phỏng lối Tứ hợp viên bên Trung Hoa để tất cả gia đ́nh qui tụ về một nơi . Ngôi nhà  chính Hy Trần Trai là kiểu nhà ba gian hai chái, có nhiều nét độc đáo hơn các ngôi nhà rường khác ở Huế . Bộ giàn được chạm trổ rất công phu, lấy đề tài chủ yếu Long, Phụng, Tứ quư, và Bát bửu, có 56 cột gổ ra đến hàng ba, tạo thành sường nhà vững chắc .Ba gian nhà có 3 khung cửa chính, có 12 tấm cửa bàng khoa . 

    Người thừa kế khu Lạc Tịnh Viên là Cụ Ưng Tŕnh, nguyên Đại thần Tôn Nhơn Phủ ; người Huế và học tṛ Quốc Học c̣n biết nhiều đến Cụ . Cụ vào học Quốc Tử Giám năm 1897, 20 năm sau trở thành Tế Tửu Quốc Tử Giám . Quốc Tử Giám là ngôi trường có trước trường Quốc Học Huế gần 100 năm . Giáo sư Bửu Cân, con của cụ Ưng Tŕnh là một vị giáo sư được kính mến tại trường Quốc Học . Linh mục Bửu Dưởng, em trai của Thầy Bửu Cân,là người duy nhất trong gia đ́nh trở thành tu sĩ Thiên Chúa Giáo, nỗi tiếng về những hoạt động văn hóa, sau nầy là Viện Trưởng Đại Học Minh Đức ở Sài G̣n . 

    Tưởng cũng nên nói thêm về tài người thợ mộc Việt Nam . Khi muốn h́nh thành sườn một ngôi nhà, nhà rường một gian hai chái, 3 gian hai chái, lớn nhầt là năm gian hai chái, với cột, kèo, xuyến, trến, đ̣n tay, mái kéo ra đến hàng hai, hàng ba, hàng tư, chỉ một tay người thợ cả , với cây thước gia truyền chạm đục làm mộng cho đến khi xong, thợ ăn ở luôn trong nhà  4, 5 tháng có khi cả năm. Đến ngày dựng bộ dàn tṛ lên là tất cả bộ sườn đâu vào đó không sai một  ly nào , kể cả những tản đá đặt dưới chân cột .

    Lạc Tịnh Viên đă được cơ quan Bảo tồn Văn Hóa  Hà Nội công nhận là di tích văn hóa lich sử .

    ***********************************************

     

     

     

     

     

    CO KHANH NAM (NGUOI THU HAI TU PHIA TRAI)
    khanhnam.jpg

    Ngày  28 tháng 10 nam 2003

    Chúng tôi mới nhận được bài sau đây của Bác Sỉ  Phùng Mai, hiện ở Nevada, Huê Kỳ . Bác sỉ Phùng Mai thuộc Gịng Tuy Lư Vương . Xin đăng lên để biết  thêm một cảm nghĩ của một người Huế, xa Huế lâu năm và bây giờ lại về thăm Huế .

     

    GIỚI THIỆU LẠC TỊNH VIÊN

    Công Tằng Tôn Nử Phùng Mai

     

    Lạc Tịnh Viên đối với tôi không chỉ là một mẫu nhà vườn của một vương tôn danh tiếng ở đất Cố Đô, mà là tiêu biểu cho truyền thống thi lễ và từ bi của gia chủ .

    Lạc Tịnh Viên không nguy nga , đồ sộ ,nhưng cổ kính nên thơ, không rực rở huy hoàng mà thanh cao thoát tục .

    Tôi đến Lạc Tịnh Viên vào một trưa hè nóng bức, nhưng mới dừng chân ở cổng vào, đă thấy mát dịu lạ thường . Đến khi bước qua khỏi b́nh phong trổ lọng và vào ngồi ở nhà mát, trước chính điện , th́ có cảm giác vô cùng thoái mái  . Ngồi trên ghế gổ bóng láng mát dượi không chút bụi trần, tâm hồn ḿnh bỗng thấy nhẹ lâng lâng . Nhà nầy không có tường vách , cửa ngăn, bốn bề thông suốt  để đón gió và khách mười phương , có tên là Nhân Hậu . Có lẽ vị trí của nhà Nhân Hậu với b́nh phong ở trước, ba nhà khác vây quanh, cùng vườn cây cổ thụ xanh tươi , đă làm cho nhà im mát dễ chịu dù đang trưa hè đứng bóng . Sau mới biết đây là nơi tiếp đăi người nghèo mỗi ngày chủ nhật theo truyền thống gia đ́nh . Chính Điện ở giửa cao ráo, đặc biệt có hai hàng bực cấp hai bên làm tăng vẽ trang nghiêm của nơi thờ tự . Chủ nhân đă thiết lập Từ Đường trên nền cao nên hơn trăm năm nay, trận lụt lớn nhất cũng chỉ dâng nước đến gần bực cấp cuối cùng . Nơi Chính Điện có treo nhiều câu đối và bức hoành Hi Trần Trai do Tuy Lư Vương đề tặng . 

    Bên trái là Di Tâm Đường, nơi con cháu sinh hoạt . Bên phải là Vấn Trai, nơi gia chủ thường trú, c̣n giử nguyên pḥng tiếp khách, bàn làm việc ,với cái chuông rung khi cần gọi con cháu . Nhà Vấn Trai đặc biệt có bức hoành " Thi Lễ Truyền Gia " . Cách tiếp khách của Bà Khánh Nam,  hậu duệ của  gia chủ  đă noi theo đường lối đó làm cho chúng tôi rất ngạc nhiên và cảm phục .

    Quen với cănh xô bồ, ồn ào của thế tục, nay được một tao nhân, khuê các ân cần tiếp đón với đầy vẻ dịu dàng lễ độ , tôi như được sống lại thời dỉ văng xa xưa . Bà Khánh Nam là tượng trưng của nét nhu ḿ, hiền thục, nhă nhặn, khiêm tốn . Bà là người có công lớn thu thập, ǵn giử di sản của tiền nhân để giới thiệu cho hậu thế , sáng danh tiên tổ . Gương chí hiếu nầy đă thể hiện qua sự săn sóc bảo tồn tỉ mỉ từng bức tranh, câu đối, góc bàn, mép ghế v..v..làm cho chúng bóng loáng trơn tru . Cũng chính tay bà Khánh Nam đă cắt hoa vườn mỗi sáng để cho mỗi pḥng của Lạc Tịnh Viên hằng ngày đều có hoa tươi mới . Những chiếc dĩa bạc xinh xinh đựng khăn ươt cho khách tham quan , cùng những tách nước giăi khát chứng tỏ ḷng hiếu khách của gia chủ . Đúng như Bảo Hài, con của bà Khánh Nam đă viết : "Lạc Tịnh Viên thuộc về cả gia đ́nh, nhưng linh hồn của Lạc Tịnh Viên thuộc về Mẹ "

    Không những bà Khánh Nam đă giử lại linh hồn của Lạc Tịnh Viên mà c̣n ǵn giử một di sản tôn quư của nước nhà và gia phong thi lễ của Nguyển Phước Tộc. 

    Xin tặng Lạc Tịnh Viên bài thơ sau đây :

    ""Thi lễ truyền gia chân khả kính,

    Hy Trần chánh điện ức tiền nhân,

    Tịnh tâm tĩnh trí năng thưởng lạc,

    Nhân hậu từ bi bất nhiễm trần ""

    Phùng Mai

     

    Tạm dịch :

    ""Kính thay lễ nghĩa truyền đời,

    Hy Trần chánh điện sáng ngời tiền nhân,

    Tâm thanh trí sáng bội phần,

    Nhân từ bác ái  bụi  trần chẳng chen ""

    Bửu Hiệp

    ********************************************

    Và sau đây, xin xem một bài báo anh ngử nói về Lạc Tịnh Viên,  Phủ Tùng Thiện Vương và Cung An Định :

    ROYAL MANORS

    From Lê Lợi Street going toward the train station, a left turn on Dien Bien Phu will lead to Phan Dinh Phung Street in the An Cuu District .  At 65 Phan Dinh Phung stands the Lac Tinh Vien Garden and Mansion, built by Duke Hong Khảng, a grand advisor to the Court, in 1889 . The building was later expanded with the last addition, Van Trai Hall, erected in 1910 . Lac Tinh Vien is now among the most visited private sites in Hue .

    The next mansion at 91 Phan Dinh Phung was built by Lord Mien Tham, Prince of Tung Thien (1819-1870), the 10 th son of Emperor Minh Mang . The prince and his brother Tuy Ly were among the most famous poets of the Nguyen Dynasty . Their nephew, Emperor Tu Duc, also a poet, once lauded his two talented uncles with the line :"Thi dao Tung Tuy bat Thinh Duong", which means " Poems of Tung Thien and Tuy Lưs caliber make the Great Tang's poetry nil " . The Tung Thien Mansion has recently been renovated, though not in its original state .

    Villa 147 Phan Dinh Phung, better known by its old address 79 , An Dinh Palace, belonged to the Empress Mother Tu Cung, mother of Emperor Bao Dai . 

    ***********************************************

     

     

     

     

     

    New Page 1

    Cụ Lử Hửu Thi

    New Page 1

    NHẠC CÔNG CUỐI CÙNG CỦA NHẠC CHÁNH HOÀNG TRIỀU 

    doinh18.jpg

    New Page 1

    Đội Nhạc Chánh Hoàng Triều

    doinh19.jpg

    New Page 1

    Đội Nhạc Lễ Cung Đ́nh

    doinh20.jpg

    Nh?c công cu?i cùng c?a d?i nh?c Chánh Hoàng Tri?u

    Ngày 28 tháng 10 năm 2003.

    Xin mời xem  trích đăng bài "Nhạc công cuối cùng của nhạc Chánh Hoàng Triều" của Hồng Nhung .

    Bài thứ bảy

    NHẠC CÔNG CUỐI CÙNG CỦA NHẠC CHÁNH HOÀNG TRIỀU 

    Hồng Nhung

    Cụ Lữ Hữu Thi (Thế Lai Thượng - Huế), nghệ nhân Nhă nhạc cung đ́nh nguyên là nhạc công của Đội nhạc Chánh Hoàng Triều. Cụ là người duy nhất ở Huế biết chơi Thài Chương - loại nhạc hát lễ đặc biệt. Đài Truyền h́nh Nihon Delta của Nhật Bản đă làm một chương tŕnh biểu diễn nhạc cung đ́nh của cụ Thi.

    Cơn mưa tầm tă của xứ Huế vẫn không ngăn nổi bước chân tôi t́m về ḍng sông Bao Vinh - làng Thế Lai Thượng. Bởi chính con sông nhỏ đó là một chứng nhân cho sự sinh tồn của một di sản văn hóa sống, nghệ nhân Nhă nhạc cung đ́nh Lữ Hữu Thi (ảnh bên) - nguyên nhạc công của Đội nhạc Chánh Hoàng Triều. Người mà cuối năm 2002, trong chương tŕnh làm phim tài liệu cho UNESCO, Đài truyền h́nh tin tức văn hóa giáo dục Nihon Delta News của Nhật Bản đă dành 3 ngày để thu h́nh cụ biểu diễn về nhạc cung đ́nh.

    Giả cắt cỏ để xin vào đội nhạc cung đ́nh

    Mặc dù có hẹn trước nhưng khi bước chân vào nhà, tôi vẫn bất ngờ. Người ngồi trên giường kia là cụ Thi chăng? Ở tuổi 93, cụ có phong thái của một lăo đạo sĩ nhưng không v́ thế mà mất đi chất phong trần của người nghệ sĩ. Cụ kể: tui sinh ra trong một gia đ́nh nhiều đời nổi tiếng về Nhạc Lễ ở vùng Thế Lai Thượng - Hương Trà - Gần Cửa Hậu, phía sau Hoàng Thành Huế. Từ năm lên 8, tui đă theo chân cha tham gia đánh trống lễ tại các đ́nh làng địa phương. Nhưng tui nhỏ quá nên cha tui đành xếp gạch cho tui đứng cao lên tui mới đánh được trống. Năm 16 tuổi, tui  đă bị sung vào lính. Một tuần 3 đêm đi tuần nhưng cực dữ lắm, nhất là những đêm mùa đông, tay ôm bao bố, tay ôm bó rơm. Hồi đó mần chi áo xống như bây giờ. Đứng tuần nhiều đêm tưởng sáng ra không về được nhà v́ rét. Hồi đó, tui có biết Ban nhạc Chánh Đại Nội, nhưng để vào được đó không chỉ có tài đàn hát mà cần có tiền hoặc con chức sắc, trong lúc đó nhà tui lại nghèo làm ǵ có tiền. Trong cái khó bó cái khôn, tui đành nghĩ ra phải làm việc ǵ đó lọt vào mắt ông Đội Thức - vị Đội trưởng nổi tiếng của Ban nhạc Chánh Đại Nội thời đó. Chưa đầy một tháng, tui đă có mặt hai lần ở nhà ông Đội (cả hai lần này ông ấy không ở nhà), lần th́ xén cỏ, lần th́ quét mạng nhện. Lần thứ 3 tui biết chắc có ông ở nhà, tui lên. Kết quả buổi "ra mắt" đó, ông Chánh chỉ biết dùng 1 câu: "Thằng ni rứa mà tài thiệt!".

    Đội nhạc Chánh Hoàng Triều.

    Vốn xuất thân trong một gia đ́nh có truyền thống nghệ thuật, khi ông Đội đưa sáo cho cụ, cụ thổi tốt; đưa nhị, cụ kéo ngọt; đưa nguyệt cụ gảy thạo; đưa bồng cụ đánh ngon. Hỏi đến bản nhạc nào cụ không chỉ biết, chỉ thuộc mà c̣n hát ngọt từ bản Ngự cho đến Đàng đàng, Chiến chiến, Xàng xê. Sau đó, cụ được ông Đội tuyển vào đội Tiểu Nhạc cung đ́nh, rồi được biên chế vào đội Ḥa Thanh. Điều này cụ lấy làm vinh dự lắm. Bởi những thành viên trong ban nhạc này không chỉ rành rơi một món nhạc mà phải 5-7 món. Riêng cụ Thi cả ban có 9 món cụ đă thông nghệ đến 8 món: nhị, tam, nguyệt, tỳ bà, địch, phách tiền, tam âm, trống bản. Tuy là thành viên của đội Tiểu Nhạc, song cụ Thi c̣n nổi tiếng với tài sử dụng trống tiểu cổ và kèn bầu của dàn Đại Nhạc.

    Như lời cụ Thi th́ đội Tiểu Nhạc cung đ́nh lúc đó gồm 10 thành viên. Biểu diễn trong các dịp lễ lạt, lễ đăng quang đại triều, kỵ giỗ, mừng thọ vua chúa, đón tiếp sứ thần, khách quư... và cùng với đội Đại Nhạc, tấu lên nhịp trống Ngũ lôi để dẫn mười lăm ngàn quân binh với nghi trượng cờ xí và khí giới uy nghiêm pḥ hoàng đế lên đàn Nam Giao để tế Trời Đất.

    Lễ tế đàn Nam Giao cuối cùng

    Đội Nhạc Lễ cung đ́nh.

    Nhắc đến Đàn Nam Giao, đôi mắt cụ bỗng hướng ra ḍng sông Bao Vinh đang trôi hững hờ trước nhà. Mọi kư ức về Đàn Nam Giao thuở nào bỗng dội về, với chất giọng Huế ngọt ngào, cụ đưa tôi về với Đàn Nam Giao của một hoàng triều xa xưa. Lễ tế Trời Đất ba năm tổ chức một lần. Tế tháng 2 gọi là Tế Trời, phải coi ngày Đinh, lễ tháng 8, gọi là lễ Tế Đất phải coi ngày Bộ. Cụ bảo: "Hồi tui đi lính, do đói quá nên tui thường xin đi bưng lễ để các quan dịch cho ăn, nhưng làm chi lên được Đài mà coi.

    Nhưng khi vô ban Nhạc Lễ, tui mới chứng kiến tận mắt, ấn tượng nhất và ghi sâu trong đầu tôi đến bây giờ là Lễ Nam Giao cuối cùng. Lúc đó Nhật đă đảo chính Pháp, nhưng triều đ́nh vẫn tổ chức tế lễ. Hôm đó, lính Nhật cầm súng lăm lăm hai hàng dọc đường đi lên Đàn Nam Giao. Lần tế ấy không có mặt vua Bảo Đại, nghe đâu ông lấy cớ bị đau chân trong một cuộc đi săn trên Miền Thượng nên không đến được. Tuy nhiên buổi lễ hôm đó vẫn diễn ra đúng quy củ, ban nhạc vẫn tấu lên bài Long Ngâm, rồi bài Hồ Quảng, B́nh Bán không hề sai một tiếng.

    Sau khi vua Bảo Đại thoái vị, ban nhạc cũng "bố cáo giải thể". Mặc dù cuối những năm 1950, Hoàng Thái hậu Từ Cung v́ c̣n nuối tiếc một hoàng triều đă mất nên cho gọi con trai ông Đội Thức tái hợp lại ban nhạc để dùng trong các ngày kỵ giỗ, nhưng lần "tái xuất" không thành, bởi miếng cơm manh áo đă kéo những nhạc công này trở về thực tại.

    Cụ Thi trở về quê làm nghề nạm vàng bạc gia truyền để nuôi sống bản thân và gia đ́nh, nhưng vẫn không quên được ngón nghề đă ăn sâu vào tiềm thức của ḿnh, nên mỗi khi nơi nào có lễ lạt, đ́nh đám cụ lại trổ lại ngón nghề, hay mỗi dịp đầu năm, cụ cùng con cháu tấu vài bản để đón Xuân, và cũng nhắc nhở con cháu về vốn nhạc Lễ truyền thống nổi tiếng một thời.

    Truyền dạy nốt ngón Thài Chương

    Khi được biết sẽ khôi phục lại Lễ tế Trời Đất, cụ Thi mừng lắm, bởi trước khi nhắm mắt xuôi tay thế là cụ vẫn có thể nghe dàn Tiểu Nhạc, Đại Nhạc tấu lên trong lễ tế Đàn Nam Giao. Bao nhiêu vốn văn hóa về Nhạc cung đ́nh, trong đó có Thài Chương, một loại nhạc hát lễ rất đặc biệt, lại được dùng trong lễ tế Trời Đất. Khi Thài Chương cung đ́nh, ca công phải thực hiện những động tác chân tay giống như các động tác bộ của tuồng. Do có thiên phú bẩm sinh, cùng với khả năng tự học, cụ Thi đă thành thạo đến độ điêu luyện về ngón Thài Chương. Hiện nay cụ là người duy nhất ở đất Cố đô biết về môn nghệ thuật cung đ́nh này. V́ thế, mà mấy tháng nay mọi người vẫn thấy một ông lăo đạp xe xuôi ngược vào thành để truyền lại ngón nghề độc nhất vô nhị này cho thế hệ trẻ . Nhưng theo cụ th́ để học được món này không chỉ một tháng, một năm, mà đ̣i hỏi có thời gian. Cụ nói: "Có cơ hội truyền được chừng mô hay chừng nấy, chứ tuổi tui đă cao lắm rồi".  "Bây giờ là tui măn nguyện lắm rồi. Ít nhiều ǵ th́ vốn Thài Chương quư giá, cùng kinh nghiệm về Đàn Nam Giao của tui cũng đến được với hậu thế". Ngoài ra, cụ c̣n là người đóng góp nhiều ư kiến, cũng như sưu tầm tư liệu nghiên cứu cho Ban tổ chức lễ hội trong công tác khôi phục Đàn Nam Giao lần này.

     

    ***********************************



    Ngày 22 tháng 10 nam 2003

    Ngày 23  tháng 10 năm 2003 .

    Trong bài thứ năm vừa rồi, chúng tôi đă giới thiệu đến Quư Vị một giáo sư khả kính trường Quốc Học  Huế , giáo sư Bửu Cân.   

    Nay chúng tôi xin mời Quư Vị nghe giáo sư Bửu Cân trang trọng nói lời mở đầu trong lớp học đầu tiên, lớp đệ tam, trường Quốc Học Huế, nhân ngày tựu trường :

    "Thưa các ông   (ngưng 1 phút)

    "Thưa các anh   (ngưng 1 phút)

    "Thưa tụi bây .

    Vi sao 3 câu nói trên đă làm kim chỉ nam dẫn giắt cả cuộc đời của tṛ Hoàng Trọng Cang, giờ nầy cũng đă  thất  tuần rồi  ?

    Mời Quư Vị xem bài thứ sáu .

    Bài thư sáu

    TƯỞNG NIỆM VỀ MỘT NGƯỜI THẦY

    Hoàng Trọng Cang

    Tôi xin đốt nén hương tưởng niệm dâng lên Thầy tôi hằng kính mến : Mệ Bửu Cân, nguyên giáo sư trường Lycée Khải Định / Quốc Học .

    Tôi được trúng tuyển qua một kỳ thi tuyển vào Lycée Khải Định từ năm 1941 đên 1946 . Tôi nói "được vào" là v́ hồi đó cả Trung Kỳ chỉ có bốn, năm trường công lập cấp cao đẳng tiểu học , được vào học Lycée v́ thế rất "hănh diện" với bà con .

    Ngày khai giảng, cái ǵ cũng làm tôi lo lắng sợ sệt rụt rè, như lính mới ṭ te, ngở ngàng trong sân trường mênh mông, giữa năm, sáu trăm học sinh mới củ .  Ba tiếng trống báo hiệu đến giờ tập trung sắp hàng vào lớp , Mỗi thầy giám thị phụ trách một lớp , điểm danh từng tṛ một và cho vào lớp . Đám lính mới ṭ te đang ŕ rầm hỏi chuyện nhau, th́ một vị giáo sư bước vào lớp, nghiêm trang với bộ Việt phục cổ truyền khăn đóng, áo đen, giày hạ, tay cầm khăn "mù soa" trắng, xếp gọn gàng, ngón tay trỏ xuyên qua khăn  và ngón tay cái kẹp nhẹ và  ép khăn lên mủi . Thầy bước lên bực gổ , kéo ghế ngồi ngay ngắn trước bàn giáo sư , trong khi cả lớp đứng thẳng im lặng chờ đợi .Chúng tôi đồng loạt ngồi xuống khi nghe Thầy cho phép ngồi  "Asseyez vous" .

    Giờ phút Thầy tṛ mới tiếp xúc nhau thật đặc biệt nghiêm trang . Trong bầu không khí trang trọng đó, Thầy bắt đầu mở lời nói chuyện với chúng tôi :

    "Thưa các ông"

    Rồi im lặng . Ba tiếng đó làm chúng tôi giật ḿnh , thấy ḿnh quan trọng quá, sao được Thầy vị nễ dử vậy ?  Nhưng chưa có ư nghĩ ǵ th́ Thầy  "phán"  tiếp :

    "Thưa các anh" .

    Chúng tôi b́nh tĩnh trở lại , nhưng vẫn c̣n sợ danh từ  "thưa", không biết Thầy giận ǵ ḿnh không . Đang lo lắng th́ chúng tôi nghe tiếp : 

    "Thưa tụi bây ". 

    Thú thật lúc đó , lạ lùng trước sự thay đổi đột ngột nầy, chúng tôi muốn bật cười , nhưng phải cố nén . Nhưng nh́n nét mặt khôi ngô của Thầy vẫn tĩnh bơ , vẫn nghiêm trang , không có chút ǵ khôi hài că . Sau đó Thầy giăng cho chúng tôi  "cái học trong trường" và  "cái sống ngoài đời" khác nhau như thế nào .

    Thầy bảo : "Tụi bây muốn được nhiều điểm, tao cho nhiều .  Tụi bây ưng phê học bạ tốt, tao phê cho .Nhưng sau nầy ra ngoài đời những thứ nầy sẽ không giúp được ǵ cho tụi bây đâu . Tụi bây muốn thành công, phải sống không tranh giành, không nịnh bợ, không gian xăo, không ḷn cúi, không lừa đăo, phải sống ngay thẳng, hiên ngang, nổ lực ..."

    Thầy dạy nhiều nhưng tôi chỉ nhớ đại khái như trên và những điều nầy trở thành những dấu ấn ghi sâu trong tâm trí . Trong suốt hơn nửa thế kỹ qua, tôi luôn luôn nhớ buổi học đầu tiên ấy, nó đă hướng tôi vào cuộc sống đạo đức và sống vui, coi cuộc đời như một tṛ chơi lớn chứ không như giấc mộng .

    Thầy rất yêu thương học sinh . Phương pháp giăng dạy của Thầy thật hấp dẫn, vui vẽ, thực tiễn . Nét chữ củ Thầy viết lớn trên bảng đen phải công nhận là như rồng bay phượng múa, theo đúng thực nghĩa, nhất là khi nh́n Thầy cầm viên phấn với 3 ngón tay chụm lại , thoăn thoắt lên xuống , mềm mại mới "thuởng thức" cái đẹp thật sự , mới nhận thấy  "nghệ sĩ tính" của Thầy . 

    Một hôm đến giờ vạn vật bài  "con sâu ghẻ" gây  "bệnh ghẻ"  . Thầy nói tṛ nào có ghẻ bắt cho Thầy một son sâu ghẻ Thầy đặt vào kính hiễn vi để cho học tṛ xem .

    Sau đó Thầy nói :" "Cái nớ" được 20 điểm nhờ bắt được sâu ghẻ ." Cả lớp cười vui . Bài vạn vật nào có loài vật , Thầy bảo chúng tôi vẻ và tô màu để Thầy chấm điểm , vẻ trên b́a cứng và tách rời ra . Tới giờ chấm điểm xong , Thầy bảo :  "Đứa mô có điểm 20 rồi th́ đem nạp lên bàn Thầy các con vật . Tụi bây có điểm rồi, c̣n đồ nầy cho con tau chơi ." Cả lớp căm động và vui vẽ .

    Riêng tôi th́ có kỹ niệm riêng . Tôi được Thầy chọn để ngày chủ nhật hoặc ngày nghĩ đến nhà Thầy viết các danh từ Hán Việt vào những mẫu giấy nhỏ ; hồi đó Thầy có ư định biên soạn cuốn tự điễn Việt Hán Pháp . Những ngày đến viết như vậy , Thầy thường giử tôi lại ăn cơm trưa với Thầy ; nhà Thầy ở gần chùa Từ Đàm , trên dốc Bến Ngự gần nhà Cụ Phan Bội Châu , tôi ở tận trong thành nội Huế .  Thầy thường xuyên bị sổ mủi nước và hay bi dị ứng "hắc x́" năm bảy cái mỗi lần , và nhiều lần trong một giờ . Mỗi lần hắc x́ cả lớp nhịn cười không nỗi . Lâu lâu Thầy lấy ra chai dầu Nhị Thiên Đường mở nút thấm vài giọt vào khăn rồi áp lên mủi với một vẽ ǵ ngộ ngộ . Có bệnh mà đùa giởn với bệnh thật ít có .

    Thầy có đầy đủ tư thái , phong cách của một giáo sư đạo đức ; nơi Thầy c̣n có dáng điệu, ngôn ngử đặc biệt các Mệ của cố đô Huế , gần giống phong độ đùa giởn của các thiền sư .

    Cuối năm 1946, đầu năm 1947, mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp; quân Pháp đổ bộ lên Lăng Cô, và tiến dần ra Huế . Dân chúng Huế tản cư, chúng tôi "sơ tản" ra Đồng Hới, th́ được nghe Thầy và gia-đ́nh đă ra tới Vinh  ( Nghệ An) . Người ta đồn rằng những chiếc khăn mù soa của Thầy được đem bán ở chợ trời . Sự thật không biết thế nào, nhưng nghĩ Thầy và gia đ́nh đang gặp khó khăn .  

    Nay hồi tưỡng lại buổi học đầu tiên trong ngày khai giảng năm 1941, tôi nghĩ rằng Thầy đă phân loại học sinh ra làm 3 thành phần :

    -Thành phần có những đức tánh tốt Thầy muốn khuyến khích th́ Thầy dùng từ "Các ông" .

    -Thành phần chưa có những đức tánh tốt nhưng có sẵn tâm thành muốn xây dựng , Thầy dùng từ "Các anh".

    -Thành phần thiếu nhiệt tâm có thói hư, tật xấu khó bỏ, thầy dùng từ "tụi bây" .

    Thầy "thưa" như vậy nhằm kêu gọi người nghe hăy tự xét ḿnh , xem ḿnh thuộc thành phần nào,  để tự ngộ, tự giác, tự tu .Thầy không trọng không khinh ai , Thầy đối xử b́nh đẳng với mọi người . Thầy yêu thương tất cả , muốn xây dựng tất cả , nhưng không cần ai ở thành phần nào cả .  Thầy có một lối dạy cao thượng , tôn trọng nhân vị , giống phương pháp dạy của Đức Phật , "Mỗi người hăy tự thắp đuốc mà đi ".

    Tôi xin tri ân Thầy đă dạy cho bài học chỉ gồm có 9 chử ngắn gọn nhưng thật nhiều ngụ ư .

     

    ***********************************

     

     

     

     

     

     

    Ngày  18 tháng 10 nam 2003

    Ngày  19 tháng 10 năm 2003 .

    Bài thứ 5

    RƯỢU SÂM BANH KHÔ

    Nguyển Đặng

    Do lời mời của chính phủ bảo hộ, Vua Khải Định cùng đoàn tùy tùng đáp tàu thủy sang Pháp dự cuộc đấu xảo Marseille . Nhà vua được đón tiếp trọng thể yến tiệc linh đ́nh . Trong buổi tiệc gần tàn, viên quan nội dịch người Pháp, tiến đến nhà vua thĩnh ư tâu tŕnh :

     -Tâu Hoàng Thượng, ngài dùng sâm banh loại ǵ , sec hay demi-sec ? . 

    Cụ HD. vị quan thuộc ngự tiền văn pḥng bèn thông dịch : Tâu Hoàng Đế, ngài ban dùng sâm banh khô hay nữa khô ? 

    Vua hỏi : Quái ! Đă là rượu, chất nước rồi sao khô với nữa khô ?.

    Lời dịch sát  nghĩa từng chử một, nhưng dịch vậy mà chưa phải vậy . "sec" hay "demi sec" đối với người sành nhậu , là hai loại  "sâm banh" khác nhau chút đỉnh về mùi vị, nồng độ cay, ngọt, tê, chát .

    Trên chiếc tàu thủy trở về Việt Nam, giửa đường nhớ lại chuyện củ, nhà vua phê b́nh cụ H.D. dịch Pháp ngử kém . Thông dịch viên như vậy ,sau nầy trong các cuộc hội thương ngoại giao với Pháp, lở dịch sai th́ tai hại cho đất nước . Nhà vua nghĩ như vậy .

    Từ đó, khi về đến Huế, cụ H.D. được cụ T.V.T thay thế để rồi lần lần vị tân quan nầy được thăng Thượng Thư Bộ Lại, một thời nỗi tiếng ở Huế .

    *************

    TÔI TRA RỒI, TÔI ĂN NÓI TÀO LAO XỊT BỘP.

    Giọng Huế , 'thêm dấu nặng" đối với   "người ngoài " đă khó nghe rồi, tiếng Huế với nhiều từ hay từ ngữ đặc biệt Huế, c̣n khó nghe, khó hiểu hơn, nếu không phải Huế rặt hay ở Huế lâu ngày .

    Toàn Quyền Đông Dương một hôm ghé Huế đến vấn an chúc thọ Đức Từ .

    Sau lời chúc của ông Toàn Quyền , Đức Từ bản tính ăn nói khôn ngoan và dè dặt, với rặt giọng Huế, nói chuyện với ông Toàn Quyền, qua người thông ngôn là ông N.D.Q,  vị quan thuộc Ngự Tiền Văn Pḥng .

    "Nhờ ông thông dịch với ông Toàn Quyền : Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp, có điều ǵ sơ xuất xin bỏ qua ."

    Vốn người Nam, không hiểu rỏ câu nói của Đức Từ, ông N.D.Q. xin Đức Từ ban lời lại .

    Vẫn câu nói củ :" Tôi tra rồi, tôi ăn nói tào lao xịt bộp..." (Tiếng Huế, "tra" có nghĩa là già cả, lơn tuổi, c̣n  "ăn nói tào lao xịt bộp" có nghĩa là nói đâu đâu, có thể quên trước quên sau ...)

    C̣n chưa hiểu nỗi ư Đức Từ, ông N.D.Q. đành dịch :

    "La Reine Mère, elle est vieille ...c'est pourquoi, elle parle à tort et à travers".

    Một số có mặt hôm đó, nghe ông N.D.Q. dịch như vậy biết là không đúng, nhưng khó thay từ ngử trên rặt Huế, chỉ có người Huế lâu ngày mới hiểu được mà thôi .

    *************************

    AVEC QUOI SOIGNE T'ON LE CÁI ĐAU ĐẦU ?

    Trong kỳ vấn đáp thi Cao Đẳng Tiểu Học (DEPSI) môn vạn vật, vị giáo sư giám khảo khả ái, áo dài, khăn đóng, chân đi dày dừa, hỏi một thí sinh :

    "Avec quoi soigne t'on le "cái đau đầu" ?

    Thí sinh đương sự nầy rất hiểu rỏ tính "ngẳn" của vị giáo sư danh tiếng nầy , bèn trả lời :

    "On soigne le "cái đau đầu" avec le " Nhị Thiên Đường" .

    Câu hỏi và câu trả lời rất tếu v́ có đủ tiếng tây, tiếng ta lẫn lộn và dầu Nhị Thiên Đường rất phổ thông thời bấy giờ, thôn quê cũng như thành thị .

    -Très bien ! 

    Thí sinh được 19 điểm trên 20 .

    Cũng câu hỏi đó và với phong thái rất "mệ" , nữa giờ sau, vị giám khảo hỏi lại một thí sinh khác .

    Đă được nghe đồn về danh tiếng vị giáo sư giám khảo, thí sinh nầy cung kính trả lời :

    -"Avec "le lá mảng cầu" và cũng đạt được số điểm tối đa .

    Cuối cùng, một trong hai thí sinh c̣n lại, v́  không dám "nhởn mặt " thầy, trịnh trọng thưa :

    -"On soigne "le cái đau đầu" avec l'aspirine ."

    Nói theo thuốc men chửa trị, đau đầu uống aspirine là đúng rồi, nhưng không thành thật và hợp ư vị giám khảo, v́ hồi đó thuốc aspirine c̣n chưa được nhiều người biết và cũng ít người có tiền để mà mua . Phương cách chửa trị đau đầu đại chúng nhất là xông, lễ và dầu Nhị Thiên Đường .

    Thí sinh thứ ba nầy v́ vậy mà chỉ được thầy "ban" cho 13 điểm .

    Thưa Quư Vị, tên vị giáo sư danh tiếng ấy là giáo sư Bửu Cân, thuộc gịng Tùng Thiện Vương .

    ****************************

     

     

     

     

    Đ? H? TH?

    Ngày  18 tháng 10 năm 2003 .

    Bài thứ 4

    ĐẾ HỆ THI

    Vỏ Như Nguyện

    Họ Nguyển có lẽ là một trong mấy họ phát xuất lâu đời nhất của Việt tộc . Họ Nguyển cũng là họ đông người nhất trong số "trăm họ" ở nước ta .  Những cuộc di dân liên tiếp qua các thời đại , những biến động lịch sử và ảnh hưởng kèm theo, có thể là trong những nguyên do khiến họ nầy đông con nhiều cháu như họ Lê, họ Trần .

    Cướp ngôi nhà Lư, Trần Thủ Độ ép buộc những người mang họ Lư phải đổi ra họ Nguyển . Triều Nguyển kể từ thời các chúa (Nguyển) cũng đă ban "quốc tánh" cho một số công thần danh tướng .

    Nguyển Ngọc Thanh trấn thủ Phú Yên, nguyên họ Mạc, là con Mạc Cảnh Huống và Bà Nguyển Ngọc Dương, được cải đổi theo họ Nguyển v́ "tử vi quốc tánh". Mẹ là em họ Nguyển Hoàng , Nguyển Ngọc Thanh là con rể chúa Sải, Nguyển Phúc Nguyên .

    Huỳnh Tường Đức cải đổi họ Nguyển, Nguyển Huỳnh Đức, khi c̣n theo pḥ chúa Nguyển Phúc Ánh .

    Triều đại nhà Nguyển, nguyên quán làng Gia Miêu Ngoại Trang, Tổng Thượng Bạn, Huyện Tống Sơn, Phủ Hà Trung, Tỉnh Thanh Hoá .

    Triều Nguyển, nguyên trước họ Nguyển Văn (như Nguyển Kim, tên húy Nguyển Văn Lưu) , về sau đổi ra Nguyển Phúc . Sự tích họ Nguyển thêm chử Phúc lót được truyền tụng như sau :

    Năm Giáp Th́n, tháng 7 năm Quí Hợi (1563) , bà vợ chúa Nguyển Hoàng, đang thời kỳ có thai gần ngày sinh, một hôm nằm thấy một đạo sĩ, đầu tóc bạc phơ, chống gậy trúc, từ phương xa đến thăm, đem theo một tấm giấy hồng đào . Bà mở ra xem thất viết toàn chử Phúc . 

    Đến ngày sinh con trai thứ 6 , bà có ư đặt tên con là Phúc , nhưng chúa Nguyển Hoàng muốc dùng Phúc làm chử lót tên họ , mong mỏi rằng con cháu sau nầy cũng được hưỡng Phúc chung . Hai ông bà bèn đặt tên con là Nguyển Phúc Nguyên, sau nầy là chúa Săi . Nguyển Phúc Nguyên là người Việt Nam đầu tiên mang họ và chử lót Nguyển Phúc . Về sau để khỏi phạm húy, dân gian tự động đỗi ra Phước trong việc xưng hô .

    Theo Hoàng Tộc Lược Biên, đến Triều Minh Mạng lại phân biệt ra Tôn Thất Nguyển Phúc (Phước)  và công tánh Nguyển Hửu . Tôn Thất Nguyển Phúc là những người đi theo chúa Nguyển Hoàng từ khi vào trấn thủ Thuận Hóa . Nguyển Hửu là những người ở lại miền Bắc (Thanh Hóa) .

    Vua Gia Long có 13 người con trai và 18 người con gái . Trong số 13 hoàng tử co 3 vị tăo thương . là hoàng tử Cảnh, Thuận An Công và hoàng tử Tuấn  Vua Minh Mạng, hoàng tử thứ tư được lập thái tử năm 1816 . Sau ngày lên ngôi, nhà vua ngự chế 11 bài thơ, một bài Đế hệ và 10 bài Phiên hệ . Mười một bài thơ ngự chế nầy được khắc vào Kim sách, đề ngày mồng một tháng Giêng năm Minh Mạng thứ 4 .

    Đế hệ thi dành cho con, cháu nhà vua, như vua Thiệu Trị là Miên Tông, con là Hồng Nhậm (vua Tự Đức), Hồng Bảo, Hồng Y ...

    Mười bài Phiên hệ dành cho các hoàng tử, anh em vua Minh Mạng . Các nhánh hoàng tử anh em nầy được đặt tên theo lối ngủ hành tương sinh, Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, xong lại trở lên bộ Thổ . 

    Tên các vị hoàng tử con vua Minh Mạng đều dùng bộ Miên, con vua Thiệu Trị bộ Nhơn, đến Đông Cung hoàng thái tử Bảo Long là bộ Phụ theo bài thơ "Ngự Chế Mạng Danh Thi" gồm 20 chử, 20 bộ, từ Bộ Miên đến Bộ Tiểu .

    Đế Hệ Thi , Miên, Hường, Ưng, Bửu, Vỉnh chỉ áp dụng cho phái nam . Phái nử ,hầu hết tên đôi, An Thường, An Trang, Trinh Thuận, Đoan Trinh, Kim Tú, Phương Tú (con gái vua Minh Mạng) .

    Con gái vua mới sinh ra có tên riêng, tên tục, khi được phong công chúa có thêm tự danh khác. Nhà thơ nử tài hoa Mai Am, con gái thứ 25 vua Minh Mạng, tên Trinh Thận, được phong Lại Đức Công Chúa, hiệu Mai Am .

    Con gái các vị hoàng tử gọi là Công Nử, đến đời cháu gọi là Công Tôn Nử . Các thế hệ tiếp sau, chắt, Công Tằn Tôn Nư,chiu, Công Huyền Tôn Nư, chít, Công Lai Tôn Nử ..

    Về phía nử các hệ Tôn Thất, hai chử Tôn Nử không thay đổi, đời này qua đời khác .

    Đế hệ Thi là một bài thơ ngụ ngôn ngắn,nhưng ư tứ thật dồi dào , phong phú .

    Qua Đế Hệ Thi, nhà vua muốn gởi gắm chí nguyện v́ nước, v́ dân của ḿnh, ngài muốn huấn dụ các thế hệ nối tiếp phải luôn luôn trau dồi tài năng, đức hạnh , tạo dựng khả năng bảo vệ đế nghiệp, đưa quốc gia dân tộc mỗi ngày mỗi hùng cường, hạnh phúc hơn .

    Sau đây là bài Đế Hệ Thi :

    MIÊN HƯỜNG ƯNG BỬU VỈNH

    BẢO QUƯ ĐỊNH LONG TRƯỜNG

    KIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT

    THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG

    Tạm dịch :

    Huân Nghiệp lớn do Tổ Tiên gây dựng,

    Gắng giử ǵn cho xứng ân sâu

    Phồn vinh thịnh đạt dài lâu,

    Anh tài,hiền đức cùng nhau bảo toàn .

    Đi đời nối nghiệp tiền  nhân ,

    Nước nhà hưng vượng muôn phần phát huy .

     

    ******************

     

     

     

     

    Ngày 29

    Ngày 17 tháng 10 năm 2003

    Bài thứ Ba

    NÓI CHUYỆN CHƠI

    Ưng Dự

    (Thuộc Gịng Tuy Lư Vương)

     

    Ngất ngất ngơ ngơ cũng nực cười,

    Cầm cầm cụi cụi mấy hơn ai ,

    Nay c̣n chị chị em em đó,

    Mai đă ôn ôn mụ mụ rồi .

    Có có không không lo hết kiếp,

    Khôn khôn dại dại nghẽo xong đời ,

    Chi bằng láo láo lơ lơ vậy ,

    Ăn ăn ngủ ngủ nói chuyện chơi .

     

     ***************** 

    Vua Bảo Đại

    baodai.jpg

    Nam Phương Hoàng Hậu

    namphuonghoanghau.jpg

Ngày 12 tháng 10 nam 2003

 

Ngày 12 tháng 10 năm 2003.

Bài thứ Hai .

NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU

Tôn Thất B́nh

Bà là vợ của vua Bảo Đại (1926-1945) tên thật là Mariette Jeanne Nguyển Hửu Thị Lan, sinh ngày 4/12/1914 (tức 17 tháng 10 Giáp Dần) tại G̣ Công, con của Pierre Nguyển Hửu Hào và Bà Marie Lê Thị B́nh . 

Năm 1927, Nguyển Hửu Thị Lan được gia đ́nh cho đi Pháp du học nội trú tại trường ḍng các nử tu Couvent des Oiseaux - Paris , và sau đó tốt nghiệp tú tài toàn phần .

Bảo Đại có dịp làm quen với M. J. Lan là do vợ chồng Charles sắp đặt . Nguyên khi Vĩnh Thụy lên 7 tuổi, vua cha ủy thác cho vợ chồng Charles , khâm sứ ở Huế nhận làm con nuôi và mang về Pháp cho ăn học .

Ngày 6/11/1925 Khải Định băng hà , Vĩnh Thụy về thọ tang cha .Sau 3 tháng ở trong nước lo việc tang vua cha  và nhận lễ phong vưong , Bảo Đại lại được sang Pháp tiếp tục học tập . Năm 1932, vợ chồng Charles đưa Bảo Đại trở lại Việt Nam.  Biết M. J. Lan nghĩ hè về nước thăm gia-đ́nh nên họ đă chọn chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt Nam có M. J. Lan để Charles và Bảo Đại cùng đi .

Người Pháp muốn chọn một người vợ cho Bảo Đại theo tiêu chuẫn phải có quốc tịch Pháp và có đạo công giáo . Nguyển Hửu Thị Lan đáp ứng được 2 điều kiện tiên quyết ấy .

Hơn nửa nàng lại có sắc đẹp, học vấn, được hấp thụ văn hóa Tây Phương, tuổi cân xứng với Bảo Đại nên mối thân t́nh giửa đôi nam nử nầy nở rất nhanh trên chuyến tàu hồi hương d'Artagnan lênh đênh trên biển hàng tháng trời . 

Đôi uyên ương nầy hẹn gặp nhau lại tại Đà Lạt .

Sau nhiều lần gặp gở ở Đà Lạt , t́nh cảm yêu thương nẫy nở, cả hai đều có ước vọng được sống bên nhau .

Tuy nhiên việc hôn nhân giửa Nam Phương và Bảo Đại có một sự trục trặc do lễ nghi truyền thống . Triều thần bàn tán sôi nỗi và lo lắng , cũng như Bà Từ Cung, v́ nếu chấp thuận cho Bảo Đại lấy cô M. J. Lan theo đạo thiên chúa, và lớn lên theo lối sống của Âu châu th́ khi có con , c̣n phải theo thiên chúa giáo, được phong thế tử làm sao đứng cử hành việc thờ cúng liệt thánh hay tế Nam Giao . Trong thâm tâm của bà Từ Cung và đ́nh thần , ai cũng muốn Bảo Đại có một người vợ sống theo khuôn mẫu lễ giáo Việt Nam . Chuyện "nạp phi" của Bảo Đại là một đầu đê gây nhiều bàn tán . Hoàng Thái Hậu và đ́nh thần đều có chọn sẵn một vương phi tương lai cho Bảo Đại và Bảo Đại cũng đă gặp thoáng người nầy, người kia, nhưng không lưu tâm đến ai . H́nh ảnh Nguyển Hửu Thị Lan đă choáng ngập că tâm hồn vị quốc vương trẽ tuổi theo Tây học nầy . Bất chấp mọi h́nh thức lễ nghi, Bảo Đại nói thẳng với Nguyển Hửu Thị Lan :" Tôi muốn cưới cô làm vợ" và thông báo quyết định của ḿnh với đ́nh thần .

Cuối cùng mọi việc được xếp dặt ỗn thỏa . 

Ngày 20/03/1934, lễ cưới được tổ chức ngay trong pḥng tiếp tân của Điên Cần Chánh, trước sự hiện diện của đ́nh thần và đại diện nước Pháp . Đây là một lễ cưới đỗi mới trước kia chưa từng có ở cung đ́nh  . 

Triều thần đứng sắp hàng dọc theo tấm thảm đỏ và vàng dành riêng cho Hoàng Đế . Bà Nam Phương mặc chiếc áo rộng, chân đi hài cong, đầu đội vương miện có dính vàng ngọc, châu báu óng ánh .Bà đi một ḿnh đến giữa tấm thảm, tất cả triều thần cúi chào . Với một sắc đẹp tuyệt vời, lộng lẫy, bà đi đến trước mặt Bảo Đại, cúi đầu chào 3 lần rồi ngồi vào cái chái bên phải của vua . Buổi lễ ngắn ngủi chấm dứt . Hai người sánh vai nhau bước đi trong tiếng nhạc qua Tử Cấm Thành, vào điện Kiến Trung, nơi ở và làm việc của cả hai người .

Sau khi cưới là lễ tấn phong Hoàng hậu, tên hiệu Nam Phương là do Bảo Đại đặt . Danh hiệu Hoàng Hậu trước đó chỉ được phong dưới triều Gia Long . Từ Minh Mạng trở đi, danh hiệu nầy chỉ phong sau khi Hoàng Đế băng hà . 

Bảo Đại c̣n ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng, màu chỉ dành riêng cho Hoàng Đế .

Theo nhận xét của một số cận thần Bảo Đại, bà Nam Phương là con người kín đáo, trầm tĩnh, có đầu óc suy nghĩ, có cá tính . Bà cũng thích đọc sách, nghiên cứu và có nhiều tham vọng về mặt chính trị .

Bà sinh được 5 người con với Bảo Đại : Thái Tử Bảo Long, Công chúa Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung, và Hoàng Tử Bảo Thắng . Bà từ trần tại Paris ( Pháp) sau một cơn đau tim đột ngột vào năm 1968, thọ 54 tuổi .

****************

Trong g?n sáu muoi nam qua

Thêm một bài viết về :

NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU

Tôn Thất An Cựu

Trong gần sáu mươi năm qua, kể từ khi Triều Nguyễn chấm dứt vào năm 1945 đến nay, có rất nhiều người viết về cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn. Nhưng rất ít người nhắc đến bà Hoàng hậu cuối cùng, tức Nam Phương hoàng hậu. Có chăng th́ cũng chỉ nhắc đến một vài chi tiết viết chung trong tài liệu nói về vua Bảo Đại. Hoặc nói cho đúng th́ chưa có ai viết một tài liệu riêng về Hoàng hậu Nam Phương. Do đó nên cũng rất ít người biết đến một bà Hoàng hậu mà trong thời gian giữ ngôi vị mẫu nghi thiên hạ đă có nhiều đóng góp cho Hoàng tộc Nguyễn Phước và cho xă hội lúc bấy giờ.

Để tưởng nhớ đến một người đàn bà tài sắc, đức hạnh và mẫu mực, đă từng là đệ nhất phu nhân của nước Việt Nam suốt mười một năm, tôi xin ghi lại đôi điều về Nam Phương hoàng hậu mà tôi đă tham khảo theo tài liệu của người bí thư của bà, ông Nguyễn Tiến Lăng, con rể của cố học giả Phạm Quỳnh và một số tài liệu khác thu thập trong cuốn hồi kư của cựu hoàng Bảo Đại và của hai sử gia Pháp là Jean Renaud và Daniel Grandclément như dưới đây:

Nam Phương Hoàng Hậu, khuê danh Nguyễn Hữu Thị Lan hay là Marie Thérèse, sinh năm 1914 tại G̣ Công Nam phần, con của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức huyện Sỹ, một trong những người giàu có nhất miền Nam, có thể sánh ngang hàng với gia đ́nh Bạch công tử ở Bặc Liêu. Ông huyện Sỹ là người đă bỏ tiền ra xây cất ngôi thánh đường nguy nga ở cuối đường Vơ Tánh Sài G̣n thường được gọi là nhà thờ huyện Sỹ mà đến nay vẫn c̣n tồn tại.

Năm 1926, Nguyễn Hữu Thị Lan, 12 tuổi, được gia đ́nh cho sang Pháp ṭng học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng thuộc loại nhà giàu ở Paris do các nữ tu điều hành. Sau khi thi đậu Tú tài vào năm 1932, cô gái miền Nam theo chuyến tàu của hăng Messagerie Maritime trở về nước. T́nh cờ trên chiếc tàu nầy có ông vua Việt Nam hồi loan sau khi hoàn tất việc học, đó là vua Bảo Đại mà hồi đó giới sinh viên ở Pháp thường gọi một cách thân mật là Prince Vĩnh Thụy.

Tuy cùng trên một chiếc tàu bồng bềnh giửa đại dương một thời gian khá lâu nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan chưa có cơ hội làm quen với vị Vua trẻ tuổi. Măi cho đến gần một năm sau, nhân dịp vua Bảo Đại nghỉ mát tại Đà Lạt và do sự sắp đặt của Toàn quyền Đông Dương, viên Đốc Lư (tức Thị Trưởng sau nầy) thành phố Đà Lạt tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau gọi là khách sạn Langbian) để t́m cách cho hai người gặp nhau. Tối hôm đó, trong chiếc áo lụa màu thiên thanh, Nguyễn Hữu Thị Lan đă xuất hiện trước Hoàng đế Bảo Đại để rồi chiếm gọn trái tim của một người có địa vị cao nhất nước.

Tưởng cũng nên nói thêm là trước đây có nhiều nguồn tin nói rằng vua Bảo Đại đă gặp Marie Thérèse trên chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt Nam, nhưng căn cứ vào hồi kư của vua Bảo Đại và tiết lộ của Hoàng hậu Nam Phương được chúng tôi trích dẫn dưới đây th́ hai người đă gặp nhau trong một hoàn cảnh khác.

Nhờ ṭng học ở một trường thuộc nhà Ḍng, được các nữ tu chỉ dạy các lễ nghi Tây phương đối với Vua Chúa nên tối hôm đó, lúc vừa diện kiến vua Bảo Đại, Nguyễn Hữu Thị Lan đă quỳ một gối và cúi đầu sát mặt đất để tỏ ḷng tôn kính nhà Vua. Lẽ tất nhiên, một vị vua trẻ tuổi và hào hoa như vua Bảo Đại th́ làm sao ông có thể không xiêu ḷng trước sắc đẹp mỹ miều của Nguyễn Hữu Thị Lan. Và chuyện sẽ đến đă đến: đám cưới của vị thiếu quân hào hoa với một nữ lưu tràn trề hương sắc miền Nam đă diễn ra tại Huế ngày 20-3-1934. Ngay ngày hôm đó Nguyễn Hửu Thị Lan được tấn phong làm Hoàng hậu với danh hiệu Nam Phương. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các bà vợ Vua thuộc triều Nguyễn. V́ mười hai đời vua Nguyễn trước kia, các bà vợ Vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.

Nhắc đến cuộc nhân duyên với Hoàng hậu Nam Phương, cựu hoàng Bảo Đại đă ghi lại trong cuốn CON RỒNG VIỆT NAM :

"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm t́nh. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đă chọn tên Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai th́ trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đă từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, h́nh như  các Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng (tức vua Gia Long) đă được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc t́nh cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".

Về phần Hoàng hậu Nam Phương, bà đă nhắc lại "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" như sau:

"Hôm đó ông Darle, Đốc Lư thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi (Lê Phát An là anh ruột bà Nguyễn Hữu Hào) và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đă bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi  ngoài hiên th́ ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: "Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được". Khi cánh cửa pḥng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng ḿnh cúi chào và kính cẩn nói:

-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)

Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm ǵ để tỏ ḷng tôn kính đối với bậc Quân Vương, v́ vậy tôi đă không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, qùy một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trổi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và d́u tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.

Về sau, khi đă trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ư cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ư một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".

Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện nầy xây cất từ thời vua Khải Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều vua Bảo Đại.

Tại điện Kiến Trung, Hoàng hậu Nam Phương đă lần lượt hạ sanh 5 người con gồm có:

-Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4-1-1936
-Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1-8-1937
-Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3-11-1938
-Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5-2-1942
-Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9-12-1943

Thường ngày, ngoài việc chăm sóc dạy dỗ con cái, thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ lạc trong cung đ́nh, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Tóm lại, bà rất chu toàn bổn phận làm dâu.

Ngoài việc quản trị nội cung như đă nói trên đây, hoàng hậu Nam Phương c̣n tham gia các việc xă hội và từ thiện. Như đi thăm trường nữ Trung học Đồng Khánh ở đường Jules Ferry (tức Lê Lợi sau nầy), bà thường tiếp xúc với các Giáo sư, nhắc nhở họ cố gắng làm tṛn thiên chức của một nhà mô phạm; đi thăm Nữ Công Học Hội ở đường Khải Định (tức đường Nguyển Huệ ngày nay). Theo lời nử sĩ Đạm Phương sau nầy kể lại th́ có lần Hoàng hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà ḍng Cứu Thế.

Ngày nay, không ai c̣n lạ lùng khi trông thấy quư vị đệ nhất phu nhân xuất hiện nơi công cọng để giúp chồng trong việc ngoại giao, nhưng cách đây sáu mươi năm, Hoàng hậu Nam Phương giúp vua Bảo Đại trong việc tiếp kiến các nhà ngoại giao là một điều quư hiếm. Vào thời đó, nhiều người ở kinh đô Huế đều biết trong những lần vua Bảo Đại tiếp đón các quốc khách như Thống Chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong Lào quốc hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Mên v.v đều có sự hiện diện của hoàng hậu Nam Phương. Lần vua Bảo Đại tự ḿnh lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng.

Chi tiết đáng kể nhất là việc Hoàng hậu Nam Phương đă đem lại ḥa khí giữa các chức sắc đạo Thiên Chúa ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn. V́ như chúng ta đă biết, đạo Thiên Chúa với các vị vua triều Nguyễn vốn có những căng thẳng lịch sử th́ Nam Phương hoàng hậu, như một làn gió mát, đă thoa dịu sự căng thẳng lịch sử tưởng chừng như không bao giờ thay đổi.

Nhân đây, tưởng cũng nên nhắc lại một hành động chứng tỏ ḷng thiết tha với quê hương đất nước của Hoàng hậu Nam Phương mà chúng tôi mới t́m thấy trong tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:

Số là sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ư đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. (Xin lưu ư bạn đọc lúc cuộc chiến khởi đầu tại Nam phần là thuần túy giửa thực dân Pháp một bên và một bên là người Việt Nam chống lại sự đô hộ của người Pháp, không giống thực chất cuộc chiến Quốc Cộng sau nầy). Lúc đó vua Bảo Đại đă từ chức, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau ḷng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đă gởi một Thông điệp (Message) cho bạn bè ở Âu châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:

"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đă thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng v́ ḷng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mănh đất vốn đă có quá nhiều đau khổ. Hành động nầy của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đă từng đau khổ v́ chiến tranh hăy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.

Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hăy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền ḥa b́nh công minh và chân chính và xin quư vị nhận nơi đây ḷng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi".

Kư tên:

Bà Vĩnh Thụy

(tức Hoàng hậu Nam Phương.)

Trong một dịp tiếp xúc riêng tư, một người Việt Nam trong ngành ngoại giao trước năm 1975 hiện ở Pháp nói với chúng tôi rằng bức thông điệp trên đây đă được bà  Nam Phương gởi đến Tổng Thống Truman của Hiệp Chủng Quốc vào đầu năm 1946 để nhờ can thiệp. Tuy nhiên, đối với một tin tức có tính cách lịch sử nhưng v́ không được tận mắt nh́n thấy trên giấy trắng mực đen nên tôi xin ghi lại  nơi đây với tất cả sự dè dặt thường lệ.

Bà Hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đă trút hơi thở cuối cùng tại làng Chabrignac, một vùng quê thuộc miền Bắc nước Pháp theo như lời thuật lại sau đây:

Ngày 14 tháng 9 năm 1963, vào khoảng 5 giờ chiều, cựu hoàng hậu Nam Phương cảm thấy mệt bèn cho người nhà đi mời Bác sỹ đến thăm mạch. Sau khi chẩn khám, Bác sĩ cho biết bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài hôm là khỏi. Nhưng không dè, Bác sĩ vừa rời khỏi nhà chừng vài tiếng đồng hồ th́ bà cảm thấy khó thở. Người nhà bèn nhờ một người Pháp hàng xóm đi mời một Bác sĩ khác, nhưng người Bác sĩ thứ hai chưa đến kịp th́ cựu Hoàng hậu Nam Phương đă êm ái ĺa đời ngay trong đêm đó khi vừa tṛn 49 tuổi. Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung, v́ các con bà đều ở tận Paris để làm việc và đi học.

Đám tang của bà Hoàng hậu Viêt Nam lưu vong được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ như những năm tháng cuối đời của bà. Hôm đưa đám, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp th́ chỉ có ông quan đầu Tỉnh Brive la Gaillarde và ông Xă Trưởng Chabrignac.

Trong lần trở lại Pháp vào tháng 4 năm 1999, do đề nghị của một người bạn thường giao thiệp với Hoàng tử Bảo Long, từ Paris tôi theo người bạn đi về làng Chabrignac, cách tỉnh Brive la Gaillarde ba mươi cây số để viếng mộ Hoàng Hậu Nam Phương.

Gió chiều nghĩa trang lồng lộng thổi, trước mắt tôi là một ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp như dưới đây:

Bia chữ Hán: ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ, có nghĩa là:

"Mộ phần của bà Hoàng hậu nước Đại Nam là Nam Phương".

Bia chữ Pháp: ICI REPOSE L"IMPÉRATRICE D"ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN, có nghĩa là : "Đây là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu Việt Nam tên là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan".

Tôi lặng nh́n ngôi mộ với những cành hoa đă úa vàng lăn lóc đó đây, ḷng bồi hồi nhớ lại hơn năm mươi năm trước, từ nhà tôi đi dọc theo bờ sông An Cựu, mỗi khi đi ngang cung An Định tôi ngẩng nh́n lên bao-lơn, nhiều lần tôi bắt gặp Hoàng hậu Nam phương đang tựa lưng vào tường, mắt đăm đăm nh́n đám lục b́nh trôi lờ lững giữa gịng sông. Tự nhiên ḷng tôi se lại, thương tiếc bà Hoàng hậu của kinh đô Huế thuở nào và buồn cho chính thân tôi, một thời thơ ấu nay đă đi qua! Thuở ấy, có một đôi lần tôi đứng xếp hàng trong hàng ngủ học sinh Tiểu học để đón chào Hoàng hậu. Chúng tôi, với nét mặt rạng rở tay cầm cờ vàng phất lia lịa mỗi khi Hoàng hậu xuất hiện và hướng mắt về phía đám nhóc con Tiểu học. Than ôi! Ngày ấy nay c̣n đâu .

Tôi kính dâng lên hương linh Hoàng hậu Nam Phương những hàng chữ thô thiển nầy và xin Hoàng hậu chứng giám cho ḷng kính trọng vô vàn của người viết khi ghi lại những chi tiết về cuộc đời trong sáng của bà.

Tháng 9 năm 2000. Kỷ niệm 37 năm ngày mất của Hoàng hậu Nam Phương


Tài liệu tham khảo:
- La Famille d"Annam của Nguyễn Tiến Lăng
- Le Dragon d"Annam của Bảo Đại
- Souverains et Notabilités của Jean Renaud
- Les Derniers Jours De L"Empire d"Annam của Daniel Grandclément

 

**********************************************

Ngày 10 tháng 10 nam 2003

Ngày 10 tháng 10 năm 2003. 

Bài thứ nhất

(Bài nầy trích trong Tiếng Sông Hương do Cô Lê Thị Ngọc Yến Garden Grove , Ca . gởi đến .}

NÓI TRÊM CHUYỆN HUẾ NGÀY XƯA

Nguyển Dương Đôn

Tôi mất Bố rất sớm, lúc mới một tuổi . Bố tôi người Nghệ An, phủ Hưng Nguyên, tổng Phú Long, làng Long Cù .Chắc nơi ấy có nhiều rồng trong đất . V́ tôi ở với Mẹ , Mẹ tôi là cháu nội của Tùng Thiện Vương, Miên Thẫm, tôi trở thành người Huế .Tùng Thiện Vương là con trai thứ 10 của Vua Minh Mạng . 

(Tùng Thiện Vương  là  nhà thơ nỗi tiếng vào giữa thế kỹ 19 .Được trọng vọng trong Hoàng Tộc, được vua Tự Đức kính nễ, nhưng gần suốt đời không tham gia chính trị .Cho mới đến năm 47 tuổi,dâng sớ xin từ không được ,Tùng Thiện Vương mới nhậm chức Kiêm Nhiếp Tôn Nhơn Phủ . Mất năm 51 tuổi, Tùng Thiện Vương để lại hơn 10 tập thơ, như Thương Sơn Thi Tập 4 cuốn, sáng tác từ năm 1859 . Trong số học tṛ nỗi tiếng của Tùng Thiện Vương có Nguyển Trọng Hợp , Phạm Phú Thứ, v..v..) . 

Nói con cháu nhà vua, nhiều người nghĩ ngay đến đời sống bạc vàng, giàu có . Thật sự không phải vậy . Tôi có nghe nói rằng, lúc Bố tôi c̣n sống, Mẹ tôi gánh gạo đi bán tại chợ Phủ Cam .Về  sau trong đời quả phụ, bên cạnh bà ngoại tôi , để sinh sống có lúc Mẹ tôi may thuê quần áo . ( Có lẽ loại áo dài lớp trong, lớp ngoài và quần xếp con bằng hàng lụa, thời trang của các mệnh phụ, các bà các cô trong nội ).

Quân chủ, quư tộc, cha truyền con nối ở Việt Nam  ngày xưa có nét đặc trưng riêng của nó không giống Tàu, cũng chẵng giống Tây .

Lúc ấy chúng tôi sống bên cạnh Phủ Tùng Thiện . Nói Phủ đệ các vương hầu, nghe to như vậy , không phải vậy . Vài mẫu vường cây cănh và tranh cho con cháu, hai nhà thờ lớn độc nhất để thờ ông Hoàng và Mẹ ông Hoàng .  Phủ ở cạnh sông Phủ Cam , giữa nhà máy điện và trường Bá công . Bên kia sông là Phủ Cam, làng đạo công giáo,nơi ở của Gia đ́nh Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm . 

Con cháu Tùng Thiện Vương rất đông, 20 con trai và 12 con gái, bà con ở răi rác nhiều nơi xa nhau, v́ thế nên ít biết nhau,  nhưng ngày Tết hay ngày có kỵ ,có dán tại phủ , con cháu mô mô lại tụ họp đông đủ . Ngày xa xưa tôi c̣n nhỏ, Cụ Hồ Đắc Trung (cháu ngoại), Thượng Thư Bộ Học,thân sinh các ông Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Khăi Thượng Thư Bộ Hộ, Hồ Đắc Di (Giáo sư Y Khoa Đại Học Hà Nội) , Hồ Đắc Ân , cựu nội trú Dược Khoa Paris . Là cậu của Bửu Hội (Pḥng Tuy Lư), Hồ Đắc Ân là người đă mở đường cho cháu sau này trở thành nhà nghiên cứu có tiếng tăm .

C̣n nhỏ, học trường làng Dương Xuân Hạ, năm sau tôi vào học trường Quốc Học, lớp tư (Cours preparatoire), rồi lớp ba (Cours elementaire). Đang học lớp ba, th́ trường thay đỗi qui chế : học sinh tiểu học bắt đầu phải trả học phí . Ai nghèo phải đi học trường khác . Tôi đỗi sang trường tiểu học Chaigneau, gần Nhà giây thép (Sau nầy gọi là sở Bưu Điện), ở giửa hai nhà hàng Morin và Chaffanjon .

Nhớ lại thời kỳ ấy, từ nhà đến trường Quốc Học, phải đi băng qua ruộng và đi trên lề ruộng . Mùa lúa chín, đồng ruộng che phủ một màu xanh vàng bát ngát hay những ngày mưa lớn, nước ngập mênh mông , nh́n tới nh́n lui không sao t́m được đường đi lối về . Trời mưa mang tơi lá . Có hai thứ tơi là thông dụng, tơi cá, rẽ tiền nhưng chĩ dùng được một mùa ; tơi đọt lâu bền hơn, ba bốn năm liên tiếp,nhưng hơi mắt (đắt tiền) . Với những trận mưa khủng khiếp ở Huế, ngày 2 buổi đi về, chỉ có tơi đọt và nón lá chắc bền mới che kín được áo quần , sách vở khỏi bị ướt .

Đi học trường Chaigneau , từ nhà máy điện có đường Mù U, đi thẳng một mạch tới trường . Cây Mù U, một loại cây không cao lớn lắm ,nhưng nhiều bóng mát,, thân cây vững chắc, có bông nhỏ màu trắng như hoa mai , trái tṛn bằng ngón chân cái , dùng để ép dầu thắp đèn  (dầu Mù U) . Trẻ con, học tṛ lượm mù u rụng, trái tṛn vo và cứng chắc làm tṛ chơi bi thay thế bi bằng chai . 

Lên lớp nh́ tôi học với thầy giáo thi sĩ Ưng Thiều (Pḥng Tuy Lư) mà tôi nhớ măi nhiều kỹ niệm . Trong lớp học, thĩnh thoảng thầy ứng khẩu vài vần thơ thầy vừa sáng tác và đọc cho học tṛ chép . Một hôm đang dạy bài tập đọc (lecture) Le Pelican của Lamartine, thầy hứng thú dịch luôn ra Việt văn  . Thầy tṛ cùng vui thích , thầy ngâm thơ, tṛ chép thơ, lớp học tươi mát hẳn lên như một lớp tao đàn hội ngộ .

Thầy Ưng Thiều, về sau tôi được biết thêm cũng là một nghệ sĩ am tường đờn ca Huế . Nhà mô phạm hiếm có ấy đă để công ghi chép, biên soạn lại ca khúc Đại Tiểu Oa ( Lăng Tương Khúc), một âm điệu cổ xưa nhất, thuộc cung oán trong nhạc Huế . Ca khúc nầy h́nh như đời trước truyền lại, hoài căm mối t́nh Mỹ Châu, Trọng Thũy, từ chiếc nỏ thần, chiếc lông ngổng cho đến giếng ngọc, mồ chôn người bạc mệnh sau cùng .

        "Thiên cổ oan hồn nan tự bạch,

        Hăi nam thời tác nộ đào thanh "

Không biết gia đ́nh thầy sau mấy lần tản cư, hồi cư,  tỵ nạn có c̣n ǵn giử được phần gia bảo hiếm có ấy  không ?

Lên lớp nhất tôi học với thầy Tôn Thất Quyền và cuối năm thi tiểu học . (Hè 1923) . Thời ấy muốn thi tiểu học phải đủ 13 tuổi . Tôi chọn ngày sanh 01/05/1910 . Tôi có ngày sanh chính thức kể từ đó . V́ Bố mất sớm tôi không  có ngày sanh dương lịch . Chỉ nghe Mẹ nói sinh ngày mồng tám ,tháng mười một, năm Hợi . Về sau lớn lên nhờ anh rể Ưng Thuyên (Pḥng Tuy Lư Vương, con trai thứ 11 của vua Minh Mạng) đọc đơn từ củ lưu trử tại Ṭa Công sứ Hà Tĩnh, tôi mới biết ngày sinh thật là 28-12-1911 .

Tôi không có anh em trai . Chỉ có một người chị, Nguyển Thị Trâm, hơn tôi năm tuổi . Học khoá đầu tiên trường Đồng Khánh, chăm chỉ và rất giỏi, năm nào chị cũng đứng đầu lớp . Lấy chồng năm đệ tứ niên, cuối năm học chị thi thành chung cùng với em chồng là Ưng Quả, học sinh quốc học . Hai người đổ đầu . Tôi không biết ai được xếp số một .  Học xong bậc tiểu học , tôi trở lại trường Quốc học , lớp đệ nhất niên, Cao đẳng Tiểu học .

Trăi qua 4 năm trung học, các giáo sư lần lượt kế tiếp giăng dạy, tôi c̣n nhớ gần như tất cả các vị thầy .Trong phạm vi bài viết ngắn tôi chỉ xin nhắc lại hai vị , thầy Hoàng Gia Đức và thầy Wagnier .

Người Hà Nội, cùng gia đ́nh với Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu, thầy Hoàng Gia Đức và thầy Vỏ Liêm Sơn là hai giáo sư duy nhất luôn luôn mặc quốc phục, áo đen khăn đóng, nghiêm trang, tề chĩnh . Thầy Hoàng Gia Đức không dạy môn văn chương (Pháp Văn), nhưng thĩnh thoảng thầy thích thú đọc những đoạn chuyện ngắn của Prosper Mérimée , như Colomba cho học tṛ nghe . Thầy Wagnier dạy tôi Pháp văn trong 2 năm đệ tam và đệ tứ niên, c̣n mê say thi văn, nghệ thuật hơn . Că lớp học im lặng nghe thầy đọc thuộc ḷng các đoạn kịch thơ .Thầy diễn tă thật cảm động và thầy xúc động thật sự những đoạn thơ t́nh tứ khi Cyrano yêu thương người đẹp Roxane . Năm tôi học đệ tứ niên, hiệu trưởng bây giờ là ông Bernard Bourotte, học sinh quốc học có cuộc băi khóa nhân dịp để tang  chí sĩ Phan Châu Trinh . Trong số học sinh băi khóa có Vỏ Nguyên Giáp, lúc ấy học lớp đệ nhị (hay đệ nhất ) niên .  Say mê chính trị tṛ Vỏ Nguyên Giáp bị đuổi khỏi trường . Vào khoảng thời gian nầy, học xong trung học đệ nhất cấp, ở Huế hết trường . Muốn tiếp tục học thi tú tài phải đi Hà Nội học thêm ba năm . Tôi ra học trường Albert Sarraut, hai năm đầu ngoại trú, nội trú trong hai năm sau . Năm đầu tôi quen anh Hoàng Cơ B́nh, học lớp toán . Anh B́nh và chị, cô Hoàng Thị Nga, là con Ông Tuần Vủ Quảng Yên . Cô Nga lúc nầy đă làm giáo sư, tốt nghiệp trường Cao Đẳng Sư Phạm và có thêm bằng Brevet Superieur (tương đương với tú tài toàn phần) .  Cô Nga thuê căn nhà có gác trước hồ Trúc Bạch, bên cạnh hồ Tây và cho phép em mời bạn học đến ở chung : Anh Hoàng Xuân Hản và anh Nguyển Văn Tỵ (Về sau anhTỵ học trường Kỹ sư Điện tại Toulouse ; anh B́nh Bác Sĩ Y và Nha Khoa  .Tôi học sau anh B́nh hai lớp, nhưng cũng được đến ở vài tháng tại nhà nầy . Sau đó Cô Nga sang Pháp học Lư Hóa tại Sorbonne và đổ Tiến Sĩ  Hóa Học , Với bằng cấp ấy, năm 1945, cô được cử làm Viện Trưởng đầu tiên Viện Đại Học Việt Nam tại Hà Nội . 

Năm cuối cùng tại Albert Sarrault tôi quen Souphanouvong, con thứ sáu Vua Louang Prabang,học sau tôi một lớp .Ở nội trú, chúng tôi ngồi chung một bàn ăn trong suốt niên học . Về sau tốt nghiệp trường Ecole de Ponts et Chaussées (Paris), Souphanouvong làm Kỹ sư công chánh miền Nam Trung kỳ và  lấy vợ Việt Nam tại Nhatrang . Đầu mùa thu năm 1945, sau lần gặp Hồ Chí Minh tại Hà Nội, Souphanouvong trở về Lào, lănh đạo nhóm Pathet Lào tại Sam Nứa . Học xong lớp toán tôi được học bỗng du học Pháp . Từ Việt Nam qua Pháp, hồi đó chỉ có một phương tiện duy nhất : đường thủy . Từ Tourane (Đà Nẳng) tôi đáp tàu Claude Chappe đi Sài G̣n .Hơn một ngày ngồi trên tàu, tôi bị say sóng quá chừng . Say sóng dữ dội quá sức chịu đựng đến nỗi tôi có ư định thôi không đi du học nữa . Nhưng đến Sài G̣n suy đi tính lại tôi nghĩ rằng xưa nay có ai mà say sóng và chết đâu, người ta chịu được tại sao ḿnh không . Nghĩ thế tôi lại hăng hái leo lên tàu André Lebon, từ Nhật trở về Marseille . Cùng đi với tôi chuyến nầy co anh Lê Văn Đệ người Nam . Đổ đầu khóa một trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội , Anh Lê Văn Đệ được học bỗng của Tờ báo Phụ Nử Tân Văn Sài G̣n . Về sau khi làm Bộ Trưởng Giáo Dục, (1954-1957), tôi được may mắn có người Họa sĩ tài hoa nỗi tiếng này giúp đở thành lập Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài G̣n . 

Chuyện Huế từ trường làng Dương Xuân Hạ đến trường Quốc Học , lần này cũng lại đi quá xa, ra Hà Nội rồi vô Sài G̣n . Muốn nhắc riêng cũng không được, chuyện Huế là rứa đó .Huế xa xôi mà gần gủi, Huế riêng mà chung , Huế dị bẫm mà đồng thanh, dị đồng mà đồng nhất, hợp chung .  

****************