Đ?C TUY LƯ VUONG MIÊN TRINH
ĐỨC
TUY LƯ VƯƠNG MIÊN TRINH
Ông
có tên là Khôn Chương và Quư Trọng, hiệu Tŕnh
Phổ và Vĩ Dạ, là con thứ 11 của Đức Thánh
Tổ, mẹ là Tiệp Dư Lê Thị Áị Ông sinh này
19 tháng 12 năm Kỹ Măo (03/02/1820) .
Thuỏ
nhỏ Ông thông minh đĩnh ngộ, lúc 7 tuổI
được dạy học Hiếu Kinh th́ Ông đă
thuộc ḷng khiến mọi ngườI kinh lạ,
thật ra từ lúc 4 tuổI Ông đă được
mẹ truyền khẩu mà c̣n nhớ măi
không quên .
Ông
rất hiếu học nên được vua cha rất thương
yêu . Có lúc Ông bị bệnh, Vua băi triều ở Văn
Minh Điện, tự thân đến thăm hỏi . Đó là
chuyện rất hiếm thấy ,việc nầy có ghi trong
Thương Sơn cung từ :
Bất
thị Miên Trinh kim đới bệnh,
Thử
gian hà xứ đắc thiên hương .
(Miên
Trinh chẳng bệnh hôm nay,
Hương
trờI lan đến chốn nào trong cung ?)
Lúc
lớn lên Ông học rộng, giỏI văn chương và
nhất là có tài về thơ . Năm Kỹ Hợi, (1839)
Ông được phong là Tuy Quốc Công , cho lập
phủ riêng . Phủ của Ông ở cạnh Phủ Tùng
Quốc Công nên thường ngày cùng nhau xướng
họa , lại cùng mời các anh em đến thưởng
thức thi phú .
Khi
mẹ bị bệnh, Ông được vào Dưỡng-
Chính Đường để hầu hạ , sớm khuya
chẳng lúc nào trể năi , mọi ngườI đều
khen là chí hiếu . Năm Đinh Mùi , (1847), Ông xây Phủ riêng
ở Vĩ Dạ ,rước Mẹ về phụng dưỡng
.
Năm
Tân Hợi (1851), Vua Dực Tông cho thiết lập Tôn
Học Đường để dạy các công tử, công tôn
và giao cho Ông trông coi . Năm Nhâm Tư, (1852), vào dịp
Tết phụng họa thơ của Vua, Ông có câu
thơ được Vua khuyên son và xem là chí t́nh :
Ngự
lê , tiên quật phân hoài tụ ,
Qui
di huyên đường hữu lăo thân .
(Quả
quít,trái lê thu trong áo ,
Mong
sớm mang về biếu mẫu thân . )
Năm
Giáp Dần (1854)
Ông được tân phong là Tuy Lư Công .
Năm
Mậu Ngọ (1958), nhân sinh nhật thứ 40
của Ông, Vua có tặng câu đối :
Văn
chất kiêm ưu, công kham đương thử,
Hiếu
từ đại lạc , ngă diệc tự chi
(Rực
rỡ văn đức, Ông nên nhận lấy,
Mừng
vui từ hiếu , ta cũng giống thay )
Năm
Ất-Sửu (1865) Vua khiến Ông kiêm nhiếp Tôn Nhân
Phủ Hửu Tôn Nhân , Ông lấy cớ chịu tang
Mẹ mà từ chối song không được. Na9m Tân Mùi
thăng Tôn Nhân Phủ Tă Tôn Nhân .
Năm
Mậu Th́n, nhân mừng Ngủ Tuần ĐạI Khánh, Ông
được phong là Tuy Lư Quận Vương .
Năm Nhâm Ngọ, (1882)
Ông được thăng làm Tôn Nhân Phủ Hửu
Tôn
Chính
. Năm Quư Mùi (1883) Vua Dực Tông mất để di
chiếu cho Ông cùng với Thọ Xuân Vương giúp
đở việc nước .Năm Kỹ Sửu (1889) Thành
Thái nguyên niên nhân cử phụ thần, Ông v́ tuổI cao
đức trọng được cử làm Đệ
Nhất Phụ Chính Thân Thần kiêm nhiếp Tôn Nhân
Phủ Tă Tôn Chính . Năm Giáp Ngọ (1894), Ông được
thăng là Tuy Lư Vương .
Năm
Đinh Dậu (1897) v́ tuổI già Ông xin thôi việc ở Tôn
Nhân Phủ. Chẳng bao lâu Ông bị bệnh, con cháu cho
mời Thầy đến trị bệnh, th́ Ông băo :
Ta
lúc trẽ cùng vớI anh em bàn chuyện thọ của ngườI
xưa, có người mong được sống như
Lảo Tử hoặc Bành Tổ, ta cườI nói mong như
thế th́ quá nhiều , ta chỉ mong sống như Thích
Ca th́ quá đủ,nay đă được th́ c̣n ham ǵ
nữa .
Ông
mất ngày 24 tháng 10 năm Đinh Dậu (18/11/1897),hưởng
thọ 79 tuổi .Nghe tin Ông mất Vua rất thương
xót, ban thụy là Đoan Cung, cấp 1000 quan lo việc tang
.Tẫm Ông ở Dương Xuân, (Hương Thũy,
Thừa Thiên), nhà Thờ ở Vĩ Dạ .
Ông
tính t́nh chân thật, ham mê sách vở, vui với việc
học, nỗi danh về thơ . Thám Hoa Nguyển Đức
Đạt trong bài tựa Vi Dạ Thi Tập có viết : Cái
học của Vương thuần thục nên thoát ra
lời tao nhă, có hơi của Hà Giang, Trần Tư đời
Hán, mà không thiếu giọng của Xương Lê
Các
tác phẫm của Ông gồm Vĩ Dă Hợp Tập,
gồm că thơ lẫn văn, tất că 11 cuốn . Ông cũng
nỗI tiếng về thơ Nôm, ngoài những bài xướng
họa được lưu truyền, Ông c̣n có những
tác phẫm như Nữ Phạm Diễn Nghĩa, Nghinh Tường
Khúc .
Ông
có 77
ngườI con trai và 37 ngườI con gái .Con của Ông
như Nguyển Phúc Hồng Nhĩ ban đầu làm Điễn
Bạ , sau tập tước Công, sung chức Tôn Nhân
Phủ Tă Tôn Khanh rồI căi làm Tham Tri Bộ Lễ.
Ông và con cháu mở ra pḥng 11 thuộc đệ
nhị chính hệ và được ngự chế ban cho
bộ Thảo để
đặt tên cho con cháu trong Pḥng ./.
(Trích
Nguyển Phước Tộc Thế Phă do nhà Xuất
Bản Thuận Hóa Huế 1995)