Bạn
cũ
năm
mươi
năm
(Tràm
Cà Mau)
( Chuyện kể của ông Hai )
Dạo
đó, tôi vừa mới trổ mă, bể tiếng, tay chân tự
nhiên dài ngoằng ra, áo quần thành ngắn cũn cỡn.
Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái ǵ cũng hư hỏng,
má tôi cứ la rầy măi. La rầy để quở trách mà
cũng chan chứa t́nh yêu thương. Tôi ăn cái ǵ
cũng ngon, đặt lưng xuống đâu cũng ngủ
được say sưa.
Thời nầy,
đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt,
nước Pháp đem quân trở lại Việt Nam để
tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên
kháng chiến, cầm tầm vông vạt nhọn đánh nhau
với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng
như mọi thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là
đánh nhau với Tây, nhưng chạy th́ nhiều hơn,
v́ lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống
của Tây.
Tôi bị Tây
bắt lăng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị
trói ké, đem về giam tại thành phố. Trong trại
giam, mỗi ngày phải đi làm lao động vệ sinh,
dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai
mương. Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi
ngày mượn cái kèn thổi ṭ te làm khổ lỗ tai mấy
ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng nghe mấy anh tập
kèn cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia măi.
Tập hoài rồi
cũng thổi được. Một lần cao hứng
tôi thổi khúc kèn báo hiệu tan giờ làm việc, tiếng
kèn vang vọng, rơ ràng, làm mấy ông Tây tưởng đă hết
giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và
anh lính kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn
cây kèn nữa. Nhưng sau đó hai tuần, tôi được
cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính, và sung vào
đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có
một chút hiểu biết về âm nhạc Tây
Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng, không
như các ông bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, th́
tôi cảm thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải
tập kèn v́ bắt buộc, th́ thật là chán nản, mệt
nhọc, bực ḿnh. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân
nhạc không vui, v́ đă chọn lầm người.
Trước đó, ông tưởng tôi có năng khiếu
đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị
tuyển dụng. Về sau ông thường nói lời an ủi
rằng, thiếu chó th́ bắt bất cứ con ǵ ăn
phân cũng được, miễn sao biết ăn phân th́
thôi. Nghe ông nói vậy, tôi cũng tự ái, và bực ḿnh.
Thường thường,th́ đội lính kèn được
nhàn hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu
buổi sáng thức dậy, như con gà gáy sáng, bao giờ
làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu
thật đúng giờ. Thế thôi. C̣n ngoài ra th́ chơi cờ,
tán dóc, trêu ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc.
Mỗi sáng tiếng kèn vang vang: " Tọ tè ti tọ tè ti ..
ti tọ ti tè .." Mà lũ con nít chuyển âm thành:"Một
ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi
ăn mày. Mụ đi đâu tui bắt mụ lại, tui
không cho mụ về". Nghe y hệt tiếng kèn đồng.
Trong đám
lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, v́ anh cùng tuổi,
cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị
Tây bắt và sung vào đội quân nhạc. Chúng tôi thường
rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi biết và thuộc
ḷng tên đào kép của các gánh cải lương, ḥ quảng.
Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của
anh là được vào làm việc cho gánh cải
lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể
mùi mẫn với các cô đào đẹp như tiên kia. Anh
không có tham vọng được nổi tiếng, chẳng
cần được khán giả mến mộ, chỉ
mong gần gũi cái nhan sắc của các cô đào thôi.
Có lần,
tôi nhặt được tấm ảnh của một cô
gái nào đó. H́nh chụp rất điệu, ngón tay trỏ
tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên,
mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có
lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa tấm ảnh
cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười,
em gái tôi ở Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy
tấm h́nh nầy, Tư Thàn nể nang tôi lắm. Tôi có thể
sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh
không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng
hơn, mà anh bớt nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ
biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm h́nh, và hy vọng
được ḷng tôi, th́ sẽ được ḷng em tôi. Vốn
tính nhút nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng
về em tôi. Chỉ một lần, anh đánh bạo hỏi
tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng, về
chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên
là được, và sẽ mời anh ở lại nhà vài
hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ
cả mặt. Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh
đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem mà mơ mộng
. Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo trắng
với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng
bán, cô nầy có nước da ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng
cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên
các đ̣n gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính
trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ,
tươi cười, không làm mất ḷng ai. Tôi cũng
khoái cô nầy, thường giả vờ hết tiền,
ăn thiếu nợ. Đến tháng lănh lương, th́ trả,
nhưng không trả hết, khi nào cũng xin khất lại
một ít. Cứ nợ cô, th́ cô phải nhớ đến
số tiền nợ. Nhớ đến số tiền nợ,
th́ phải nhớ đến người mắc nợ, tức
là cô phải nghĩ đến ḿnh. Cái mưu kế nầy,
tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy
anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư
Thàn, mà anh không chịu nghe theo, cứ ṣng phẳng trả hết
tiền, không bao giờ chịu thiếu một xu.
Một hôm
tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện
cớ bận việc, tôi đi một ḿnh. Khi ngồi trong
rạp, nh́n xéo qua bên kia, th́ tôi thấy Tư Thàn và cô Năm
Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa
lên chỉ trỏ, như đang giải thích ǵ đó. À th́ ra
Tư Thàn đă bí mật "phỗng" được
cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho
Tư Thàn làm ăn được tự nhiên.
Hôm sau, gặp
Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra th́ tôi cũng
hơi ghen tức. Tôi th́ đặt mưu tính kế, mà chẳng
được cơm cháo ǵ, Tư Thàn cứ tự nhiên,
th́ vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói
với Tư Thàn:
"Mày phản
bội em tao. Trả tấm h́nh con Mười lại cho
tao. Tưởng mầy đàng hoàng, th́ ra .."
"Tao làm ǵ
mà gọi là phản bội?"
"Mầy
c̣n giả vờ? Hồi hôm mầy đi đâu? Làm ǵ? Với
ai? Có chối được không?"
"Ai nói với
mầy?"
"Chính mắt
tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội
làm chi?"
Tư Thàn bẽn
lẽn móc ví trả tôi tấm h́nh cô gái có hai cái núng đồng
tiền. Anh có vẻ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:
"Em gái mày
đẹp như thế nầy, th́ chán chi người ḍm
kẻ ngó. Tao làm ǵ mà vói thấu. Trả h́nh lại cho mày là
phải".
"Mày định
bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên lắm
đó chứ!"
"Ừ.
Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là 'đầu
gà đít vịt'. Mầy thấy da em ngăm ngăm không?
Tôi hỏi
Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng?
Trong lúc tôi bày mưu tính kế mà không được em
đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu, đàn bà con gái
không ưa những người bê bối, mang nợ mắc
nần. Sau nầy về làm chồng quen thói nợ nần,
ai mà chịu nổi. Th́ ra, tôi nhẹ dạ tin vào mưu kế
tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.
Từ ngày trả
lui cho tôi tấm h́nh cô gái có núng đồng tiền, Tư
Thàn không c̣n nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi
biết ḿnh ngu, đ̣i lại tấm h́nh, chẳng ích ǵ,
nhưng đă lỡ rồi, tiếc cũng không được.
Tôi thường
ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có th́ giờ
đi chơi với cô Năm Cháo Trắng. Bởi vậy,
sau nầy cô thường múc cho tôi những tô vun, cháo muốn
tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ
cô nữa.
Thường
thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem
đá gà ở xóm trong. Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng
tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi thua,
mà thua th́ nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá
độ, chúng tôi dắt nhau đi ăn nhậu vui vẻ,
ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, th́ hai đứa lủi
thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè
để gỡ gạc. Có hai lần bị cảnh sát bố
ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi
cũng sợ bị bắt, chạy trốn, cho nên mất
luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi t́m ra một
cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được
của chúng tôi một xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với
nhau, đứa nầy được, th́ đứa kia
thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc
đá gà nào, chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, v́ một
trong hai đứa thắng cuộc. Thời trước
Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nh́n
vóc dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không.
Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng
nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, th́ c̣n nghĩ đến
chuyện thanh toán, nợ nhiều quá, không c̣n muốn trả
nữa. Tôi cứ khất măi, và đến tháng lănh
lương cũng không trả bớt nợ cho Tư Thàn.
Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái ǵ lấn cấn,
t́nh bạn không c̣n như trước nữa. Tôi không dám
ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ.
Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo
ḷng, khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả
Một lần,
Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười
nói với một cô nữ quân nhân. Giữa chỗ đông
người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:
"Sao mày nợ
tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải
vay mượn mà trả chứ?"
Tôi bị mất
mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ
mặt. Tôi nghiến răng trả lời:
"Mầy
c̣n đ̣i tiền nợ, th́ tao đục cho trào máu."
Tư Thàn lảng
đi nơi khác, mà tôi th́ cũng không hết giận, định
đi theo gây sự thêm. V́ một món nợ đá gà, mà chúng
tôi mất t́nh bạn.
Sau năm
1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Ḥa
được thành lập tại miền Nam. Chúng tôi
được giải ngũ, về đời sống
dân sự. Tư Thàn đem vợ là cô Năm Cháo Trắng về
quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ thứ
việc, đủ sống qua ngày, nhưng v́ con đông, cho
nên khi nào cũng thấy thiếu thốn.
Mười
mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển
kinh sách cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên
đường trở về, chiếc xe làm nư, chết
máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa.
Tôi ngồi bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ.
Đầu óc suy nghĩ, tính kế không ra. Tôi định bắt
xe đ̣ về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa
xe. Chờ hoài mà không có xe qua. Phía dưới ruộng khô, có
một nông dân đang cày đất với hai con trâu. Nắng
cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên bờ lấy
bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:
"Nầy
anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với"
Người
nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp
băng ruộng, đem cái bầu nước đến
cho tôi. Khi đến gần, th́ anh reo lên:
"Mày
đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở
đây mà ghé lại thăm?"
Tôi mừng
quá, thét lớn:
Tư Thàn!
Mày! Đ. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả ? Chiếc
xe nó biết có mầy ở đây, nên chết máy, để
cho tao gặp mầy."
Tư Thàn và
tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy
năm trước. Đủ thứ chuyện. Nói cho nhau biết
tin tức gia đ́nh mỗi người. Tư Thàn có hai thằng
con trai. Đời sống của gia đ́nh thong thả, nhờ
cô Năm Cháo Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo
cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư
Thàn chưa về lại Sài G̣n lần nào, v́ cũng không có
chuyện ǵ, mà chẳng c̣n ai để thăm viếng.
Tư Thàn bỏ
dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho
chiếc xe nằm ụ bên đường, đến
đâu th́ đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư
Thàn trống trải, đơn sơ như tất cả
mọi nhà nghèo miền quê.
Tư Thàn lấy
cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt
được một con gà trống thiến lớn. Làm thịt,
bao đất sét, nướng lửa rơm. Tư Thàn
đem ra hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập
cái vỏ đất sét, để cả con gà lên chơng tre có
lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn
đă rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm
đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn
chai nầy, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa,
chuyện không đầu, không đuôi, chuyện nầy lẫn
qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư Thàn đi học
về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp
một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư
Thàn và tôi cùng cười vang. Khi trời xế chiều, th́
cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng về. Cô nhận ra
tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều lần đau
điếng. Cô mắng:
"Cái ông khỉ
nầy, tưởng chết rấp đâu rồi chớ.
Làm sao biết tụi tôi ở đây mà ghé chơi? Vui quá xá"
Đêm đó, cô
Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm
thêm mấy lít đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu
dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say.
Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn,
trị giá bằng một tháng lương vào thời gian
mười mấy năm trước, mà chưa trả, và
cũng chưa hề toan tính thanh toán cho ṣng phẳng.
Cũng v́ món nợ đó, mà cái t́nh bạn thân thiết giữa
chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn
nồng, không c̣n như trước. Tôi chậm răi nói lè nhè
trong hơi men:
"Tao bậy
quá, c̣n mắc nợ mầy mà chưa có dịp trả .
Công việc làm ăn, cũng không khá, mà con cái đông
đúc, có cơm no bụng từng ngày là may lắm. Tiền
không có dư .."
Tư Thàn
cười hiền ḥa, giọng ấm áp nói:
"Thôi, quên
chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ ǵ? Chuyện
cờ bạc thời trai trẻ dại dột, để
tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quư rồi."
Có lẽ v́
rượu đă ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí t́nh
của bạn, mắt tôi cay xè. May mà tối trời không ai
thấy. Tôi xịt mũi. Đêm đó, tôi ngủ lại nhà
Tư Thàn, và nói chuyện rầm ŕ trong bóng tối cho đến
khuya.
Sáng hôm sau tôi
ra chỗ xe nằm ụ, th́ thấy chiếc xe chỉ c̣n
là một đống sắt cháy nham nhở. Th́ ra đêm
qua, du kích đặt ḿn phá, mà ngủ mê quá, chúng tôi từ
làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe đ̣ về Sài g̣n, và
bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội
thánh bắt bồi thường. Có lẽ họ biết,
tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng
không moi được một xu, th́ tha làm phước. Vả
lại thời buổi chiến tranh, không ai dự liệu
trước được chuyện bom ḿn.
Tháng tư
năm 1975 tôi đem gia đ́nh chạy, chưa biết sẽ
chạy đi đâu, về đâu, và làm sao mà sinh sống
sau nầy. Cứ chạy đă. V́ sợ phải đi tù
như một số bạn tôi, họ đă trở về
miền Bắc vào năm 1954, và nghe đâu một số
đă chết trong tù, một số c̣n bị giam giữ
hơn hai mươi năm chưa được thả.
Đó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua
Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được
nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ
nghề tay chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm
dưỡng lăo của quận hạt. Hai mươi mấy
năm đ̣i sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.
Năm 2001,
sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại
Việt Nam một ḿnh, lần thứ nhất, để sắp
đặt việc cưới vợ cho đứa con trai
út. Khi đang ở Sài g̣n, tôi nghe tin bọn khủng bố
đánh sập ṭa nhà đôi chọc trời ở New York.
Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm
hay nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền,
nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau đó, xem
truyền h́nh, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Ḷng tôi đau
nhói, và nhận ra rằng, quê hương mới là nước
Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm thiết không thua
ǵ quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi
chuyến bay đều bị hủy bỏ, việc vào ra
nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể
trở vể lại Mỹ được, và trong ḷng
cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể về
lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở
Việt nam măi, cho hết cuối đời. Bảy
mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ,
tôi ra đứng ở hành lang khách sạn. Từ trên cao
nh́n xuống phố phường bên dưới, tôi chợt
nhớ, hơn năm mươi năm trước, nơi
đây c̣n lau sậy um tùm, đất thấp ngập nước,
hoang vu. Từ bên trong pḥng vọng ra tiếng ngâm thơ
khuya qua cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn năo nề:
Sông kia rày đă nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ
trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên
tai
Giật ḿnh c̣n tưởng
tiếng ai gọi đ̣ .."
(TRẦN TẾ XƯƠNG)
Ḷng tôi chùng
xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi
qua, vèo mau như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây
bắt đi tù, sung vào đội lính kèn. Bao nhiêu là đổi
thay, bao nhiêu băi biển đă biến thành nương dâu,
bao nhiêu trũng hoang đă trở thành phố thị. Những
thế hệ trước tôi và đồng thời với
tôi, có lẽ đa số đă về với ḷng đất.
Yên bề. Những người c̣n sống sót như tôi, bây
giờ ở đâu, làm ǵ. Bỗng tôi chợt nhớ đến
Tư Thà. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ
ngày xưa mà chưa trả được, ḷng buồn
rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời
mau sáng, để thuê xe đi t́m thăm Tư Thàn.
Chiếc xe
thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi t́m
Tư Thàn. Anh tài xế nghe tôi nói đi t́m một người
bạn cũ, gặp nhau lần cuối đă hơn ba
mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ
anh cho tôi là một ông già khùng lẩm cẩm.
Tôi chỉ nhớ
mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt ḿn
hơn ba chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai
có biết ai Tư Thàn, nay chừng trên bảy mươi tuổi,
hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Mọi
người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi
đi lang thang quanh làng, và hy vọng, c̣n có người biết
Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại
đường cái, ngồi trong cái cḥi bán nước bên vệ
đường, th́ gặp một bà già. Tôi chận lại
hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng
bà la lên:
"Tôi nhớ
ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa.
Mà ông là ai, t́m Tư Thàn có chuyện chi không?"
"Tôi là bạn
lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi
năm trước. Bây giờ, nhớ bạn, ghé t́m
thăm."
"Trời
đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm
nhau, giờ mới trổ chứng đi t́m!"
Mấy đứa
trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người
ta nói anh đang cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải
là Tư Thàn bạn tôi, bảy mươi lăm tuổi,
c̣n sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ
đưa về một ông già ở trần, xương
sườn đếm được, tay chân khẳng khiu,
chỉ mặc cái xà lỏn ngắn, đi chân đất.
Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy g̣, hai má hóp,
miệng móm xọm, chỉ c̣n hai cái răng, một cái của
hàm trên, một cái của hàm dưới, rất là thiếu
mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư Thàn cả,
có lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều. Tôi nheo mắt
nói:
"Tôi t́m
Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham
Mưu, có vợ là chị Năm Cháo Trắng."
Ông lăo phều
phào:
"Ông là ai?
T́m tôi có việc ǵ không?"
"Tôi t́m
Tư Thàn. Tôi là bạn cũ."
"Ông là bạn
cũ của tôi? Chắc ông t́m lầm người rồi."
"Ông biết
Cô Năm Cháo Trắng?"
"Vợ
tôi, má thằng Độ, thằng Rề."
Bây giờ
th́ tôi chắc chắn ông lăo ngồi trước mặt tôi
chính là Tư Thàn, không ai khác. Tôi c̣n mơ hồ thấy vài
nét hao hao của thuở nào. Bố thằng Độ, Thằng
Rề, hai thằng nầy tôi đă gặp hồi xưa.
Ngày trước, Tư Thàn mong sinh được bảy
đứa con đặt tên là Độ, Rề, Mi, Pha, Xôn, La,
Xi, nhưng mới có mới có Độ, Rề, th́ bà vợ tịt
ng̣i. Tư Thàn ngồi co một chân lên ghế dài, rất tự
nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên cao, để
ḷi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu,
nhăn nhúm, nằm tựa trên một đùm bao da lưa
thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá, nắm lấy
hai vai Tư Thàn mà lắc:
"Mầy
không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!"
"Không. Ông
có lầm tôi với ai khác không? Ông là ai?"
"Thế
th́ mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng
Tham Mưu hả?"
"Tôi,
Tư Thàn lính kèn đây."
Tôi làm bộ
buồn bă đổi giọng:
"Có lẽ
ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác
trùng tên chăng?"
"Lính kèn, ở
bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm
mươi tư. Chỉ có Tư Thàn nầy thôi"
Tôi nắm chắc
hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:
"Đ.M. mầy
không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ."
Tôi
đưa tay lên miệng, với dáng điệu như
đang thổi kèn và ca: "Một ngàn, ba mươi vạn
thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi
đâu, tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về."
Nghe tiếng
chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn
nhào đến ôm lấy tôi mà thét lên:
"Đ. M. mầy,
chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó
chết, thằng dịch vật. Thằng Quài, mầy,
Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai ngờ, ai mà nh́n
ra."
Đám trẻ con
đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già
văng tục và gọi nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm
động quá, cái miệng móm méo xẹo, và khóc thành tiếng
hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn ngào:
"Mầy
c̣n nhớ đến tao, t́m thăm. Đồ dịch vật.
Lâu nay mày chết rấp nơi nào?"
Tư Thàn
nh́n tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:
"Tóc tai
cũng c̣n, răng cỏ hai hàm c̣n nguyên, mặt mày có da có thịt,
áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mầy
là Việt kiều về thăm quê hương không? Bây giờ
mầy ở đâu? Làm ǵ?"
Tôi sợ
Tư Thàn buồn, nói dối:
"Việt
kiều cái con khỉ. Tao ở Sài g̣n, nhờ có mấy
đứa con vượt biên ra nước ngoài, và mấy
đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già rồi,
về hưu, không làm ǵ nữa cả."
Tôi hỏi
thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con
trai đều đă chết. Thằng Độ đi lính quốc
gia, đă đền nợ nước, thằng Rề "hy
sinh" cho "cách mạng". Cô Năm Cháo Trắng chết
bệnh. Tư Thàn không có ai để nương tựa,
phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày.
Tôi nh́n cái thân thể xương xẩu của Tư Thàn,
không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm lao động
chân tay. Tôi nói:
"Thôi, mầy
đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long
Xuyên, lu bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bơ mấy
mươi năm xa cách."
Tư Thàn ngự
trong căn cḥi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ.
Không bàn, không giường, chỉ có cái vơng treo xéo. Trên bếp
có cái nồi đen điu, méo mó. Tôi dỡ nồi ra xem, thấy
c̣n có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn, mà cứng quá,
răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không c̣n
răng, ăn cách nào đây?
Khi xe vào tỉnh
lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế t́m cho một quán
ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ.
Tư Thàn gạt đi, không chịu vào, và nói:
"Kiếm
chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi.
Đừng hoang phí tiền bạc. Vào làm chi những nơi
sang trọng nầy cho chúng chém. Gặp nhau là vui rồi.
Ăn uống là phụ."
Tôi ép măi mà
Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi
trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và
nói cười vui vẻ, tự nhiên. Tôi uống rượu
thay nước, v́ sợ đau bụng. Anh tài xế cùng
ăn, mà tôi không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ
khó chịu, vùng vằng.
Đưa Tư
Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói
bao, bằng giấy báo đưa tặng. Tư Thàn mở
ra xem, và giật ḿnh, xô gói quà ra về phía tôi:
"Cái ǵ
đây? Tiền đâu mà nhiều thế nầy? Tôi không lấy
đâu. Đừng bày đặt."
"Có bao
nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả
được, bây giờ trả lại cả vốn lẫn
lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bơ
công tao lặn lội đi t́m."
"Không. Nợ
nần cái khỉ ǵ. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời
trẻ dại. Tao đă bảo mày quên đi từ lâu. Bày
đặt. Lấy tiền làm chi? Không có chỗ cất, bọn
trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy
đâu."
Thấy bộ
Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả
vờ nói :
"Mầy
mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên
tâm. Chưa trả hết nợ, th́ sau nầy phải
đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm.
Thương tao, mầy cứ cầm đi. Để mua gạo.
Để khi đau yếu có chút thuốc thang. Nếu không có
nơi cất, th́ đem gởi bà con. "
Đôi mắt
già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run
như sắp khóc:
"Đ.M, tao
già đến thế nầy, mà mày cũng c̣n định gạt
tao như hồi xưa nữa sao? Thằng chó chết. Cái
t́nh bạn của mầy, c̣n quư gấp trăm ngàn lần
gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng,
nói cho bà biết cái t́nh bạn của mày. Dưới suối
vàng, chắc bà cảm động lắm."
Tràm
Cà Mau
(Trịnh Cuối
Huôn sưu
tầm
và chuyển)