SU'U TÂ`M 20

Home | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | TA.P GHI 50 | TA.P GHI 51 | TA.P GHI 52 | TA.P GHI 53 | TA.P GHI 54 | TA.P GHI 55 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13 | CHÚ Ư | CHÚ Ư [tt] | CHÚ Ư 1 | HOT LINKS | THÚ VI. | TÊ'U | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | LINKS

TA.P GHI 16

 

Bn cũ năm mươi năm

(Tràm Cà Mau)

 

 

( Chuyện kể của ông Hai )

 

Dạo đó, tôi vừa mới trổ mă, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng ra, áo quần thành ngắn cũn cỡn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái ǵ cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy măi. La rầy để quở trách mà cũng chan chứa t́nh yêu thương. Tôi ăn cái ǵ cũng ngon, đặt lưng xuống đâu cũng ngủ được say sưa.

Thời nầy, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây, nhưng chạy th́ nhiều hơn, v́ lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống của Tây.

Tôi bị Tây bắt lăng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương. Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi ṭ te làm khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng nghe mấy anh tập kèn cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia măi.

Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rơ ràng, làm mấy ông Tây tưởng đă hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính, và sung vào đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút hiểu biết về âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng, không như các ông bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, th́ tôi cảm thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập kèn v́ bắt buộc, th́ thật là chán nản, mệt nhọc, bực ḿnh. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân nhạc không vui, v́ đă chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông thường nói lời an ủi rằng, thiếu chó th́ bắt bất cứ con ǵ ăn phân cũng được, miễn sao biết ăn phân th́ thôi. Nghe ông nói vậy, tôi cũng tự ái, và bực ḿnh. Thường thường,th́ đội lính kèn được nhàn hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức dậy, như con gà gáy sáng, bao giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu thật đúng giờ. Thế thôi. C̣n ngoài ra th́ chơi cờ, tán dóc, trêu ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang: " Tọ tè ti tọ tè ti .. ti tọ ti tè .." Mà lũ con nít chuyển âm thành:"Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về". Nghe y hệt tiếng kèn đồng.

Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, v́ anh cùng tuổi, cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi biết và thuộc ḷng tên đào kép của các gánh cải lương, ḥ quảng. Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho gánh cải lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các cô đào đẹp như tiên kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng, chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của các cô đào thôi.

Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái nào đó. H́nh chụp rất điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên, mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm h́nh nầy, Tư Thàn nể nang tôi lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm h́nh, và hy vọng được ḷng tôi, th́ sẽ được ḷng em tôi. Vốn tính nhút nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một lần, anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng, về chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ mời anh ở lại nhà vài hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt. Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem mà mơ mộng . Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo trắng với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô nầy có nước da ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên các đ̣n gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất ḷng ai. Tôi cũng khoái cô nầy, thường giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Đến tháng lănh lương, th́ trả, nhưng không trả hết, khi nào cũng xin khất lại một ít. Cứ nợ cô, th́ cô phải nhớ đến số tiền nợ. Nhớ đến số tiền nợ, th́ phải nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến ḿnh. Cái mưu kế nầy, tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư Thàn, mà anh không chịu nghe theo, cứ ṣng phẳng trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu một xu.

Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi đi một ḿnh. Khi ngồi trong rạp, nh́n xéo qua bên kia, th́ tôi thấy Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên chỉ trỏ, như đang giải thích ǵ đó. À th́ ra Tư Thàn đă bí mật "phỗng" được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư Thàn làm ăn được tự nhiên.

Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra th́ tôi cũng hơi ghen tức. Tôi th́ đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo ǵ, Tư Thàn cứ tự nhiên, th́ vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với Tư Thàn:

"Mày phản bội em tao. Trả tấm h́nh con Mười lại cho tao. Tưởng mầy đàng hoàng, th́ ra .."

"Tao làm ǵ mà gọi là phản bội?"

"Mầy c̣n giả vờ? Hồi hôm mầy đi đâu? Làm ǵ? Với ai? Có chối được không?"

"Ai nói với mầy?"

"Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm chi?"

Tư Thàn bẽn lẽn móc ví trả tôi tấm h́nh cô gái có hai cái núng đồng tiền. Anh có vẻ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:

"Em gái mày đẹp như thế nầy, th́ chán chi người ḍm kẻ ngó. Tao làm ǵ mà vói thấu. Trả h́nh lại cho mày là phải".

"Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên lắm đó chứ!"

"Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là 'đầu gà đít vịt'. Mầy thấy da em ngăm ngăm không?

Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu, đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau nầy về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nổi. Th́ ra, tôi nhẹ dạ tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.

Từ ngày trả lui cho tôi tấm h́nh cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn không c̣n nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết ḿnh ngu, đ̣i lại tấm h́nh, chẳng ích ǵ, nhưng đă lỡ rồi, tiếc cũng không được.

Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có th́ giờ đi chơi với cô Năm Cháo Trắng. Bởi vậy, sau nầy cô thường múc cho tôi những tô vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô nữa.

Thường thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong. Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi thua, mà thua th́ nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi dắt nhau đi ăn nhậu vui vẻ, ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, th́ hai đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần bị cảnh sát bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị bắt, chạy trốn, cho nên mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi t́m ra một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa nầy được, th́ đứa kia thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào, chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, v́ một trong hai đứa thắng cuộc. Thời trước Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nh́n vóc dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không. Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, th́ c̣n nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều quá, không c̣n muốn trả nữa. Tôi cứ khất măi, và đến tháng lănh lương cũng không trả bớt nợ cho Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái ǵ lấn cấn, t́nh bạn không c̣n như trước nữa. Tôi không dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo ḷng, khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả

Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:

"Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn mà trả chứ?"

Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến răng trả lời:

"Mầy c̣n đ̣i tiền nợ, th́ tao đục cho trào máu."

Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi th́ cũng không hết giận, định đi theo gây sự thêm. V́ một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất t́nh bạn.

Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Ḥa được thành lập tại miền Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ thứ việc, đủ sống qua ngày, nhưng v́ con đông, cho nên khi nào cũng thấy thiếu thốn.

 

Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh sách cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về, chiếc xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi ngồi bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Đầu óc suy nghĩ, tính kế không ra. Tôi định bắt xe đ̣ về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không có xe qua. Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai con trâu. Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:

"Nầy anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với"

Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, th́ anh reo lên:

"Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại thăm?"

Tôi mừng quá, thét lớn:

Tư Thàn! Mày! Đ. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả ? Chiếc xe nó biết có mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mầy."

Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Đủ thứ chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đ́nh mỗi người. Tư Thàn có hai thằng con trai. Đời sống của gia đ́nh thong thả, nhờ cô Năm Cháo Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư Thàn chưa về lại Sài G̣n lần nào, v́ cũng không có chuyện ǵ, mà chẳng c̣n ai để thăm viếng.

Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ bên đường, đến đâu th́ đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư Thàn trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.

Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con gà trống thiến lớn. Làm thịt, bao đất sét, nướng lửa rơm. Tư Thàn đem ra hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ đất sét, để cả con gà lên chơng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn đă rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn chai nầy, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa, chuyện không đầu, không đuôi, chuyện nầy lẫn qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư Thàn đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng cười vang. Khi trời xế chiều, th́ cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng về. Cô nhận ra tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều lần đau điếng. Cô mắng:

"Cái ông khỉ nầy, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tôi ở đây mà ghé chơi? Vui quá xá"

Đêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say. Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề toan tính thanh toán cho ṣng phẳng. Cũng v́ món nợ đó, mà cái t́nh bạn thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn nồng, không c̣n như trước. Tôi chậm răi nói lè nhè trong hơi men:

"Tao bậy quá, c̣n mắc nợ mầy mà chưa có dịp trả . Công việc làm ăn, cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may lắm. Tiền không có dư .."

Tư Thàn cười hiền ḥa, giọng ấm áp nói:

"Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ ǵ? Chuyện cờ bạc thời trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quư rồi."

Có lẽ v́ rượu đă ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí t́nh của bạn, mắt tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Đêm đó, tôi ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm ŕ trong bóng tối cho đến khuya.

Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, th́ thấy chiếc xe chỉ c̣n là một đống sắt cháy nham nhở. Th́ ra đêm qua, du kích đặt ḿn phá, mà ngủ mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe đ̣ về Sài g̣n, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không moi được một xu, th́ tha làm phước. Vả lại thời buổi chiến tranh, không ai dự liệu trước được chuyện bom ḿn.

 

Tháng tư năm 1975 tôi đem gia đ́nh chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu, về đâu, và làm sao mà sinh sống sau nầy. Cứ chạy đă. V́ sợ phải đi tù như một số bạn tôi, họ đă trở về miền Bắc vào năm 1954, và nghe đâu một số đă chết trong tù, một số c̣n bị giam giữ hơn hai mươi năm chưa được thả. Đó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm dưỡng lăo của quận hạt. Hai mươi mấy năm đ̣i sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.

Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một ḿnh, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi đang ở Sài g̣n, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập ṭa nhà đôi chọc trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau đó, xem truyền h́nh, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Ḷng tôi đau nhói, và nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm thiết không thua ǵ quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi chuyến bay đều bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở vể lại Mỹ được, và trong ḷng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam măi, cho hết cuối đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang khách sạn. Từ trên cao nh́n xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ, hơn năm mươi năm trước, nơi đây c̣n lau sậy um tùm, đất thấp ngập nước, hoang vu. Từ bên trong pḥng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn năo nề:

 

Sông kia rày đă nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣ .."

(TRẦN TẾ XƯƠNG)

 

Ḷng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu băi biển đă biến thành nương dâu, bao nhiêu trũng hoang đă trở thành phố thị. Những thế hệ trước tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đă về với ḷng đất. Yên bề. Những người c̣n sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm ǵ. Bỗng tôi chợt nhớ đến Tư Thà. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa trả được, ḷng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời mau sáng, để thuê xe đi t́m thăm Tư Thàn.

Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi t́m Tư Thàn. Anh tài xế nghe tôi nói đi t́m một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đă hơn ba mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già khùng lẩm cẩm.

Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt ḿn hơn ba chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai có biết ai Tư Thàn, nay chừng trên bảy mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi đi lang thang quanh làng, và hy vọng, c̣n có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại đường cái, ngồi trong cái cḥi bán nước bên vệ đường, th́ gặp một bà già. Tôi chận lại hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng bà la lên:

"Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là ai, t́m Tư Thàn có chuyện chi không?"

"Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây giờ, nhớ bạn, ghé t́m thăm."

"Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trổ chứng đi t́m!"

Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, bảy mươi lăm tuổi, c̣n sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần, xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn, đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy g̣, hai má hóp, miệng móm xọm, chỉ c̣n hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái của hàm dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư Thàn cả, có lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:

"Tôi t́m Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là chị Năm Cháo Trắng."

Ông lăo phều phào:

"Ông là ai? T́m tôi có việc ǵ không?"

"Tôi t́m Tư Thàn. Tôi là bạn cũ."

"Ông là bạn cũ của tôi? Chắc ông t́m lầm người rồi."

"Ông biết Cô Năm Cháo Trắng?"

"Vợ tôi, má thằng Độ, thằng Rề."

Bây giờ th́ tôi chắc chắn ông lăo ngồi trước mặt tôi chính là Tư Thàn, không ai khác. Tôi c̣n mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở nào. Bố thằng Độ, Thằng Rề, hai thằng nầy tôi đă gặp hồi xưa. Ngày trước, Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Độ, Rề, Mi, Pha, Xôn, La, Xi, nhưng mới có mới có Độ, Rề, th́ bà vợ tịt ng̣i. Tư Thàn ngồi co một chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên cao, để ḷi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu, nhăn nhúm, nằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá, nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:

"Mầy không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!"

"Không. Ông có lầm tôi với ai khác không? Ông là ai?"

"Thế th́ mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?"

"Tôi, Tư Thàn lính kèn đây."

Tôi làm bộ buồn bă đổi giọng:

"Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng tên chăng?"

"Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn nầy thôi"

Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:

"Đ.M. mầy không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ."

Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca: "Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu, tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về."

Nghe tiếng chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy tôi mà thét lên:

"Đ. M. mầy, chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó chết, thằng dịch vật. Thằng Quài, mầy, Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai ngờ, ai mà nh́n ra."

Đám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và gọi nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo, và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn ngào:

"Mầy c̣n nhớ đến tao, t́m thăm. Đồ dịch vật. Lâu nay mày chết rấp nơi nào?"

Tư Thàn nh́n tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:

"Tóc tai cũng c̣n, răng cỏ hai hàm c̣n nguyên, mặt mày có da có thịt, áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mầy là Việt kiều về thăm quê hương không? Bây giờ mầy ở đâu? Làm ǵ?"

Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối:

"Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài g̣n, nhờ có mấy đứa con vượt biên ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già rồi, về hưu, không làm ǵ nữa cả."

Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đă chết. Thằng Độ đi lính quốc gia, đă đền nợ nước, thằng Rề "hy sinh" cho "cách mạng". Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nh́n cái thân thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm lao động chân tay. Tôi nói:

"Thôi, mầy đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bơ mấy mươi năm xa cách."

Tư Thàn ngự trong căn cḥi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn, không giường, chỉ có cái vơng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu, méo mó. Tôi dỡ nồi ra xem, thấy c̣n có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn, mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không c̣n răng, ăn cách nào đây?

Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế t́m cho một quán ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi, không chịu vào, và nói:

"Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Đừng hoang phí tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng nầy cho chúng chém. Gặp nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ."

Tôi ép măi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên. Tôi uống rượu thay nước, v́ sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.

Đưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật ḿnh, xô gói quà ra về phía tôi:

"Cái ǵ đây? Tiền đâu mà nhiều thế nầy? Tôi không lấy đâu. Đừng bày đặt."

"Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bơ công tao lặn lội đi t́m."

"Không. Nợ nần cái khỉ ǵ. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ dại. Tao đă bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu."

Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói :

"Mầy mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa trả hết nợ, th́ sau nầy phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm. Thương tao, mầy cứ cầm đi. Để mua gạo. Để khi đau yếu có chút thuốc thang. Nếu không có nơi cất, th́ đem gởi bà con. "

Đôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp khóc:

"Đ.M, tao già đến thế nầy, mà mày cũng c̣n định gạt tao như hồi xưa nữa sao? Thằng chó chết. Cái t́nh bạn của mầy, c̣n quư gấp trăm ngàn lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho bà biết cái t́nh bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm."

 

 

Tràm Cà Mau

 

(Trnh Cui Huôn sưu tm và chuyn)

 

website counter