Nguyễn
Khuyến "Nằm
chung với khói mây"
(Trần Mạnh Hảo -
danlambao)
Phải giả
mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn
sống được trong xă hội nhố nhăng nửa
thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới
thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính
thân phận ḿnh: "Mua vui lắm
lúc cười cười gượng / Giả dại nhiều
khi nói nói bông". Ngẫm xưa mà ngán cho hôm nay, thiên hạ
đang phấn khởi nhập bao nhiêu vai tuồng, vai hề
mua vui cho kẻ quyền quư kiếm chút cơm thừa canh cặn,
vẫn không biết liêm sỉ ngượng ngùng, lại cứ
dương dương tự đắc với vai hề
văn nghệ múa may ? ..
Chúng ta từng
chứng kiến việc PGS. Nguyễn Lộc xuyên tạc
văn bản thơ Nguyễn Khuyến trong sách giáo khoa
Văn trung học bằng cách để nhà thơ ngồi
ngắm hoa khô. (Sách giáo khoa văn lớp 10 từng dạy
học sinh cả nước: "Mấy
chùm trước dậu hoa năm ngoái" - Hoa đă nở
từ năm ngoái khô đi và c̣n lại đến bây giờ.
Đây là câu thơ tả thực). Không, Nguyễn Khuyến
ngồi lẫn giữa trăng suông rượu lạt, lẫn
trong hoa tươi, tre trúc, rơm rạ, ao chuôm, lẫn trong
ếch nhái, đom đóm cùng thuyền thúng, lá thu rơi
để trào lộng chua cay thời thế đảo
điên, đoạn rút vào thui thủi, lẳng lặng cô
đơn, cô độc, đêm đêm tự mài hồn ḿnh
thành máu mực đề thơ mà nhớ nước.
Như thể
nước lụt Hà Nam đă hóa giặc Lang Sa cuốn
đi tất cả, chỉ ḿnh ông sót lại cùng vài người
bạn bơ vơ: "Nước
non man mác về đâu tá / Bè bạn lơ thơ sót mấy
người / Đời loạn đi về như hạc
độc / Tuổi già h́nh dáng tựa mây côi" (Cảm hứng).
Có thể nói, Nguyễn Khuyến là bậc đại nho cuối
cùng trăn trở t́m mùa thu ở ẩn, là con hạc thi ca
cuối cùng của thời đại phong kiến Việt
Nam c̣n giữ được cốt cách và tinh thần hạc
vàng Thôi Hiệu, đă một ḿnh lặng lẽ bay qua thế
kỷ thứ XIX buồn đau, u uất, đặng t́m chỗ
đậu trong 9 năm đầu của thế kỷ thứ
XX, rồi đột ngột bay vào hư vô dịp tết
âm lịch đầu năm 1909 khi vừa tṛn 74 tuổi hạc.
Thân phận "hạc độc" của Nguyễn
Khuyến quả là cô đơn đến tột cùng, u uất,
lủi thủi tới tận cùng thi tứ.
Ṿm trời
xưa của hoàng hạc thanh cao, tinh khiết là thế,
nay diều quạ đen trời si sô đến cướp
mất, nên: "Nước non
man mác về đâu tá" và hồn thơ chừng cũng
mất nẻo đi về. Con hạc này bị thời
đại bỏ rơi, tưởng không c̣n một chỗ
đậu trên chính quê hương ḿnh. "Hạc độc"
đành hóa đám "mây côi" mà lơ lửng như chính
hồn thơ Nguyễn Khuyến c̣n lửng lơ bao nỗi
niềm khôn khuây trên ṿm trời văn học Việt Nam thuở
nước nhà bị mất vào tay giặc Tây dương.
Chao ôi,
hơn một trăm năm trước, cả đám mây
trong mắt thi hào cũng phải mồ côi ṿm trời,
như nhà nho mồ côi vua, dân mồ côi nước. Tinh thần "hạc độc" với "mây côi" bàng bạc, xuyên suốt
thời đại và cuộc đời Nguyễn Khuyến,
thành một phần tư tưởng, t́nh cảm thẩm
mỹ của hồn thơ ông.
Những bài
thơ tả cảnh quê hương Việt Nam hay nhất,
đẹp nhất của ông cũng là cốt tả cái
hay, cái đẹp của lẻ loi, cô quạnh, se sẽ
đẹp, trong veo và xa vắng đẹp đến vô
cùng khuất nẻo bơ vơ: "Tiếng
sáo vo ve chiều nước vọng / Chiếc thuyền len
lỏi bóng trăng trôi". Hồn thơ Nguyễn Khuyến
chính là "Tiếng sáo vo ve" bên trời "nước
vọng", là "bóng trăng trôi" dưới ḍng lũ
vô t́nh cuộn xiết, hóa chiếc thuyền thơ cô độc
len lỏi trên thi đàn Việt Nam thuở cơn lụt lội
nhân t́nh thế thái ngập tràn xứ sở.
Ngay trong hai
câu thơ hay đến sững sờ tả cảnh đẹp
hun hút, đẹp rờn rợn nổi gai ốc của
nước lụt Hà Nam này, Nguyễn Khuyến cũng chỉ
cốt mượn nước lụt mà gọi hồn
nước về trong từ "nước vọng"
để: "Sửa sang việc
nước cho yên ổn" .. Tâm thức "nước",
"nước non", "đất nước" ..
có thể nói là tâm thức chủ đạo của Nguyễn
Khuyến trong cả thơ nôm và thơ chữ Hán; tuy ở
đây chúng tôi chỉ mới khảo sát qua thơ nôm của
ông mà thôi.
Trong bài
thơ "Tự trào", Nguyễn Khuyến nói thẳng
ra điều cốt lơi nhất, đau đớn nhất
của ông là nỗi nhục, nỗi đau vong quốc,
thông qua nghĩa đen của cuộc chơi cờ: "Cờ đương giở
cuộc không c̣n nước". V́ "Không c̣n nước"
nên vua cũng không c̣n thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ
là quan phường chèo thôi: "Vua
chèo c̣n chẳng ra ǵ / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề"
(Lời vợ anh phường chèo).
Một vị
túc nho lấy trung quân ái quốc làm đầu, phải tự
t́m nhọ nồi, muội đèn, tro trấu mà bôi trát lên mặt
vua quan thành tṛ hề như thế, với Nguyễn Khuyến
hẳn là nỗi đau lớn nhất trong đờỉ
V́ "Không c̣n nước" nên sau hơn 12 năm làm quan
tới chức Tổng đốc Sơn Tây, lúc vua Tự
Đức mất và vua Hàm Nghi ra chiếu cần
vương chống Pháp, nhà thơ mượn cớ mắt-ḷa
cáo quan về ẩn dật cùng cà thâm dưa khú.
Ông buồn lặng
hóa "mây côi", hóa "hạc độc", hóa thành
"hoa năm ngoái", thành "ngỗng nước
nào", thành con cuốc gọi hồn nước năm
canh, thậm chí hóa thân vào mẹ Mốc, vào gái góa, vào anh giả
mù, giả câm giả điếc, thậm chí giả điên
kiểu Sở cuồng, làm thơ đả kích giặc và
tay sai, như một cách yêu nước kháng Pháp của riêng
ḿnh ..
Nguyễn
Khuyến đau đớn nhận ra hoa nở ngoài giậu
thu cũng không c̣n là hoa hôm nay của ḿnh nữa, ngỗng
kêu trên bầu trời quê hương dĩ nhiên là ngỗng
nước ḿnh, chứ sao lại là ngỗng nước
nào: "Mấy chùm trước
giậu hoa năm ngoái / Một tiếng trên không ngỗng
nước nào"? (Thu vịnh). Khi "Không c̣n nước"
nữa th́ con ngỗng kia cũng thành vong quốc, vong thân,
thành "ngỗng nước nào"thôi. Phải chăng ngỗng
ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của
ḿnh xưa mà không dám nhận, mà phải đau đớn
than là "ngỗng nước nào"? Rằng người
không c̣n giữ được nước th́ bay về làm
ǵ ngỗng ơi ?
Nhà thơ tủi
hổ với cả ngỗng trên trời và hoa dưới
đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao
bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đă mất
th́ trời phỏng c̣n ư, mùa thu phỏng c̣n ư?
Hoa ấy, ngỗng
ấy cũng là Nguyễn Khuyến; như "mây côi"
và "hạc độc" kia c̣n bị vong thân, vong quốc
huống nữa là trời đất, con người!
Chúng tôi cho rằng,
dù viết về phong cảnh mùa thu nông thôn, dù nới rộng
đề tài ra từ bản thân ḿnh đến xă hội,
từ chim hoa, xóm mạc đến nước non .. hồn
thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên một
tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau
đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng
mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ
t́nh, kín đáo mà động vang, cô đơn mà ḥa nhập,
lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm.
Bút pháp nghệ
thuật bậc thầy dùng thuỷ nói hỏa, dùng tĩnh
tả động, dùng dương tả âm, dùng vật tả
tâm, dùng cảnh ngụ t́nh và ngược lại của
Nguyễn Khuyến đă khiến không ít người khi tiếp
cận thi ca ông, mới đụng vỏ ngoài đă tưởng
thấu vào gan ruột; ví như cách dạy văn rất
phi văn học của nền giáo dục phổ thông và
đại học Việt Nam hôm nay hoàn toàn không hiểu nổi
hồn thơ Nguyễn Khuyến. Ví như trường hợp
ba bài thơ thu của thi hào là bài "Thu vịnh",
"Thu điếu", "Thu ẩm" được
coi là dấu hiệu thiên tài của nhà thơ nông thôn đệ
nhất Việt Nam mà có người, ngay cả khi viết
sách giáo khoa cũng chưa 'thẩm' hết hồn thu Nguyễn
Khuyến.
Họ nh́n bằng
mắt thường nên ngỡ mặt ao thu b́nh lặng kia
là đáy nước, nên bảo nhà thơ viết về mùa
thu với tâm trạng thư thái, an nhàn(!) Rằng nhà thơ
uống rượu say nhè như anh Chí Phèo say rượu lè
nhè vậy ..
Không, Nguyễn
Khuyến chỉ hớp một tí rượu trong chén hạt
mít lấy hứng, chứ không say lè nhè như ai hiểu.
Dưới cảnh thu, ngồi nhắp chút rượu thu,
câu cá thu, làm thơ thu, nhà thơ chỉ mượn bề mặt
tĩnh lặng ao thu mà tả sự động vang sôi sục,
quặn thắt, u uẩn, buồn thương nơi thẳm
đáy ḷng ḿnh, đặng gọi hồn nước đă
mất về thương hồn thu hiển hiện.
Nói theo kiểu
Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy
hồn thu đă chết, đă bỏ đi đâu như
hoa kia ngỗng nọ, chỉ c̣n thân xác thu trong veo, cô quạnh,
vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết
trong mùa thu sau khi đă hát rỗng cả ruột gan.
Tả lửa
song Nguyễn Khuyến vẽ khói, tả nước mà nói
thu, tả nỗi thẹn ḿnh, tủi lây sang thu mà phải
mượn tới ông Đào Tiềm đời Tấn. Cũng
có thể gọi ba bài thơ thu của ông là tiếng chiêu hồn thu, chiêu hồn nước. Ngồi thưởng thu không
chút thư nhàn, đau xót quá, cảm thương nước
mất mà sao thu vẫn rưng rưng t́m về, nên nhà
thơ không đừng ḷng được, đành rơm rớm
khóc: "Mắt lăo không vầy
cũng đỏ hoe"? Đừng đổ oan cho
Nguyễn Khuyến "mắt đỏ hoe" v́ say
rượu. Mùa thu trong ba bài thơ đẹp đến lạnh
ngắt, đẹp đến tột cùng cô đơn, u tịch,
phải chăng v́ mùa thu chưa chiêu được hồn
"hoa năm ngoái", chưa gọi được vía
" ngỗng nước nào".. ?
Cám cảnh
thay nỗi "Tựa gối,
ôm cần lâu chẳng được" của nhà
thơ; như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh
của chính hồn ḿnh đang ở đâu đâu trong trời
đất mang mang thiên cổ lụy ? Nguyễn Khuyến
yêu nước lắm, thương ṇi lắm, đau đớn
nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín
t́nh yêu nước vào cảnh thu, ao thu, rượu thu
như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng, ta nghe một
tiếng "Cá đâu đớp
động dưới chân bèo", như nhà thơ ngầm
an ủi ḿnh rằng c̣n cá tức nhiên c̣n nước ..
V́ vậy,
Nguyễn Khuyến rút ruột hóa thân vào hồn Thục
Đế xưa, thành con cuốc gọi hồn nước
nay đến chảy máu cả đêm hè: "Năm canh máu chảy đêm hè vắng / Sáu khắc
hồn tan bóng nguyệt mờ / Có phải tiếc xuân mà
đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm
mơ " (Cuốc kêu cảm hứng). Thương thay
cho "Ngỗng nước nào" vẫn không chịu bay
đi, c̣n kêu xé trời cao trong thảng thốt nỗi niềm
dù mùa thu đă chết. Con ngỗng vong thân, găy cánh, đáp xuống
trang thơ mà hóa thành con cuốc Việt Nam chiêu hồn
nước tới bây giờ. Bài thơ "Cuốc kêu cảm
hứng" thật hay, thật đoạn trường,
đọc xong muốn khóc.
Chúng ta
thương và kính trọng Nguyễn Khuyến vô cùng. Ông
đă nén cả một nhân cách lớn, một hồn
thơ lớn, một tri thức lớn, một nỗi
đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm
thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc
hôm nay. Tinh thần hoài cổ, tinh thần "Hay là nhớ nước vẫn nằm
mơ" len lỏi vào mọi tâm sự, mọi vui buồn,
thương giận, nhớ nhung của nhà thơ. Ngay cả
khi vịnh ông phỗng đá với ngụ ư diễu ḿnh,
nhà thơ vẫn xót xa hỏi: "Non
nước đầy vơi có biết không?" Chính v́
nỗi "non nước" khôn nguôi này làm ông tủi hổ,
làm như lỗi tại ḿnh mà nước mất nhà tan, nên
mượn thơ mà cả thẹn: "Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già / Xuân về
ngày loạn càng lơ láo".
Một
người tài cao, học rộng, thương xót,
nương nhẹ từng cọng cỏ nhành hoa, một
nhân cách lớn, khiêm cung tự tại, lại phải
đưa ḿnh ra mà diễu, mà tự cười cợt,
bông phèng ḿnh th́ hẳn là phải đau đớn lắm,
khổ tâm lắm: "Mở
miệng nói ra gàn bát sách / Mềm môi chén măi tít cung thang / Nghĩ
ḿnh lại gớm cho ḿnh nhỉ" hoặc: "Lúc hứng uống thêm
dăm chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu
thơ". Một người thính nhạy như Nguyễn
Khuyến từng biết nghe bằng hồn, bằng vía,
chán nỗi đời đục mà giữ ḿnh trong, đành
ngụ ḿnh, nương ḿnh làm "Anh giả điếc":
"Trong thiên hạ có anh giả
điếc / Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là
ngây".." Sáng một chốc lâu lâu rồi lại
điếc".
Phải giả
mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn
sống được trong xă hội nhố nhăng nửa
thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới
thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong
chính thân phận ḿnh: "Mua vui
lắm lúc cười cười gượng / Giả dại
nhiều khi nói nói bông". Ngẫm xưa mà ngán cho hôm
nay, thiên hạ đang phấn khởi nhập bao nhiêu vai tuồng,
vai hề mua vui cho kẻ quyền quư kiếm chút cơm thừa
canh cặn, vẫn không biết liêm sỉ ngượng
ngùng, lại cứ dương dương tự đắc
với vai hề văn nghệ múa may ?
Mượn
sự điên dại của "Mẹ Mốc" tỏ
bày tâm sự, Nguyễn Khuyến như tự xé quần áo
tinh thần ḿnh để phơi bày "h́nh hài gấm
vóc" ra mà che mắt thế gian, những mong yên ổn: "Tấm hồng nhan đem bôi
lấm xóa nḥa / Làm thế để cho qua mắt tục".
Mẹ Mốc ấy là tâm hồn vằng vặc muôn sau của
Nguyễn Khuyến, sống trong thế giới của những
"Đĩ cầu Nôm", "Tiến sĩ giấy",
"Hội Tây" .. vẫn không chút bợn nhơ: "Sạch như nước,
trắng như ngà, trong như tuyết / Mảnh
gương trinh vằng vặc quyết không nhơ" ..
Nhà thơ vô
cùng căm ghét bọn cướp nước và bán nước.
Ông dùng tài thơ trào phúng vừa hóm, sâu, vừa cay độc
đến tận cùng mà váy hóa lá cờ tam tài của giặc
trong tiếng cười thâm thúy:
"Ba vuông phất phới cờ bay dọc / Một bức
tung hoành váy xắn ngang". Hóa ra cái váy con đĩ của
thời: "Vợ bợm, chồng
quan, danh phận đó" đă được kéo lên
thành cờ "ba vuông" phất phới, ngang dọc, làm
b́nh phong che mặt tham quan ô lại đục nước
béo c̣.
Nguyễn
Khuyến mang vũ khí trào lộng vạch mặt chúng bằng
tiếng cười cay độc: "Có
tiền việc ấy mà xong nhỉ / Đời trước
làm quan cũng thế a ?"
Phải sống trong thời
"Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc"
làm sao Nguyễn Khuyến không thẹn thùng, tủi hổ,
xót xa cả hồn thơ, đành than trời: "Thử xem trời măi thế
này ư?". T́m mùa thu ẩn ḿnh không yên ổn, núp vào
ḿnh cũng không xong, nhà thơ đôi khi phải trốn vào
giấc mơ mà chơi tṛ đánh bùn sang ao bản thể,
mà lẫn lộn bóng ḿnh với bóng người, lấy
hư làm thực bằng một câu thơ tuyệt hay, rất
hiện đại: "Bóng
người ta nghĩ bóng ta / Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng
người" (Bóng đè cô đầu).
Thơ nôm
Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở
thái, ở h́nh lẫn ở thể, ở hồn chữ dân
gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví
như: "Quyên đă gọi
hè quang quác quác / Gà từng gáy sáng tẻ tè te .. Đôi gót
phong trần vẫn khỏe khoe", "Bán buôn gió chị
với trăng d́" .. Nguyễn Khuyến quả là
thánh chữ khi dùng động từ "thập tḥ"
trong câu thơ thần t́nh sau: "Một
khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm / Xanh xanh như sắp
thập tḥ hoa".
Câu thơ "sắp thập tḥ hoa"
này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn
Khuyến.
Từ
đây, ta có thể thấy thi pháp "thập tḥ hoa" là
thi pháp độc đáo kỳ khu của thơ ông: thập
tḥ giữa t́nh và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu,
cảm và thức, thập tḥ giữa thực và hư .. kiểu
"hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào"
.. Nguyễn Khuyến mượn cảnh đẹp nông
thôn mà yêu nước Việt, một t́nh yêu buồn
thương u uất được thể hiện bằng
nghệ thuật trữ t́nh trào phúng của thơ bậc
thầy. Ông chính là ngọn Đọi Sơn của thi ca Việt
Nam, nơi nhà thơ từng viết: "Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá / Sư cụ
nằm chung với khói mây".
Không, chính là
hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói
mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp
nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ
thứ hơn trăm của Nguyễn Khuyến, cũng là
dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của
thi hào mà giật ḿnh trước tấm ḷng trắc ẩn
và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đă có
nhă ư mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu
hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh:"Ngọn gió không nhường
tóc bạc a ?".
Vâng, ngọn
gió thời gian, ngọn gió của quy luật muôn đời
không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn
Khuyến đă đành; mà kể cả thời đại
chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả. Dù là
tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi chăng nữa
gió cũng chẳng nhường đâu; huống ǵ những
nhí nhố thời cuộc đang băm bổ hô hét muôn
năm rồi cũng bị cuốn theo chiều gió, sẽ
tan biến đi như chưa hề tồn tại ..
Trần Mạnh Hảo
danlambaovn.blogspot.com
(Minh
Do sưu tầm và
chuyển)