Phép lạ Leslie Lemke !
(NGUYỄN ĐÔNG-KHÊ)
Ngày này
sang ngày nọ, tháng này sang tháng
khác, năm này qua năm kia, bà May Lemke,
lúc bấy giờ 52 tuổi, là người
đang nuôi dưỡng 5 người con của
mình, đã lãnh nhận việc chăm
sóc đứa trẻ bị bỏ rơi, đã
trò chuyện, đã hát cho em nghe, khích lệ
và yêu thương em, đã cố gắng gần
như tuyệt vọng để xuyên qua bức tường
câm điếc và bất động. Tận dụng
hết cách, hết sức, rồi bà quay sang cầu
nguyện. Và rồi … phép lạ đã xảy
ra.
Ngày hôm ấy,
bệnh viện Quận hạt Milwaukee đã phải
đối diện với vấn đề nan giải: một
hài nhi 6 tháng tuổi tên là Leslie, trì
độn tâm trí, không mắt, liệt
não bộ, mang đời sống thực vật,
hoàn toàn không phản ứng với âm
thanh và xúc giác. Cha mẹ em đã bỏ
rơi em. Nhân viên trong bệnh viện không biết
phải hành xử ra sao, mãi tới khi một
bác sĩ chuyên khoa nhi đồng đã đề
cập đến May Lemke, một nữ y tá đang sống
gần nhà thương. Cô nhân viên gọi
điện thoại cho May để nói về
tình huống của Leslie, và cô nghĩ
có phần chắc cậu bé bị bỏ rơi
chỉ kéo dài cuộc sống trong một thời
gian ngắn nữa mà thôi. Cô ta hỏi người
bên kia đầu dây: “Bà có thể
giúp chúng tôi chăm sóc cậu bé
đang khi cậu còn sống được
không?”. Bà May khẳng khái đáp:
“Tôi nhận lời. Nếu tôi chăm sóc
em bé, chắc chắn em sẽ không chết.”
Vào lúc ấy, các cô y tá trong bệnh
viện không hề đề cập đến chuyện
ngân quỹ bệnh viện của quận hạt
không thể cung cấp tiền cho việc chăm
sóc trẻ sơ sinh, và giả như có
yêu cầu thì phần chắc là sẽ
không bao giờ được họ chấp thuận.
Bà May và
người chồng thứ hai là ông Joe, sống
trong một căn nhà nhỏ gần đó
bên bờ hồ Pewaukee. Là một cô dâu
đến từ Anh sau Thế chiến thứ nhất,
bà có 5 người con đã trưởng
thành. Người chồng đầu tiên qua đời
vào năm 1943, và 5 năm sau, bà tái
hôn với Joe Lemke, một công nhân xây dựng
lành nghề.
Khi chấp nhận
nuôi Leslie, bà chấp nhận em như một em
bé - không khác với những em bé
khác, cần được nuôi dưỡng
và cần được yêu thương.
Khi cho em bú sữa
bình lần đầu tiên, bà nhận ra Leslie
thiếu phản xạ mút, là phản ứng tự
phát nơi hầu hết các trẻ sơ sinh. Hiển
nhiên, em đã được nuôi bằng một
ống dẫn sữa xuống dạ dày tại bệnh
viện. Để tập cho em mút, bà đặt
núm vú bình sữa giữa đôi môi
của em, rồi đặt một núm vú
khác giữa đôi môi của mình,
áp sát vào má Leslie, bà mút
núm vú đang lúc má của bà cọ
sát với má của em, tạo ra âm thanh
mút núm vú. Leslie đã nắm bắt
được bài học này.
Đang lúc
chăm sóc em, bà May thường hát những
bài hát mà mình được nghe đi
nghe lại từ thời thơ ấu. Bà đã
thay đổi một vài từ để phù hợp
với trường hợp của Leslie:
Từ
trời cao rớt xuống một em bé,
Một
em bé không có mắt
Một
em bé luôn nằm nghỉ
Một
em bé mà Thượng đế biết rõ nhất.”
Bà tắm cho
em, ôm em hàng giờ, trò chuyện với em,
hát cho em nghe. Vậy mà em bé không hề cử
động, miệng không thốt ra một âm
thanh.
Năm này sang
năm nọ, bà May kiên trì chăm sóc
Leslie, nhưng em vẫn bất động. Không cười,
không nước mắt, không cả âm thanh. Nếu
như bà May không cẩn thận cột Leslie
vào lưng ghế, em sẽ bị té nhào xuống
đất ngay.
Dù vậy mặc
lòng, bà May không bao giờ ngưng trò chuyện
với Leslie. Bà mát-xa lưng, chân, cánh
tay, và ngón tay. Bà tiếp tục cầu nguyện,
và đang khi cầu nguyện, đôi khi bà
khóc, bà đặt bàn tay của Leslie nơi
má mình để em có thể cảm nhận
được nước mắt. "Ngay lúc
này mẹ cảm thấy buồn, và mẹ
đang khóc" Bà nói với Leslie.
Bà May
không hề coi Leslie như là một gánh nặng.
Bà tự nói với chính mình.
“Tôi đã không đi tìm Leslie, hẳn
phải có một lý do tại sao tôi lại
được chọn để nuôi dưỡng cậu
bé này. Sẽ có một lúc nào
đó theo thời gian, Thiên Chúa sẽ cho
tôi biết được lý do tại sao.”
Bà May
không bao giờ thích đem Leslie ra nơi công cộng.
Em là con trai của bà, và bà dành
tình thương cho em. Bà cảm nghiệm nhờ
trực giác: nơi sâu thẳm của não bộ
bị hư hỏng, Leslie đang nỗ lực làm việc,
và bà rất tự hào về em. Một lần
trên một chuyến xe buýt, có một phụ
nữ đã nhìn thấy bà May đang ôm
Leslie trong vòng tay, đã nói chuyện với
cậu bé nhiều lần, mà không được
đáp ứng. Bà ấy lên tiếng nói:
"Tại sao bà không đưa con bà
vào một cơ sở nào đó? Bà
đang lãng phí cuộc đời mình."
Bà May trả
lời ngay: "Bà mới là người đang
lãng phí cuộc đời của bà. Loại
trẻ này được mang đến bên ta do
lòng tử tế và tình thương,
không chỉ trong một giờ, một tháng hoặc
một năm. Lòng tử tế và tình
thương tồn tại lâu dài."
Mùa Hè
đến, ông Joe chồng bà May đã mất
nhiều giờ ở trong hồ tắm, đong đưa
ôm cậu bé, hy vọng rằng các tác động
tay chân của ông sẽ truyền cảm hứng
cho Leslie để cậu bé có thể tự
mình cử động chân tay, nhưng Leslie
đã không hề phản ứng.
Cho đến
mùa Thu, bà May đem Leslie đến trung tâm phục
hồi chức năng ở Milwaukee . Nơi đây,
không một ai nghĩ có thể làm được
gì để cải thiện tình trạng của
cậu bé, và họ cũng không có một
lời khuyến khích nào dành cho bà May.
Tinh thần bi quan
của các chuyên viên tại trung tâm phục
hồi đã không ngăn cản được
quyết tâm của bà May. Bà biết rằng
một ngày nào đó Leslie sẽ thoát ra
khỏi nhà tù của chính mình. Bà cần
phải giúp em. Bà cố gắng nghĩ cách
làm thế nào để đem khái niệm
“đi bộ” vào tâm trí em. Leslie
đã chưa hề thực hiện động
tác đi hay bò. Em chưa bao giờ nhìn thấy
bất cứ ai đi bộ. Bà nhờ ông Joe chồng
bà, là bạn đường hỗ trợ
bà tối đa, làm cho bà một vành
đai thắt lưng da rộng để đeo trên
hông, có kèm theo các vòng nhỏ ở
mỗi bên. Đang khi cất bước đi bộ,
bà cài tay của Leslie vào vòng nhỏ
bên hông, hy vọng em sẽ tiếp nhận
được sự chuyển động đi bộ. Vậy
mà Leslie vẫn bất động và được
đeo lơ lửng phía sau lưng bà.
Kế đến,
gia đình bà đã dựng một hàng
rào mắt xích dọc theo phần đất của
họ. Bà May giúp Leslie đứng bên cạnh
hàng rào, đặt ngón tay của em qua
các lỗ mắt xích của hàng rào. Sau
vài tuần lễ, cuối cùng thì Leslie
đã có ý tưởng để cho
hàng rào hỗ trợ em. Em đứng lên
được, lúc đó em được 16 tuổi.
Rồi để
giúp em di chuyển dọc theo hàng rào. Bà
May không ngừng trò chuyện với em, khuyến
khích em. "Nào, con cưng ơi, chỉ bước
đi một chút, một chút thôi."
Bà lặp đi lặp lại hàng trăm lần,
chính bà di chuyển tay, chân của em. Cuối
cùng, em cũng đã tự mình làm
được.
Khi em làm
được rồi, bà cố gắng tìm
cách dỗ dành em buông tay ra khỏi mắt
lưới hàng rào, bà gọi: "Đến
với mẹ đi con, cưng ơi, đến với mẹ."
Sau nhiều tháng trời, Leslie học được
cách chập chững lê chân đi bước
một, rồi tới lúc được hai ba bước.
Chiến tranh cân não thật khốc liệt
không ngừng nghỉ, mặc dù bà May
không hề nghĩ đó là một cuộc
chiến! Bà chỉ đơn giản nghĩ bà
phải phấn đấu để giúp cho con trai
mình. Bà biết bà cần được sự
trợ giúp từ trời cao trong nỗ lực
này. Bà cầu nguyện, liên lỉ cầu
nguyện xin Chúa giúp Leslie, xin Chúa làm
điều gì đó cho Leslie. Chàng trai Leslie
lên 18 tuổi, mà chỉ như là một em
bé. Có lần bà May giận lẫy với
Chúa: “Kinh thánh nói đến những
phép lạ, thì xin Chúa làm một
phép lạ cho đứa bé này đi.”
Một ngày
kia, bà May để ý nhìn thấy ngón
tay trỏ của Leslie cử động trên sợi
giây quấn quanh một gói hàng, như thể
búng ngón tay trên đó. Bà tự hỏi:
Liệu đó có phải là một dấu hiệu?
Nó có ý nghĩa gì? Rồi bà tự
xác nhận: Âm nhạc, đúng là âm
nhạc. Từ ngày đó trở đi, ngôi
nhà của vợ chồng Lemke tràn ngập tiếng
nhạc phát ra từ dĩa hát, từ
đài phát thanh, từ đài truyền
hình. Giờ nọ qua giờ kia, ngày này qua
ngày khác, vậy mà Leslie vẫn không tỏ
ra một dấu hiệu nào cho thấy anh đang nghe
nhạc. Bà May và ông Joe tìm mua được
một dương cầm cũ với giá $250.
Ngày lại ngày, bà May làm đi làm
lại động tác đặt ngón tay của
Leslie lên trên phím đàn, tạo ra âm
thanh. Anh ta vẫn hoàn toàn dửng dưng.
Cho đến
mùa Đông năm 1971, bà May giật mình
thức giấc bởi tiếng đàn vào
lúc 3 giờ sáng. Một ai đó đang
chơi tấu khúc “Dương cầm Concerto No.
1” của Tchaikovsky. Bà đánh thức Joe, hỏi:
“Có phải ông quên chưa tắt
Radio?” Ông trả lời: “Đâu
có” Bà hỏi: “Vậy tiếng
đàn dương cầm từ đâu?”
Bà ngồi dậy bước ra khỏi phòng ngủ,
bật đèn phòng khách lên. Qua ánh
sáng lờ mờ hắt vào phòng Leslie,
bà nhìn thấy anh đang ngồi tại chiếc
đàn dương cầm, bà cũng thấy
được nụ cười rạng rỡ trên
gương mặt Leslie. Một đột biến
không ngờ! Trước đó, anh chưa hề
tự mình ra khỏi giường ngủ, chưa hề
tự mình ngồi tại đàn dương cầm,
chưa hề tự mình xử dụng ngón tay
trên phím đàn, vậy mà Leslie đang
chơi một tấu khúc, khéo léo và
đầy tự tin.
Bà May quỳ
sụp xuống cảm tạ Chúa: Chúa ơi,
Ngài đã không quên Leslie. Điều
đó cho thấy trước đây Leslie
đã ghi nhận tiếng nhạc, lắng nghe hết
sức chăm chú, tới mức bộ nhớ trong
đầu của Leslie lưu trữ được từng
dòng nhạc nghe qua thính giác, tựa như một
máy điện toán. Không ai giải thích
được làm thế nào mà tiếng nhạc
tuôn trào ra khỏi Leslie vào buổi sáng
mùa Đông ấy. Vậy mà chuyện
đó đã xảy ra, như một cơn lốc
xoáy.
Âm nhạc
đã mở rộng cửa ngõ cho cảm
xúc và sự phát triển, nên sau
đó có lần bà May nghe Leslie phát
âm được một từ ngữ. Thế rồi
vào một buổi chiều, có một số trẻ
em chơi đùa phía bên kia hàng rào mắt
xích, bà May lên tiếng hỏi các em
đang làm gì. Một em đã trả lời,
"Chúng cháu đang vui." Còn Leslie
thì bước được vài bước dọc
theo hàng rào, bỗng lên tiếng nói
"Tôi đang vui!" Anh nói bằng một giọng
dày đặc nhưng có thể hiểu
được. Đó là câu nói trọn
vẹn đầu tiên của anh. Bà May sửng sốt
ôm choàng lấy anh, vô cùng xúc động.
Một vài
tháng sau đó, nơi phòng khách gia
đình, đã xảy ra chuyện Leslie tự
dưng phát run lên, và rồi nước mắt
lăn trên má, "Con khóc!", anh nức nở,
"Con khóc!" Anh đã không bao giờ
khóc trước đó và bây giờ anh
đã khóc được, giống như bà
May đã dạy cho anh cảm nhận về nước
mắt trước đây. Bà yên lặng
nhìn anh khóc sướt mướt trong vòng
20 phút. Bà nhận biết đây là một
ơn phước vì giờ đây anh đã
có thể bày tỏ sự đau đớn hay nỗi
sợ hãi đã bị khóa kín trong anh. Một
chuyển biến tuyệt vời đối với
bà. Leslie cũng còn học được
cách cảm nhận theo cung cách riêng của
mình xuyên qua các căn phòng trong nhà.
Bà May và ông Joe dạy anh sử dụng
nhà vệ sinh. Dạy anh đánh răng, và dạy
anh tắm một mình.
Đang khi
đó, kỹ năng về dương cầm của
Leslie đều đặn gia tăng, anh bắt đầu
ngồi suốt ngày bên cây đàn
dương cầm. Anh chơi nhạc cổ điển,
nhạc đồng quê, nhạc đạo và ngay
cả nhạc rock. Thật là kinh ngạc! Tất cả
những bản nhạc mà bà May mở cho Leslie
nghe, đều được ghi nhận trong óc của
anh, và nay được dịp tuôn ra từ
các ngón tay đặt trên phím
dương cầm.
Năm Leslie
được 21 tuổi, anh bắt đầu nói
chuyện, có thể đặt câu hỏi và
đưa ra những câu trả lời giản dị
khi đối thoại. Bà May khuyến khích
tài năng đàn dương cầm của Leslie
trước công chúng vì bà nghĩ nhờ
sự đóng góp âm nhạc của Leslie, sẽ
tạo được nơi anh cảm giác tham gia sinh
hoạt xã hội, và thiên hạ cũng học
được rất nhiều từ một con người
được hòa nhập vào thế giới con
người, từ một tình trạng được
cho là hoàn toàn vô vọng và thật
tuyệt vọng. Leslie thường xuyên góp mặt
tại các buổi hòa nhạc ở Fond du Lac ,
Wisconsin . Danh tiếng của Leslie vang xa nên khiến cho
nhiều đài truyền hình trên toàn quốc
đã mời Leslie đến trình diễn,
như “Man Alive” của CBC, “Evening News”,
“60 Minutes” và “That’s Incredible” của
CBS.
Năm 1983, ABC cũng
đã phát hình câu chuyện về Leslie
Và Người Mẹ Nuôi mang tựa đề
“The Women Who Willed A Miracle”. Leslie đã lên
đường lưu diễn trong nước Mỹ, tại
nhiều quốc gia, Scandinavia và Nhật Bản, cũng
thực hiện nhiều buổi hòa nhạc miễn
phí vào các dịp lễ hội khác nhau.
Leslie yêu thích trình diễn. Đôi khi anh nổi
hứng cất tiếng hát đang lúc ngồi chờ
chuyến bay tại phi trường. Lúc mới nghe anh
hát vài nốt nhạc đầu tiên thì
thiên hạ giật mình, nhưng khi anh kết
thúc bài hát, thì mọi người đều
vỗ tay tán thưởng.
Cho dù các
ngón tay của Leslie điêu luyện trên
phím đàn, thì vẫn còn rất nhiều
hạn chế cho Leslie lúc phải cầm dao hay nĩa
khi dùng bữa. Cũng như việc đối thoại
với Leslie thì diễn tiến không được
trơn tru. Khi được hỏi âm nhạc có
ý nghĩa gì đối với anh, Leslie
đã trả lời chắc nịch: “Âm nhạc
… là tình yêu!”.
Lời
bàn:
Tình yêu
đã hình thành phép lạ Leslie Lemke, biến
cái “không thể” thành “có thể”.
Con người thời đại mới với tâm thức
hưởng thụ mọi tiện nghi vật chất, quen
lối sống tốc độ, muốn nhìn thấy
mọi thành quả tựa như mì ăn liền,
như cái nhấn của con chuột trên bộ
máy điện toán, thì không thể hiểu
nổi tại sao bà May Lemke đang sống an nhàn
với chồng và 5 người con, lại còn muốn
gánh vác số phận đau thương của
cậu bé Leslie? Phải mất 16 năm mới dạy
cho một đứa con nuôi có đời sống
vô sinh tật nguyền từ 6 tháng tuổi mới
tự đứng lên được, cũng như phải
mất 21 năm mới có thể giúp cho Leslie
phát âm được, thì bà May Lemke phải
có trái tim của một bồ tát, phải
có một niềm tin vô cùng sâu sắc,
thì mới có thể gầy dựng nên một
thiên tài, một nhân tính bị vất bỏ,
từ trái tim bé nhỏ của mình.
Vị bồ
tát của chúng ta: May Lemke đã qua đời
vào ngày 6-11-1993 vì căn bệnh lú lẫn
Alzheimer, nhưng gương sáng của bà
đã và sẽ còn là nguồn hứng
khởi trong cõi nhân sinh.
Nguyễn Đông-Khê
(Nhã Khanh sưu tầm
và chuyển)