Tháng 4 năm 1981 tôi bước
chân xuống phi trường Los Angeles, California trong bỡ
ngỡ của một "dân dă quê mùa" lần đầu
tiên đặt chân đến thành phố sầm uất nổi
tiếng của Hoa Kỳ. Đang long ngóng th́ có tiếng reo
"A! đây rồi ..". Một người đàn ông
ăn bận giản dị, chân đi dép và mái tóc hoa râm
đến bên tôi "Phải An không?".
Tôi nhận ra nhạc sĩ Phạm
Duy, ông dẫn tôi đến bên chiếc xe Buick cũ đời
1977 màu cam nhạt, cất hành lư vào khoang xe và trực chỉ
về nhà ông ở Midway City, Quận Cam Cali.
Trên đường đi từ
Los Angeles đến Midway City vào khoảng gần 1 tiếng
lái xe, ông hỏi thăm tôi về cuộc sống mới
đến Mỹ ra sao, và một vài chi tiết thân thế
long đong của tôi. Quen biết ông qua sự giới thiệu
của cựu dân biểu VNCH Nguyễn Văn Cội, và khi
tôi gửi đến ông 10 ca khúc để nhờ ông giúp thực
hiện một băng nhạc Cassettes. Những bài nhạc
tôi viết từ trại tỵ nạn Hồng Kông cho
đến khi qua định cư ở Kenosha, Wisconsin Hoa Kỳ
vào tháng 10 năm 1980. Trong đó có những bài như Đêm
Chôn Dầu Vượt Biển, Tâm Động Ca, Như Những
Lời Ca Thép, Trại Tù Chữ S, Sẽ Có Sáng Mai Này,
Như Một Lời Thề Nguyền ..
Khi nhận được 10
bài nhạc, ông đă nhanh chóng hồi âm sau hai tuần lễ
và một cuộc nói chuyện với ông dẫn tôi đến
Los Angeles, mà tôi đâu biết đă bắt đầu
đưa tôi bước chân vào giới nghệ thuật.
Qua thư trao đổi, ông khen nhạc tôi có nét lạ của
một người vừa vượt thoát từ Việt
Nam sau 5 năm dưới chế độ cộng sản,
và ông nhận lời đứng ra làm Producer, nghĩa là nhà
thực hiện và sản xuất cho băng nhạc đầu
tay trong đời sáng tác của tôi.
Bước chân vào căn nhà
xinh xắn ở Midway City, tôi được chào đón bởi
bà Thái Hằng, phu nhân của ông với một nụ cười
hiền hậu, bà vui vẻ, dễ thương ân cần hỏi
han và chỉ tay trên vách pḥng ăn một bức h́nh tôi ở
đấy. Ngạc nhiên th́ bà bảo là"bác trai dán h́nh cháu để nhận
diện đi đón cho dễ, mấy em ở nhà cứ th́
thầm với bác là, có lẽ đây là con rơi hay sao mà bố
lo lắng ân cần quá!". Mà cũng dễ nghi lắm, v́
khuôn mặt tôi và Duy Minh có phần giống nhau lắm. Tôi
cười và cảm thấy gần gũi ngay với không
khí gia đ́nh ông bà Phạm Duy. Đến chiều Duy Quang
đi làm về, lịch thiệp trong quần Jean và áo
sơ mi trắng, nụ cười hiền hậu, Duy
Quang thiện cảm chào tôi. Chúng tôi bắt tay nhau và Quang hỏi
đă ăn uống ǵ chưa rồi không đợi tôi trả
lời anh đưa tôi ra xe bảo là đi uống cà phê và
thăm phố Bolsa cho biết cộng đồng ḿnh. Mặc
cho bà Thái Hằng căn dặn là chiều về ăn
cơm cả nhà.
Đó là những kỷ niệm
đầu tiên của tôi với gia đ́nh nhạc sĩ Phạm
Duy mà tôi c̣n nhớ.Đến
chiều về, cả nhà đông đủ, lần đầu
tiên tôi dự bữa cơm gia đ́nh gồm có ông bà Phạm
Duy và các con Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo,
Đức, Hạnh, 10 người ăn và thêm một miệng
mới nữa là tôi. Bữa cơm rất ngon v́ vui, và từ
lâu tôi chưa hề có cái không khí gia đ́nh, thân mật, ấm
cúng.
Là một gia đ́nh nghệ sĩ,
các con của nhạc sĩ Phạm Duy nói chuyện thoải
mái, đùa cợt với bố mẹ, nhưng vẫn có sự
kính phục. Đây là một gia đ́nh Bắc Kỳ chính
hiệu có truyền thống và nề nếp. Cho dù 4 chàng
con trai (Quang, Minh, Hùng, Cường) và 2 cô con gái (Hiền, Thảo)
đă trưởng thành, nhưng vẫn ở chung với bố
mẹ. Nhà nhỏ, nhưng ngăn chia nhiều pḥng, có pḥng
th́ hai người, chỉ riêng Duy Quang có riêng một pḥng lớn
là cái gara để xe trưng dụng thành pḥng ngủ, và
Duy Cường có một pḥng riêng v́ bận làm hoà âm cho nhạc.
Ngoài công việc đi làm thường ngày, nhạc sĩ Phạm
Duy và các con vẫn dựng lại ban nhạc The Dreamer và mỗi
cuối tuần chơi nhạc tối thứ sáu, thứ bảy
tại vũ trường ở Quận Cam thời bấy
giờ.
Tôi ngụ lại nhà nhạc sĩ
Phạm Duy suốt thời gian hai tuần lễ thực hiện
thu âm cho dĩa nhạc, phải nói là ông rất chu đáo về
tổ chức, ngày nào thu thanh ai hát, xem lại bài nhạc,
xem lại hoà âm, và cuối cùng, trong tay chúng tôi có dĩa
master nhạc Châu Đ́nh An, và thời bấy giờ Master
băng rất to, đến hai dĩa băng nhựa nặng
tay.
Nhạc sĩ Phạm Duy liên lạc
với hoạ sĩ Hồ Đắc Ngọc vẽ cho tôi
cái b́a băng Cassettes, chở tôi đến nhà in AnNam của
ông Lê Ngọc Ngoạn để xem giá cả và ấn loát,
những buổi đi làm việc như thế chỉ có
ông và tôi trên chiếc xe cũ của ông băng qua những
con đường trong sương mù buổi sáng, và trong xe
th́ luôn phát ra các ca khúc mới toanh của tôi. Bạn tưởng
tượng xem, tôi hạnh phúc và ngây ngất như thế
nào bên một nhạc sĩ lừng lẫy nghe nhạc của
tôi mới ra ḷ.
Ông c̣n thủ bút viết cho tôi
những lời sau: "Nhạc Châu
Đ́nh An v́ có nội dung rất tích cực, hy vọng sẽ
là người đại diện cho những ai vừa
vượt thoát từ Trại Tù Chữ S, sẽ có ngày trở
về dựng cờ Quốc Gia trên đất nước
thân yêu". Kư tên Phạm Duy
Ông không ngần ngại khen ngợi
nhạc tôi viết hay, và ca khúc của tôi nhan đề Tâm
Động Ca do Thái Hiền tŕnh bày đă làm ông xúc động
rưng rưng khoé mắt, lời bài hát tôi viết sau 5
năm tả tơi trong chế độ mới từ
1975 đến 1980:
Khóc
cho người ở lại Việt Nam
Một
tiếng khóc thương cho đồng loại
Một
tiếng khóc thương em khờ dại
Một
tiếng khóc nhăn nheo mẹ già
Có
tổ quốc, mà không có quê hương
Có
đồng bào mà sao xa lạ
Có
Việt Nam mà tôi mất đâu rồi
Có
gịng sông mà con nước khô cạn
Có
t́nh yêu mà không có bè bạn
Đứng
bên này bờ biển đại dương
Nh́n
chẳng thấy quê hương chỗ nào
Nh́n
chỉ thấy thêm thương đồng bào
Lời
tổ quốc trong tim dạt dào
Và
nghe tiếng trong tôi th́ thào
Giọt
nước mắt lưu vong chợt trào
Tạm biệt
Tổ quốc
thương yêu ..
Của tôi
(CDA 1980)
Ông xúc động và chắt
lưỡi thốt lên "hay lắm!" không những v́
gịng nhạc tôi mà c̣n v́ giọng con gái ông là Thái Hiền cao
vút kết thúc câu tạm biệt tổ quốc
thương yêu của tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn
c̣n nhớ một h́nh ảnh của nhạc sĩ Phạm
Duy ngồi sau tay lái chiếc xe và nỗi rung động thiết
tha với quê hương đang đau khổ. Cứ thế,
hằng ngày, những câu chuyện ông kể, từ đời
sống âm nhạc của ông, lộ tŕnh vượt thoát
đến Mỹ, và đến nỗi đau đớn
dày ṿ suốt bao năm tháng dài khi 4 người con trai c̣n kẹt
lại quê hương. Ông cũng kể là cả hai ông bà in
roneo, loại giấy copy để đóng thành tập nhạc
dạy đàn guitar do Phạm Duy biên soạn để bán
kiếm tiền sinh sống, và nhận lời đi hát dạo
cho cộng đồng người Việt phôi thai h́nh
thành. Ban nhạc gia đ́nh với Phạm Duy, Thái Hằng,
Thái Hiền, và Thái Thảo, ông luôn nghĩ là ḿnh không lúc nào
quên được cách để kiếm tiền, hầu
có phương tiện t́m cách cứu thoát Quang, Minh, Hùng,
Cường c̣n lại quê nhà. Bà Thái Hằng c̣n cho tôi biết,
những ngày bận rộn sinh kế th́ thôi, c̣n khi về
đến nhà, là ông Phạm Duy nằm dài ra thừ người,
đau đớn, ray rứt với 4 người con trai mà
ông đang suy tính t́m đủ cách để đoàn tụ.
Ở đây tôi muốn nói
đến t́nh yêu con quá sức nơi nhạc sĩ Phạm
Duy,
cả nhà 10 miệng ăn, và từ khi c̣n ở Việt Nam
qua đến Mỹ, nhất nhất do bàn tay của ông làm
ra, từ viết nhạc, viết bài và làm những việc
liên quan đến âm nhạc để nuôi sống gia
đ́nh. Các con của ông dựa vào ông, chỉ
v́ yêu quá, săn sóc và lo lắng thái quá, do vậy đă dẫn
đến t́nh trạng sau này, là ông đánh đổi tất
cả sự nghiệp âm nhạc tiếng tăm, để
chọn một lối thoát kinh tế cho các con khi về
sinh hoạt trong một nước Việt Nam do cộng sản
cai trị.
Đây là một sự thực
mà ít ai hiểu được.
Trong email với nhà báo Hoàng Lan
Chi, khi chị đề cập về thái độ và lời
nói của ông trong các cuộc phỏng vấn của báo chí "lề
phải" trong nước, đă dấy lên sự phản
ứng bất b́nh của cộng đồng hải ngoại,
về những bức ảnh ông cầm tấm thẻ "chứng
minh nhân dân", "chứng minh hộ khẩu", tôi
đă tŕnh bày cho chị về những điều tôi biết
với nhà báo Hoàng Lan Chi - một người quen biết với
gia đ́nh ông.
Chế độ Việt Cộng
và nhạc sĩ Phạm Duy chơi "game" với nhau,
cả hai lợi dụng nhau, và cả hai đều có
đường tính toán khác nhau. Chắc chắn một
điều là Phạm Duy không thể nào theo cái gọi là chủ
nghĩa cộng sản, và ông đă nhận ra chế độ
hiện nay ở Việt Nam, không c̣n thứ cộng sản
của thời Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, mà là cái vỏ bọc
cộng sản che chắn cho cái thực chất là chế
độ tư bản đỏ, độc tài toàn trị
và cái ruột chính vẫn là mô h́nh tư bản kinh tế,
hay rơ hơn là tham nhũng, bán tài sản quốc gia làm giàu
cho các lănh tụ và phe cánh. Ông Phạm Duy chọn một lối
đi như tôi đă nói ở phần trên là, lối đi
kinh tế cho các con của ông sau này, mà nh́n phiến diện
đó là sự thỏa hiệp dễ nhạy cảm phát
sinh ra sự chê trách, chống đối từ phía cộng
đồng người Việt quốc gia, cái nôi đă cho
ông hít thở, phát triển gần như toàn diện sự
nghiệp âm nhạc của ông. Do vậy, người ta giận
dữ cũng chỉ v́ tiếc cho ông, một tài năng, một
biểu tượng văn hoá c̣n sót lại của Việt
Nam Cộng Hoà.
Tôi đoan chắc là chỉ v́
quá yêu thương các con, ông đă chọn về Việt
Nam trong chế độ độc tài hiện hữu
để có ba việc:
Thứ
nhất:
Cái chết của vợ là bà Thái Hằng đă làm ông hụt
hẫng năm 1999, dù ai nói ra sao về cuộc đời
t́nh ái phiêu lưu thêu dệt của người nhạc sĩ,
nhưng, có lần ông cho tôi nghe ca khúc "Nắng Chiều
Rực Rỡ" mà ông bảo là viết riêng cho bà, v́ cả
ngàn ca khúc của ông chưa có bài nào viết cho bà. Trong
đó có câu "thế kỷ này, đang trong nắng ban chiều.
Cho ḷng ḿnh bâng khuâng nhớ nhau". Ông bắt đầu cô
độc thực sự sau ngày bà ra đi.
Thứ
hai:
Người già cô độc, và đơn chiếc, dễ
tủi thân mủi ḷng, nếu ông mất sớm vào khoảng
70 tuổi th́ thôi không có chuyện nói đến, và bây giờ
Phạm Duy vẫn là thần tượng, nhưng ông sống
đến trên 80 tuổi mà quê hương với ngày về
thực sự vẫn xa vời vợi, chế độ cộng
sản chưa sụp đổ như bao người trông
chờ, không biết đến bao giờ quay trở lại
cố hương. Ông mất sự kiên nhẫn, ông muốn
về một lần rồi nhắm mắt xuôi tay ở
cái quê hương khốn khổ đă cho ông nếm trải
nhục vinh rồi ra sao th́ ra.
Thứ
ba:
Sau hết là cuộc sống các con, khi ông chết rồi
con ḿnh sẽ ra sao, chẳng ai có nghề nghiệp cố
định, chẳng ai có bằng cấp ǵ cả, chỉ
hoàn toàn sống bằng âm nhạc của chính ông dạy dỗ,
tạo dựng. Và môi trường hải ngoại th́ không
đủ điều kiện để các con sinh sống,
làm thầy th́ không được, làm thợ th́ khó, do vậy,
ông lợi dụng chính sách gọi là "nghị quyết
36" hoà giải dân tộc để trở về, mở
đường máu tồn tại và nuôi sống "âm nhạc
của ông và các con", bất chấp sự phản đối,
bất chấp, ông biết là người ta sẽ thất
vọng v́ sự sụp đổ h́nh ảnh thần
tượng nghệ sĩ quốc gia nơi ông.
Người nghệ sĩ Việt
Nam đứng giữa hai lằn đạn của hai chiến
tuyến khác nhau trong mọi thời kỳ, dù chiến tranh
hay hoà b́nh hiện nay. Và người nghệ sĩ trong một
giây khắc xúc cảm rất dễ trở nên yếu
đuối. V́ tâm hồn không yếu đuối, không thể
là nghệ sĩ.
Cái c̣n lại, tôi nghĩ xa
hơn, một khi tâm hồn chúng ta yếu đuối, cần
có nơi nương tựa, cần có nơi chở che. Cộng
đồng hải ngoại là nơi để nương
tựa, nơi để thở than và mong nhận che chở.
Dù sao th́, cộng đồng chúng ta ở hải ngoại
khi thương th́ hết ḷng, khi ghét th́ hết t́nh. Ngay
như bản thân tôi về ở Orlando, Florida hơn 20
năm qua, chuyên làm kinh tế, nghĩa là lo đi làm ăn,
mà vẫn không yên, tôi hiểu con người ta, chỉ có một
thiểu số có sự ganh ghét, đố kỵ, chụp
mũ và thiếu sự cảm thông. Do vậy, không riêng ǵ
ông Phạm Duy, mà c̣n nhiều nữa, cộng đồng
nói chung, đôi khi v́ quá nhiệt t́nh, quá sôi nổi, quá "bức
xúc" v́ chế độ cộng sản Việt Nam, do vậy
vô t́nh đă thiếu sự khoan dung, thiếu sự che chở,
không có trái tim bao dung che chở, nương tựa cho những
nhà văn hoá, chính trị, tôn giáo. Cuối cùng, chỉ xô
đẩy người ta sống theo cách sống của họ
là bất chấp, và họ trở thành ích kỷ. Điều
này đă xảy ra ở các hiện tượng Nguyễn
Cao Kỳ, Thích Nhất Hạnh và bây giờ là Phạm Duy.
Ông Phạm Duy đă nằm xuống,
nhắm mắt xuôi tay suốt 93 năm làm con người sống
thở trên cơi đời này. Chắc chắn là các báo lề
phải trong nước sẽ có nhiều bài "vinh danh"
ông, ca ngợi sự nghiệp âm nhạc và con người
ông. Chế
độ cộng sản hiện nay luôn nhận vơ cho ḿnh những khuôn
mặt lớn của văn học nghệ thuật,
từ Văn Cao, Trịnh Công Sơn và bây giờ là Phạm
Duy là người của họ, là những kẻ thành danh
do bởi chế độ, hoặc là tài sản chung của
đất nước. Bởi v́ có mất mát ǵ đâu, khi
một cái "Game" mà chế độ lúc nào cũng là
kẻ thắng bởi v́ cầm quyền ban phát "xin và
cho".
Đây là một bài học cho
giới làm nghệ thuật một khi thoả hiệp trong
một trận đấu "Game".
Ở sao cho vừa ḷng người
Ở rộng người cười, ở
hẹp người chê!
Châu Đ́nh An
CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI NGHỆ SĨ
(Nguyễn Hưng Quốc)
Tôi nghe tin nhạc
sĩ Phạm Duy qua đời, trước tiên, từ một
người bạn, sau đó, qua các bản tin trên báo chí. Cảm
giác của tôi, thoạt đầu, là dửng dưng; sau
đó, là sự ngạc nhiên về sự dửng dưng của
ḿnh.
Tính tôi vốn
sợ cái chết, máu me cũng như bất cứ cái ǵ
liên quan đến cái chết. Ngay cả khi xem phim hay tivi,
thấy những cảnh máu me chết chóc là tôi quay mặt
đi. Dự đám tang, điều tôi sợ nhất là
nh́n gương mặt của người chết trong quan
tài. Nếu tránh được, bao giờ tôi cũng tránh.
Và bất cứ cái chết nào của người thân quen cũng
đều để lại trong tôi những dư âm thật
nặng nề. Cái chết của những người
trong giới văn nghệ, những người tôi đă
tiếp xúc hoặc thường đọc lại càng gây ấn
tượng mạnh, thường làm tôi nghĩ ngợi
trong nhiều ngày, nhiều tháng, có khi, nhiều năm. Cảm
giác chung là, bao giờ tôi cũng thấy một chút sững
sờ, rồi hoang mang. Với tôi, nghệ sĩ nào cũng
chết trẻ. Có chết lúc đă trên 70, 80, hoặc ngoài
90 như Phạm Duy, vẫn là chết trẻ. Có lẽ lư
do chính là, nh́n qua lăng kính của tác phẩm, bao giờ
tôi cũng thấy họ trẻ trung, thậm chí, trẻ
thơ, đặc biệt với các nhà thơ.
Nhưng tại
sao nghe tin Phạm Duy mất, tôi lại vẫn dửng
dưng?
Thú thực,
đến bây giờ, lúc ngồi viết những ḍng này,
tôi vẫn không hiểu được. Chắc chắn
không phải v́ tôi xa lạ với ông, ghét ông hay khinh thường
ông. Không phải. Về phương diện cá nhân, tôi gặp
Phạm Duy vài lần. Có thời gian, lúc tôi c̣n ở Pháp và
lúc ông mới xuất bản một số tập trong bộ
hồi kư của ông, ông hay gọi điện thoại cho
tôi. Có lần, gọi từ Mỹ, ông kể huyên thuyên về
t́nh bạn của ông với nhà thơ Quang Dũng , điều
được ông kể tỉ mỉ trong cuốn hồi
kư ông viết sắp xong. Nổi hứng, ông đọc cho
tôi nghe cả mấy trang về Quang Dũng trong cuốn ấy.
Tôi hiểu hậu ư của Phạm Duy: Ông muốn tôi viết
cái ǵ đó về bộ hồi kư của ông. Tôi khéo léo thoái
thác. Sau đó, tôi qua Úc sống. Một dịp qua Úc, ông
đến nói chuyện ngay trong trường đại học
nơi tôi đang dạy, và ngày hôm sau, rủ tôi đi ăn
sáng. Chuyện tṛ vẫn vui vẻ. Rồi thôi. Gặp nhau
ít, nhưng ấn tượng của tôi về Phạm Duy
rất tốt đẹp.
Vậy mà,
nghe tin ông mất, tôi vẫn dửng dưng. Tại sao?
V́ tôi ít quan
tâm đến âm nhạc ư? Cũng có thể. Trong các loại
h́nh nghệ thuật, sau văn học, lănh vực tôi cảm
thấy gần gũi nhất là hội họa. C̣n âm nhạc,
với tôi, là một cái ǵ xa lắc. Tôi không hiểu, và thú
thực, tôi cũng không thích, nhất là nghe các ca khúc. Tuy
nhiên, tôi vẫn không nghĩ đây thực sự là lư do.
Không thích, nhưng, thật ra, tôi vẫn nghe. Với Phạm
Duy, tôi nghe từ nhỏ. Nhiều bản nhạc của Phạm
Duy vẫn ám vào tôi. Có khi không nhớ cả bài, tôi vẫn nhớ
từng câu; có khi không nhớ cả câu, tôi vẫn nhớ
vài chữ, thường th́ gắn liền với một
giọng ca nào đó, để, khi đọc hay khi viết,
đụng đến chữ ấy, tôi lại nghe vang lên
trong đầu, trong lỗ-tai-bên-trong của tôi, âm hưởng
ngân vang hay d́u dặt của một tiếng hát từ nhạc
của Phạm Duy.
Vậy th́ tại
sao tôi lại dửng dưng?
Tôi lờ mờ
nhận ra một lư do: Tôi không nghĩ là ông đă chết.
Tôi không tin là ông đă chết. Mà thật, với một nghệ
sĩ lớn như Phạm Duy, cái chết vật lư chỉ
là một cái chết giả. Sự sống thực sự của một nghệ
sĩ không nằm trong thể xác. Mà là ở tác phẩm.
Bao giờ tác phẩm c̣n được đọc,
được nghe, được ngắm, người
nghệ sĩ vẫn c̣n sống. Để nói về nghệ
sĩ và tác phẩm của họ, chúng ta hay dùng hai chữ "bất
tử" và "bất hủ". "Bất hủ"
là điều kiện của "bất tử": Bắt
chước cách nói của Phạm Quỳnh khi bàn về mối
quan hệ giữa Truyện Kiều và tiếng Việt cũng
như vận mệnh của dân tộc Việt Nam, chúng ta
cũng có thể nói: Tác phẩm c̣n th́ người c̣n ..
Cho đến
nay, dường như chưa ai hoài nghi về tài năng âm
nhạc của Phạm Duy; chưa ai phủ nhận những
giá trị lấp lánh trên cả ngàn ca khúc mà ông sáng tác.
Nhưng không phải ai cũng thanh thản thưởng thức
những tác phẩm ấy. Nhiều người, rất
nhiều người vẫn thấy có cái ǵ lấn cấn
khi nghe đến nhạc Phạm Duy. Chính quyền ở
trong nước vẫn không quên những bài hát chống cộng
của ông trước đây nên dù ông đă lớn tuổi
và đă về nước sống hẳn, họ vẫn
t́m mọi cách để ngăn chận những tác phẩm
ấy. Giấy phép cho các tác phẩm của ông chỉ
được cấp một cách dè dặt. Trong cộng
đồng người Việt ở hải ngoại, quyết
định về nước của Phạm Duy gây không ít
bất măn. Từ cả hai phía, nơi nào cũng thấy ít
nhiều bị Phạm Duy phản
bội. Ở đây, tôi không bàn đến chuyện cảm
giác ấy đúng hay sai. Tôi không kết án hay bênh vực cho
Phạm Duy. Tôi chỉ ghi nhận một sự kiện:
chính những cảm giác ấy đă ngăn cản việc
người ta tiếp cận với nhạc Phạm Duy.
Bây giờ Phạm
Duy đă qua đời. Tất cả những nghi ngờ,
bất đồng hay bất măn sẽ dần dần ch́m
vào quên lăng. Con người thật của Phạm Duy sẽ
không c̣n án ngữ trước khối lượng tác phẩm
đồ sộ và nguy nga của Phạm Duy. Một lúc nào
đó, nghĩ đến Phạm Duy, người ta sẽ
không c̣n nhớ đến những chuyện đi kháng chiến
rồi dinh tê, chuyện vào miền Nam rồi vượt
biên hay chuyện sống ở Mỹ rồi quay về Việt
Nam; người ta cũng không c̣n nhớ những câu phát biểu
nhiều khi rất tùy hứng và tùy tiện của ông. Lúc ấy,
nghĩ đến Phạm Duy, người ta chỉ nghĩ
đến những bài hát do ông sáng tác.
Lúc ấy,
tôi nghĩ, ông mới sống thật cuộc sống của
ông. Một cuộc sống thật vĩ đại.
NGUYỄN HƯNG
QUỐC
(Huon Doan sưu tầm và chuyển)
PHẠM DUY
(NHN)
Khi
Trịnh Công Sơn chết, tôi không viết chữ nào. Không
viết, v́ không có ǵ để viết thêm.
Khi
các anh Giang Châu, Trầm Tử Thiêng rồi Ngô Mạnh Thu qua
đời, tôi chưa viết được ǵ v́ nghĩ rằng
một vài đoạn hay một bài viết ngắn không
đủ để nói về họ, với những ǵ họ
đă đóng góp cho văn học nghệ thuật, bên cạnh
những kỷ niệm, ơn nghĩa, t́nh riêng.
Khi
anh Nguyễn Đức Quang từ trần, tôi viết, v́
anh gần tôi hơn, cả về tuổi tác lẫn sinh hoạt,
và có với nhau những kỷ niệm ngộ nghĩnh.
Phạm
Duy, th́ sao ?
Dĩ
nhiên là không vui, nhưng cũng không buồn, chỉ bâng
khuâng. Bâng khuâng, không v́ sự vô thường của đời
sống, v́ anh năm nay 93 tuổi ta, chết như vậy
là b́nh thường, tính theo tuổi thọ trung b́nh, c̣n
dư được cả chục năm. Bâng khuâng, không
v́ sự thay đổi của đời người mà v́
sự thay đổi của con người: con người
của anh.
Lớn
lên là thanh niên trong thời loạn, anh vào khu kháng chiến.
Đẹp lắm. Anh gọi đó là giai đoạn của
lăng mạn cách mạng, vừa trả nợ non sông vừa
được sống một cuộc sống cả phiêu
lưu lẫn hào hùng theo lư tưởng của tuổi thanh
xuân thời đó.
Rồi
anh bỏ kháng chiến, về thành. Cũng vẫn đẹp.
Anh đi theo tiếng gọi của ḷng ḿnh, khi con tim nhỏ
không c̣n ôm ấp hoài băo lớn, mà nó rung động theo những
nhịp đập của tự nhiên.
Chỉ
trong một đêm, anh viết lại lời mới cho những
bài hát cũ. Từ "Việt nam! Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà" thành "Vườn rau, vườn rau xanh ngắt
một màu", cũng vẫn hay. Anh nh́n thấy cái đẹp
mới, cái đẹp hơn, th́ anh theo. Không ai bắt anh ôm
ấp măi những cái đối với anh không c̣n đẹp
nữa. Có chăng, là một sự ngạc nhiên của bạn
bè, như Văn Cao, bật thốt lên: "Cái thằng, nó
nhanh thật!"
Anh
gia nhập hàng ngũ quốc gia. Anh viết trường
ca "Con đường cái quan", trường ca "Mẹ
Việt Nam", anh viết tâm ca "Kẻ thù ta đâu có
phải là người, giết người đi th́ ta ở
với ai", anh viết tục ca "Cầm c. cho nó
đái", anh viết "Đạo ca", anh viết "Huyền
sử ca một người mang tên Quốc", anh viết
cả nhạc phản chiến "Kỷ vật cho em",
anh viết b́nh ca, rồi sau 1975, anh viết "Tháng tư
đen", viết anh hùng ca "Vơ Đại Tôn", anh
phổ nhạc ngục ca "sẽ có một ngày, con
người hôm nay, vứt cùm vứt Đảng" .. rồi
đột nhiên anh về Việt Nam, xoay ngang ṿng nạng
oan khiên ..
Tôi
không có nhiều kỷ niệm với anh.
Biết
anh vào khoảng 1963, đi hát chung với anh dăm ba lần
trên sân khấu, CPS, trường Quốc Gia Âm Nhạc, du ca
.. Tôi đến nhà thăm anh mươi, mười
lăm lần ǵ đó ở Phú Nhuận, lần đầu
tiên với các anh Đỗ Quư Toàn và Đỗ Ngọc Yến.
Anh bảo tất cả chúng tôi gọi anh bằng "anh",
đối xử với nhau như bạn vong niên. Anh uống
trà bằng b́nh, hút từ ṿi như người thiểu số
uống rượu cần, uống xong xoay ṿi qua mời
khách, rồi lại uống tiếp. Anh mua bắp vườn
mới nấu để đăi. Anh dùng xe gắn máy chở
tôi đi ăn kem Broda ở góc Tự Do và Nguyễn Thiếp.
Khi
tôi c̣n nhỏ, anh khuyên tôi ba điều. Một là bỏ học đi hát. Anh bảo: "Càng học
càng ngu, cái học làm cho ḿnh bị g̣ bó, sáng tác không hay. Bỏ
học, đi hát với thằng Duy Quang kiếm tiền
sướng hơn". Tôi không nghe anh, v́ tôi không mê hát, không
ham tiền và tôi không cho rằng "càng học càng ngu",
mà hiểu rằng càng học càng biết là ḿnh ngu th́
đúng hơn.
Điều thứ
hai anh khuyên tôi là đàn ông yêu vợ, phải biết nói dối
vợ. Anh nêu thí dụ là ông Tạ Tỵ viết
sách khai hết tất cả các mối t́nh lớn t́nh con của
anh. Sách anh để ngay trên kệ. "Bà Hằng đọc
mà không biết ǵ hết", anh nói. V́ Thái Hằng bận
chăm sóc cho cả một bầy con, chị không thể
đọc một lèo từ đầu đến cuối,
mà mỗi ngày chỉ đọc được vài trang rồi
làm dấu để đó. Mỗi ngày anh theo dơi xem chị
đọc tới đâu; khi chị sắp đọc tới
chỗ "gay cấn", anh dời cái dấu qua khỏi
các trang nguy hiểm, thế là êm hết mọi bề. Anh
c̣n đưa thêm bằng chứng, là "có lần bà Hằng
bắt gặp anh đang nằm trên bụng con T. mà anh c̣n
căi được, anh bảo nó đau bụng đau băo nên
anh phải giúp nó". Tôi không tin là "bà Hằng" khờ
tới mức đó; chị chỉ cần một lời
giải thích để bỏ qua, thế thôi. Anh thường
ca tụng Thái Hằng là "nữ thánh", chắc v́ lẽ
đó.
Điều thứ
ba anh khuyên, hợp với sự giáo huấn
của bà tôi và hợp với tâm tạng của tôi, nên tôi
theo: "Đừng
bao giờ tin người cộng sản, v́ người cộng
sản hễ nói là dối". Tiếc là
cuối đời, anh đă không làm được điều
mà anh đă khuyên tôi lúc tôi hăy c̣n là một thiếu niên!
Anh
có thói nói tục và chửi tục. Ghét ai, anh bảo ngay nó
là "thằng mặt l.". Tôi thật t́nh không hiểu tại
sao người ta lại đem cái chỗ chúa dấu vua yêu
ông nào cũng thích vào trong câu chửi, kể cả Việt
Nam lẫn Ăng-lê!
Có
lần tôi cùng với Nguyên Hương tới nhà anh ở
đường Chi Lăng. Anh đang bận phôn trên lầu,
chúng tôi ngồi chơi dưới cầu thang, Duy Minh lúc
đó mới 7, 8 tuổi ǵ đó, ṭ ṃ chạy tới làm
quen với cô. Thấy cậu bé hay hay, Nguyên Hương tinh
nghịch hỏi: "Bố có đánh không?" Minh cười,
lắc đầu. Lại hỏi: "Thế bố có chửi
không?". Cậu nhỏ gật đầu rất quả
quyết. Hỏi tiếp: "Bố chửi thế nào
?". Cậu nhỏ đáp ngay: - "Bố chửi địt
mẹ". Chúng tôi nh́n nhau tủm tỉm cười. Các cụ
ḿnh ngày xưa bảo "đi hỏi già về nhà hỏi
trẻ" quả là hay. Trẻ con không biết nói dối
..
Tôi
viết chung với anh bài hát "Màu dân chủ" phổ
thơ Quách Thoại. Đúng ra là tôi viết, anh sửa rồi
kư tên chung. Bài này yểu tử. Tôi vượt biển, không
c̣n ǵ, chỉ nhớ trong đầu; hỏi anh, anh bảo
c̣n giữ. Anh chưa lục ra và tôi cũng chưa chép ra.
Ra
hải ngoại lại hát chung với anh vài lần, nhất
là khi anh vừa soạn xong các bài "ngục ca" và không
c̣n sức để hát cho hay! Buổi sinh hoạt ấm
cúng nhất có lẽ tại "Hầm Lú" ở
Montreal, lần đầu tiên tôi phải nh́n vào bản thảo
và hát ngay, không kịp tập dượt ǵ cả, may mà diễn
tả được ư anh và ư tác giả các bài thơ.
Rồi
anh phổ nhạc một bài thơ t́nh mà tôi kư tên Cung Vũ,
"Từ dạo ta buồn". Bài này cũng yểu tử.
Tôi quả không có duyên với anh. Bài hát vẫn c̣n nằm
trong tập thơ "Cỏ biếc" và trên website của
Hội Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong. Tôi c̣n giữ audio
file do chính anh tự đệm đàn và hát. Tôi chưa nghe lại,
nhưng vẫn mường tượng tiếng đàn, tiếng
hát của anh, và bâng khuâng, v́ dù anh đi đâu, về
đâu, c̣n sống hay đă chết, nó vẫn là những dấu
chân c̣n in vết trên một đoạn đường
chung.
Tôi
tiếc cho anh, nhưng nói cho thật đúng, là tiếc cho
chính ḿnh. Giá chỉ nhớ toàn kỷ niệm đẹp th́
ḷng ḿnh nhẹ nhơm biết bao!
Anh
có nhiều khuyết điểm mà tôi không muốn nhớ hết,
nhưng bất cứ lỗi lầm nào, kể cả sát
nhân, bản án có định mức, dù là án tử h́nh.
Người ta chỉ có thể giết phạm nhân một
lần; nhưng một khi liên can tới phạm vi chính trị,
lập trường, th́ sự kết án kéo dài vô hạn.
Với
tôi, Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy đă chết từ lâu,
từ lúc họ tự dẫm lên phẩm cách của chính
ḿnh. Nhưng với một nghệ sĩ, khi tác giả chết,
cái c̣n lại là tác phẩm, hay hoặc dở, đỏ hay
vàng, bất tử hay yểu tử, mỗi tác phẩm tự
nó có một bản sắc, một sinh mệnh, những lời
bàn nhắm vào tác giả -- nói trắng ra là tư cách của
tác giả -- có thể làm thay đổi mức độ
tiếp nhận tác phẩm nhưng không làm thay đổi
giá trị của tác phẩm. Rồi tôi lại nghĩ, có lẽ
phải mất một thời gian khá lâu, có khi tới một
hay hai thế hệ sau nữa, người ta mới có thể
tách rời tác phẩm ra khỏi những dấu vết lấm
lem của tác giả. Đó là lớp quần chúng không trực
tiếp chịu ảnh hưởng những hệ luỵ
chính trị của thời đại này.
NHN
"MÂY ĐĂ QUA CẦU" (*)
Nén hương ḷng tưởng niệm
Nhạc sỹ Phạm Duy.
(THÍCH CHÂN TUỆ)
'' .. Tôi yêu tiếng
nước tôi từ khi mới ra đời người
ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời ..'' câu hát này,
bài hát này hầu như người Việt chúng ta ai ai
cũng thuộc, những ngôn từ bắt đầu của
bài hát thật tự nhiên, giản dị, ai cũng có thể
nghĩ ra, ấy vậy mà để biến nó thành T́nh Ca,
thành lời nhạc bay đến chạm vào trái tim của
người Việt và ngự trị hẳn trong đó suốt
mấy thập niên qua th́ chỉ có Phạm Duy mới có thể.
Ngày trước,
khi c̣n là một cậu thiếu niên choai choai tôi đă '' mê
'' nhạc của họ Phạm và họ Trịnh rồi,
những ḍng nhạc của họ không biết tự khi
nào đă trở thành một phần đời sống của
riêng tôi, nghĩa là một loại dưỡng chất tinh
thần không thể thiếu và hẳn nhiên trước
đó từ lâu, ḍng nhạc của họ đă trở
thành đời sống của ngàn vạn trái tim yêu nhạc
Việt rồi.
Ngày xưa,
trước khi khoác lên người chiếc áo nâu nhà Phật
tôi đă nguyện chia tay với con người đam mê âm
nhạc của ḿnh, tôi tập thoát ly đam mê những âm
thanh trần thế để hướng tâm về con
đường giải thoát thanh cao, và thật sự là tôi
đă làm được điều đó. Khi t́m đến
với kinh kệ nhà Phật tôi đă không c̣n đắm
ḿnh với ''Đưa em t́m động hoa vàng'',''T́nh hoài
hương'',''Giọt mưa trên lá'' hay ''Em đi lễ
chùa này'' .. nữa, nhưng như thế không có nghĩa là
tôi đă đoạn tuyệt được hẳn với
những hạt giống (chủng tử) đă ăn sâu
vào tiềm thức của ḿnh trong độ tuổi hoa
niên. Cách đây vài hôm, khi nghe tin nhạc sỹ Phạm Duy
qua đời, cả người tôi, cả thế giới
tâm hồn tôi như ngừng đọng, sững sờ ..
dù đă biết vô thường là bản chất của vạn
hữu. Những ḍng nhạc của một thời tôi sống
với, từ lâu ngỡ đă ch́m vào quên lăng, bỗng trỗi
dậy trong tôi từng hồi, từng hồi, dạt dào,
bất tận .. và tôi đă cúi đầu xin phép con người
tu sỹ trong tôi rằng .. hăy cho phép tôi được
để yên '' t́nh trạng '' này và xem đó như thể
là một biểu hiện của sự thương tiếc,
tưởng niệm về một con người tài ba
đă từng là một phần đời sống của
ḿnh trong quá khứ.
Hai hôm nay tôi
nhận được nhiều điện thư của
các bạn trong đạo cũng như ngoài đời, họ
chia sẻ cảm xúc của họ về tin người nhạc
sỹ vừa nằm xuống. Trong số những bức
điện thư forward tới tôi có khá nhiều bài viết
của những cây bút tôi quen tên ở Hải ngoại
đă tống tiễn người nhạc sỹ với giọng
điệu phỉ báng, chỉ trích, chê bai nặng nề ..
, tôi đọc qua mà chỉ biết ''ngậm ngùi'' cho người
vừa khuất núi, tôi buồn cho một con người
đă suốt đời cống hiến mật ngọt
cho cuộc đời để rồi khinằm xuống thế nhân đă
đền ơn ông, đă tiễn ông bằng vô vàn .. lời
cay, chén đắng. Ở khía cạnh nào đó, có thể v́
họ quá thương nhạc sỹ nên giờ trở thành
oán trách cái con người mà họ cho rằng đă không c̣n
đứng ''chung chiến tuyến'' với ḿnh? Nói chi th́
nói, bản chất của cuộc đời là t́nh cảm,
ai mà đi ngược lại với t́nh cảm của ta
là lập tức bị ta không ưa rồi? ''không ưa''
là cấp độ nhẹ, c̣n oán ghét là cấp độ
sâu. Khi cái ghét đă lên đến đỉnh điểm, họ
không ngại bới móc đời tư, chuyện gia
đ́nh, chuyện t́nh cảm cá nhân của người họ
ghét để làm cho hả dạ một lần sau cuối,
"nghĩa tử nghĩa tận'' họ không màng.
Với tôi,
Phạm Duy, và một vài nhạc sỹ VN lừng danh khác, họ
là những người nhạc sỹ mang trong ḿnh một
trái tim yêu quê hương VN tha thiết, t́nh yêu của họ
c̣n vượt trên cả t́nh yêu của chúng ta, v́ nếu
không yêu quê hương nồng nàn th́ Phạm Duy không thể
nào có ..'' Tôi yêu đất nước tôi từ khi mới ra
đời ..'' được? Chỉ v́ họ yêu quê
hương theo cái cách của họ, thái độ yêu quê
hương, đất nước của họ người
đời không cùng tận được rồi từ
đó hiểu sai họ mà thôi.
Ta có thể
ví von rằng mọi thể chế chính trị giống
như là chiếc áo, (là lớp áo bên ngoài), c̣n quê
hương chính là phần thân thể, là máu mủ thịt
xương. Một khi ta không ưa chiếc áo này th́ ta có thể
thay đổi chiếc áo khác, thậm chí ta có thể xé toạc
nó ném đi nơi khác, nhưng đối với thân thể
th́ ta không làm như thế được, v́ vậy, với
những người tha thiết yêu quê hương, một
khi mất nó đi, họ cảm thấy họ như
đă mất đi chính bản thân ḿnh, cái khao khát trở về
với quê hương của họ chính là cái khao khát
được trở lại với chính bản thân họ,
dù rằng quê hương đó đă không c̣n toàn vẹn,
lành lặn như xưa, nhưng họ thà như thế
c̣n hơn là mất hẳn. Có khi v́ ai ai cũng mặc áo th́
họ cũng mặc nhưng chưa chắc họ đă
yêu thích chiếc áo mà họ đang mặc trên người.
Và đôi khi ta bước song hành với một người
nào đó nhưng chắc ǵ tâm hồn ta cũng đi cùng với
họ, chuyện vợ chồng người ta c̣n có câu : ''đồng
sàng dị mộng'' cơ mà! - Vị thầy bổn sư
tế độ cho tôi cũng đă để lại những
ḍng thơ trác tuyệt cho quê hương như : ''Mái chùa che chở hồn dân tộc.
Nếp sống muôn đời của tổ tông''.
Phải, cái ''hồn dân tộc'' đó làm sao mà t́m ra, làm sao
mà cảm nhận ở xứ lạ quê người
được, người ta chỉ có thể ''hít thở''
được nó trên chính nơi ḿnh đă ''chôn nhau cắt
rốn'' mà thôi! Thầy tôi đă viết như thế
nhưng Người đă nằm xuống trên đất Mỹ
sau mấy mươi năm sống lưu vong, Người
đă không một lần trở về chỉ đơn giản
v́ không thích mặc ''chiếc áo'' của người ta. Mỗi
người đều có lư và đều đúng trong sự
lựa chọn của ḿnh.
Phàm làm
người th́ không ai toàn vẹn cả, thế nhưng khi
một mảnh giấy trắng bị rớt lên đó một
giọt mực đen th́ người ta chỉ ''nh́n chằm
hăm'' vào cái giọt mực đen kia rồi chê bai, b́nh phẩm
mà quên đi diện tích sạch sẽ c̣n lại trên trang giấy,
đó chính là cố tật lớn nhất của con người.
Người ta nhân danh đạo đức rồi tự
cho ḿnh cái quyền lên án, rêu rao lầm lỗi của người
khác, trong khi đằng sau họ, trong tim họ c̣n dẫy
đầy tội lỗi và bóng tối mênh mông ..Trước đây khi hát bài : ''Một
cơi đi về'' của Trịnh, khi hát đến đoạn:
''Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng''
tôi cứ lấy làm thắc mắc rằng tại sao ông ấy
không dùng chữ ..''Con tim nhân gian'' nghe có hay và dễ hiểu
hơn không? nhưng bây giờ th́ tôi đă ''ngộ'' ra cái
thâm sâu của Trịnh, rằng đôi tay kia chính là hành
động được điều khiển bởi con
tim, nếu con tim đă không độ lượng th́ lập
tức ..''ta sẽ ra tay cho mà biết '. Ôi, thói đời
cay nghiệt, ôi ḷng người eo hẹp nói măi cũng không
cùng ..
Chỉ c̣n vỏn vẹn
mươi hôm nữa là bước sang năm mới, dẫu
biết vô thường không hẹn cùng ai nhưng tôi vẫn
tiếc sao cây Cổ Thụ Âm Nhạc VN không lưu lại
nhân gian ít ra thêm một mùa Xuân nữa. Thôi th́ .. ông hăy ''Ôm
trăng đánh giấc bên đồi Dạ Lan'' đi nhé!
Là nghệ sỹ, tôi chắc từ lâu ông đă hiểu: ''Đời
ghét, thương vốn dĩ là thường! '' nhưng
ông cứ tin một điều rằng họ ghét ông
như ghét vị cay của ớt song họ vẫn cứ
ăn, ghét vị đắng của rượu mà họ vẫn
cứ uống, ghét con người ông nhưng ''tâm hồn''
của ông th́ họ vẫn cứ ngày đêm cùng nhau hát say
sưa, hiểu như thế th́ ông ở bên kia ông hăy cứ
vui và yêu thương họ, ông nhé!
Xin tạ
ơn ông đă có mặt điểm tô cho đời và
cũng đă cùng ''khóc cười theo mệnh nước nổi
trôi''. Xin mượn lời nhạc của ông để tiễn
đưa ông trong tiếng chuông mơ nhà chùa : '' .. Ngh́n trùng xa
cách người đă đi rồi, đường dài hạnh
phúc, cầu chúc cho người ..''
Nam mô Tiếp
dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.
(*) Em Lễ
Chùa Này :
''.. Rồi từ đây vườn
chùa thanh vắng, tiễn đưa em ngày tháng qua mau. Một
nụ mai vừa nở trong nắng, hỡi em ơi mây
đă qua cầu .."