Ông NGUYỄN TÚ A
viết về
“Lịch Sử
Lá Cờ Việt Nam”!!!
(Nguyễn Lý-Tưởng)
Báo VietWeekly phát hành vào tuần lễ
từ 15 May 2008 đến 21 May 2008, trang 10, có
đăng bài của ông Nguyễn Tú A nhan
đề “Chống Cờ CSVN ở trường USC:
Bài toán khó giải” có một đoạn
ông Nguyễn Tú A viết về lịch sử
Lá cờ Việt Nam như sau:
“Không rõ lá cờ Việt Nam màu
vàng có 3 sọc đỏ có từ thời
nào. Các cờ đuôi nheo, ngũ sắc
thường treo ở các cổng chùa hay
đình làng không giống hình thức cờ
Việt Nam
Cộng Hoà sau này.
“Nếu
có dịp đến thăm đền Đinh
Tiên Hoàng miền Bắc, quê hương của
nhà Đinh, sẽ thấy những cờ ngũ sắc
có chữ “Thiên”, chỉ nhà vua.
“Từ
xưa chỉ vua chúa được mặc áo
màu vàng. Hoàng hậu, công chúa thường
đội nón vành khăn. Loại nón
này còn lưu lại hay dùng cho các
cô dâu trong tiệc cứơị Vậy màu
vàng là màu của vuạ Chữ hoàng
đế chỉ vua. Hoàng có nghĩa là
màu vàng.
“Căn
cứ vào lịch sử, năm 43 trước Tây
lịch, khi quân Tàu đem quân chiếm Việt
Nam, hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị cầm
quân chống xâm lược. Hai bà thường
ngồi trên voi chỉ huy lính, tấn công
quân Tàu. Khi tiến quân, hai bà đã
tháo miếng vải làm nón vành dây
màu vàng trên đầu làm dấu hiệu
cho tiến quân. Nhờ dấu hiệu phất cờ
hay xoay cờ, cuộc tiến quân dễ dàng, hiệu
lực hơn. Từ đó, các đoàn
quân đều mang theo miếng vải màu
vàng thay vì mỗi lần ra trận lại
tháo một chiếc nón vành dây. Dần dần
trở thành lá cờ quen thuộc mỗi khi
đoàn quân di chuyển.
“Vào khoảng năm 1858, sau khi Pháp chiếm
3 tỉnh của Việt Nam, cha Bá Đa Lộc,
người Pháp soạn ra cách viết chữ Việt,
mang hoàng tử Cảnh đi Pháp. Chuyến đi
bằng tàu, phải qua kinh đào Suez. Mỗi lần qua kinh
đào, tàu phải kéo cờ của quốc
gia ấy.
“Trên các loại tàu, tàu
nào cũng mang theo cờ vàng để phòng
ngừa khi cần đến. Cờ màu vàng
là dấu hiệu báo cho người trong đất
liền biết là tàu đang có người
bị bịnh dịch hạch, tàu không được
cặp bến mà phải thả neo, đậu xa bờ
rồi cho người liên lạc mua hàng hoá
hay thuốc men, thực phẩm hay chuyển người bịnh
vào bờ và không quên kéo cờ
màu vàng.
“Cha
Bá Đa Lộc sợ khi kéo cờ vàng
lên, dân chúng hiểu lầm là tàu
đang bị bịnh địch hạch, nên cha
đã cho may một vạch đỏ lớn chạy
dọc, từ giữa, từ bên này sang tận
bên kia của lá cờ. Hình thức giống
như cờ 3 sọc bây giờ. Thay vì 3 sọc
nhỏ, gom lại thành một, chạy từ giữa
lá cờ. Từ đó, các con tàu của
Việt Nam hay
phát xuất từ Việt Nam đều kéo cờ
vàng một sọc đỏ lớn.
“Sau
đó, cờ vàng một sọc đỏ
được biến đổi theo các thầy
địa lý. Thay vì một sọc đỏ
làm 3 sọc nhỏ, ngắn hơn sọc đỏ của
cha Bá Đa Lộc. Đặc biệt là sọc ở
giữa cắt làm 2, ở giữa có khoảng trống
vì thầy địa lý quan niệm dựa
vào quẻ ly, khoảng trống để lưu
thông hay kinh mạch qua lại dễ dàng. Quẻ
ly là một trong 4 quẻ của LONG, LY, QUY, PHỤNG.
“Năm
1949, khi Bảo Đại được Pháp
đưa về nước làm Quốc trưởng,
đưa Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ
Tướng. Bộ Trưởng Thông tin lúc ấy
là Trần Văn Ân
“Bộ
Trưởng Thông tin Trần Văn Ân tổ chức
một cuộc thi vẽ cờ. Nhiều mẫu cờ
được đệ trình. Nhưng mẫu cờ
của ông Lê Văn Đệ, một họa sĩ
học ở Bắc, được chọn. Mẫu cờ
đó là cờ màu vàng như cũ, 3 sọc
chạy từ bên này sang bên kia. Ba sọc
tượng trưng 3 miền Bắc, Nam, Trung. Mẫu cờ
này được quốc tế công nhận
là cờ của Việt Nam Cộng Hoà.
“Trong
khi đó, cờ miền Bắc, cờ đỏ sao
vàng. Màu đỏ là màu của Cộng
Sản thế giới. Sao vàng chỉ Việt Nam. Cờ
đỏ sao vàng có từ khi Hồ Chí Minh lập
khu ở Pắc Bó.
“Như
vậy nếu sau này, Việt Nam đổi chủ,
có thể lá cờ vàng ba sọc hay ba sọc
ngắn giữa có cắt đôi theo quẻ Ly, hay
1 sọc đỏ của cha Bá Đa Lộc, có
thể sẽ trở thành cờ Việt Nam vì cờ
màu vàng này có từ thời Hai Bà
Trưng. Đàn bà của thế giới
càng ngày càng ở thế tốt, thượng
phong !”
Đọc
hết đoạn văn trên đây, tôi
không thể tưởng tượng được một
người như ông Nguyễn Tú A mà lại
có thể viết “bậy bạ” như thế được. Tôi cũng
có biết ông Nguyễn
Tú A, cũng có dịp ghé thăm văn
phòng dịch vụ của ông, cũng có
lúc ăn uống với nhau trong tình bạn
bè, bất cứ báo tiếng Việt nào
có bài của ông Nguyễn Tú A ... tôi
đều có đọc ...
Trước khi qua Mỹ, khoảng 1990, tôi
có nghe ông Nguyễn Tú A từ Mỹ về,
có gặp một số anh em cựu tù “cải
tạo của Cộng Sản” (tức cựu tù
nhân chính trị hay HO), có đưa ra vấn
đề “định cư tại chỗ”...
Lúc đó tôi còn ở Việt Nam, có
nghe anh em bàn tán chuyện ông Nguyễn Tú
A về nước ... chắc là có mission gì
của Mỹ (?) Hồi đó, tôi không gặp
ông Nguyễn Tú A nhưng tôi tin chuyện anh em
nói là có thật ...
Mới đây, đọc hồi ký của
ông Võ Long Triều, có nhắc lại chuyện
ông Nguyễn Tú A đã cư xử đẹp
với ông Triều ... như vậy là chuyện
ông Nguyễn Tú A về nước là
“có thật”... Một đôi khi, ông
Nguyễn Tú A cũng kể chuyện những lần
về Việt Nam trước đây với anh em, trong
đó tôi cũng có lần được
nghe ... Đặc biệt, ông có ra Hà Nội
gặp Lm Trần Hữu Thanh (Chủ tịch PT chống
Tham Nhũng ...), có quay phim, có phỏng vấn ...
Tôi rất phục kiến thức của
ông Nguyễn Tú A, nhất là những bài
ông viết về luật pháp ở Mỹ (theo
tôi hiểu) mục đích là để
giúp đồng hương biết đường mà
tránh chuyện rắc rối, vi phạm luật
pháp ... Khi nào gặp ông Nguyễn Tú A,
dù đang đi ngoài đường, tôi cũng
gọi tên ông để chào hỏi, mặc
dù ông không để ý đến tôi
... Nói ra những chuyện “lẩm cẩm”
như vậy để “làm chứng” tôi viết
mấy dòng sau đây không có ý
“xúc phạm đến danh dự của ông
Tú ...”. Tôi chỉ
sợ điều ông Tú nói ra (không biết
là nói chơi hay nói thật ) nhưng đối
với các thế hệ sau chúng ta, sinh ra và
lớn lên ở ngoại quốc (hoặc xa quê
quá sớm), chưa biết gì về văn
hoá lịch sử ... mà đọc đoạn
văn trên đây của ông Tú nói về
“lịch sử lá cờ Việt Nam” thì thật là tai hại !
(1). Ông Tú nói rằng khi đến
thăm đền Đinh Tiên Hoàng, ông thấy
trên lá cờ
có chữ “Thiên” và ông giải thích cho đồng
hương biết: “Thiên” chỉ nhà vua. Đây là một điều sai lầm. Thiên tử mới chỉ nhà
vua còn “ Thiên” là “Ông Trời”
tức là “Đấng Tạo Hoá” hay
“Thiên Chúa” hay “Đức Chúa Trời”...
Vua được Trời trao cho sứ mệnh lãnh
đạo đất nước, lãnh đạo
muôn dân nên gọi đó là
“Thiên mệnh” (mệnh Trời) theo quan niệm
của Nho gia. Trong một nước thì vua là
người lớn nhất. Dân có bổn phận
trung thành với vua. Vua có quyền xét xử
mọi người dân trong nước. Nhưng vua phải
có trách nhiệm với Trời. Vua làm sai lỗi
thì Trời sẽ phạt vua. Vua tự xưng là
“Thiên tử” (con của ông Trời).
Theo truyền thống các nứơc quân chủ
(đặc biệt tại Trung Hoa), cứ 3 năm một
lần, vua phải ăn chay, nằm ngủ trên một
chiếc giường đơn sơ, ở một nơi
gọi là “thanh ốc” (thanh là trong sạch)
nghĩa là ngôi nhà dành cho vua đến
đó mà tĩnh tâm, xét mình có
điều gì sai lỗi đối với bổn phận
“làm vua” hay không ...Trời trao cho vua
“Thiên mệnh” để cai trị muôn
dân. Vua có làm trọn bổn phận
đó hay không ? Vì thế, Thiên là chức vị cao
hơn vua, là Cha của vua.
Trong sử sách (viết bằng chữ Hán)
ngày xưa, không bao giờ dùng chữ
“Thiên” để chỉ nhà vua. Chữ
được dùng để chỉ ông vua
là “hoàng đế” hoặc “đế”
hay “thượng” bởi vậy mới có danh từ
“hoàng đế, hoàng thượng”...Ví
dụ “đế mệnh Hy, Hoà kiến lịch”
(vua ra lệnh cho họ Hy và họ Hoà làm lịch:
chữ trong sách Hậu Hán Thư) hoặc
“Thượng dụ...” (vua ban lời dạy rằng)
hoặc “Thượng phương kiếm”
(là kiếm vua Gia Long ban cho Lê văn Duyệt)
Thượng là vua; phương là phương tiện
(đồ dùng) và kiếm là cây kiếm.
Ba chữ “Thượng phương kiếm”
có nghĩa là cây kiếm của vua dùng
(nay trao cho đại thần có công lao và
được tín nhiệm
là ông Lê Văn Duyệt)...
(2). Ông Tú viết:“ Chữ hoàng
đế chỉ vua. Hoàng có nghĩa là
màu vàng”.
Ông Tú nói đúng,“Chữ hoàng
đế chỉ vua” Nhưng chữ
“Hoàng” trong danh từ “hoàng đế”
không phải là màu vàng. Chữ
Hoàng (hoàng đế) gồm hai phần: trên
là chữ “bạch” dưới là chữ
“vương”. Đó là chữ
“Hoàng” tức hoàng đế. Còn chữ
“hoàng” là màu vàng trên đầu
có bộ “thảo” cũng viết như chữ
Hoàng là họ Hoàng. Màu vàng chỉ nhà vua vì màu
vàng thuộc Thổ...Theo
ngũ hành: Kim (kim khí) màu trắng, chỉ
phương Tây; Mộc (cây, cỏ...) màu xanh,
chỉ phương Đông; Thủy (nước)
màu đen, chỉ phương Bắc và Hỏa
(lửa) màu đỏ, chỉ phương Nam. Thổ (đất, cát...) màu
vàng, ở trung ương. Vua là người lãnh đạo, người
chỉ huy nên ở trung ương. Vua ra trận
thì có Tiền quân, Hậu quân, Tả
quân, Hữu quân. Đội quân ở giữa,
đi bên cạnh vua để bảo vệ vua gọi
là Trung quân. Vị tướng chỉ huy một
đạo quân lớn như vậy gọi là
Đô thống (ví dụ Tiền quân
Đô thống...)
Tưởng
cũng nên giải thích thêm: theo ngũ
hành thì có tương sinh và tương
khắc. Kim và Mộc xung khắc vì Đông
và Tây là hai phương hướng đối
lập nhau. Thuỷ và Hoả là xung khắc
vì Bắc và Nam
là hai phương hướng đối lập nhau.
Vua là Trung ương (Thổ) ở giữa và
lãnh đạo bốn phương thiên hạ
...Thổ sinh Kim (Kim khí ở trong lòng đất,
đãi cát tìm vàng ...) Kim sinh Thủy (kim
khí đem nấu, đun nóng thì sẽ chảy
thành nước: luyện kim, dùng lửa mà
nấu), Thủy sinh Mộc (
không có nước thì cây không sống
được) Mộc sinh Hỏa (lửa do cây cỏ
cháy mà sinh ra), Hoả sinh Thổ (cây, cỏ
cháy thì ra tro ... tro tức là đất: thổ)...
(3). Ông Tú nói rằng “Khi quân
Tàu đem quân chiếm Việt Nam, hai bà
Trưng Trắc và
Trưng Nhị cầm quân chống xâm lược
... Khi tiến quân hai bà đã tháo miếng
vải làm nón vành dây màu vàng
trên đầu làm dấu hiệu cho tiến
quân ...” và “Từ đó, các
đoàn quân đều mang theo miếng vải
màu vàng ...”
Xin nhắc
ông Tú một điều, sử
sách chưa hề nói Hai Bà Trưng “sử dụng
cờ vàng”... nói đến lịch
sử thì phải có tài liệu viết, phải
có người viết lại, ghi chép lại
các biến cố bằng văn tự ...(Các di vật
khảo cổ không phải là lịch sử:
ví dụ: một cây kiếm, một bộ
xương người, trống đồng,
v.v...không phải là lịch sử ... Lịch sử
(history, histoire) là một câu chuyện xảy ra
trong quá khứ được ghi chép lại trong
sách vở hay tài liệu viết ...)
Chúng ta biết được những tên
tuổi, địa danh, biến cố xảy ra từ thời
Hai Bà Trưng (thế
kỷ thứ I) là căn cứ vào một đoạn
văn trong Hậu Hán Thư (sử nhà Hán)
phần nói về Mã Viện (Mã Viện liệt
truyện) là ông Tướng được
Hán Vũ Đế sai đi đánh dẹp cuộc
nổi dậy dành độc lập của Trưng
Trắc. Ngoài đoạn văn đó ra,
chúng ta không còn tìm được sử
sách nào xưa hơn (hay có trước) Hậu
Hán Thư ...
Các tài liệu xưa có nhắc đến
dân Lạc Việt chưa hề
nói họ dùng khăn đội đầu
màu vàng. Chỉ có nói rằng họ
có đúc ấn bằng đồng và
dùng lụa màu xanh (đồng ấn, thanh thụ)
... Các nhà khảo cổ học, khi nghiên cứu
trống đồng tìm được ở
Đông Sơn (Thanh Hoá) thì cho rằng chủ
nhân trống đồng đó là người
Lạc Việt và họ cũng nói rằng
Trưng Trắc là dân Lạc Việt ...Mã Viện đã
đem một số trống đồng của Lạc Việt
về cho vua nhà Hán (Hán Vũ Đế)
và gọi đó là “Lạc Việt đồng
cổ” (trống đồng của ngừơi Lạc
Việt ... cổ là cái trống ... đồng cổ
là cái trống bằng đồng)...
Hiện nay chúng ta chưa chứng minh được
thời Hai Bà Trưng (thế kỷ thứ I) người
Việt đã có chữ viết, và có sử
sách ghi lại các biến cố xảy ra
vào thời đó. Vậy chuyện ông
Tú nói rằng “Hai
Bà Trưng đã dùng vải màu
vàng làm cờ hiệu để chỉ huy
quân lính”
là “tưởng tượng
quá xa”... Một chi tiết khác cũng
cần bổ túc: Ông
Tú nói Hai bà Trưng khởi nghĩa năm 43
trước Tây lịch. Xin lưu ý “
Hai Bà Trưng khởi nghĩa vào năm 43 thế
kỷ thứ I sau Tây Lịch (A.C=
after Christ, sau Tây lịch) chứ không phải
trước Tây lịch (B.C = Before Christ).
(4). Chuyện Giám Mục Bá Đa Lộc ..
.Ông Tú viết “Vào
khoảng năm 1858, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh của
Việt Nam, cha Bá Đa Lộc, người Pháp
soạn ra cách viết chữ Việt, mang hoàng tử
Cảnh đi Pháp”...“Cờ màu vàng
là dấu hiệu báo cho người trong đất
liền biết là tàu đang có người
bị bịnh dịch hạch...” “Cha Bá
Đa Lộc sợ khi kéo cờ vàng lên,
dân chúng hiểu lầm là tàu đang bị
bịnh dịch hạch, nên cha đã cho may một
vạch đỏ lớn chạy dọc, từ giữa, từ
bên này sang bên kia của lá cờ.
Hình thức giống như cờ ba sọc
đõ bây giờ. Thay vì ba sọc nhỏ, gom
lại thành 1, chạy
từ giữa lá cờ. Từ đó, các con
tàu của Việt Nam
hay phát xuất từ Việt Nam đều kéo cờ
vàng một sọc đỏ lớn”...
Đoạn văn trên đây thật
là chuyện động trời ! Không biết
ông Tú lấy đâu ra chuyện Bá Đa
Lộc với cờ vàng trên đây ? - Chi tiết “cờ vàng là dấu hiệu
trên tàu có người mang bịnh dịch hạch” xin để cho các nhà
hàng hải và mấy ông sĩ quan hải
quân thứ thiệt (bạn của tôi có Trung
Tá Trần Trọng Hải, Trung Tá Huỳnh Hữu
Cầu, Thiếu Tá Trần Trọng An Sơn, Thiếu
Tá Trần Chấn Hải ...) trả lời có
đúng là cờ màu vàng để
báo hiệu trên tàu có ngừơi mang bịnh
dịch hạch hay không. Nhưng nói
về Bá Đa Lộc mà không biết gì
về Bá Đa Lộc ... là điều
đáng trách.
Xin mở sách Đại Nam Liệt Truyện
Chính Biên, trang 476
tập 2 (sử liệu của nhà Nguyễn, do Quốc
Sử Quán biên soạn, xuất bản dưới
thời vua Tự Đức, được dịch ra tiếng
Việt, Viện Sử học Hà Nội, nhà xuất
bản Thuận Hoá, 1993) nói rõ: Bá Đa
Lộc gặp vua Gia Long (lúc đó chưa lên
ngôi, còn gọi là Nguyễn Vương tức
Nguyễn Phứơc Ánh) vào năm Canh Tý
(1780), năm Nhân Dần (1782), Gia Long bị Tây
Sơn vào đánh, phải chạy ra đảo
Phú Quốc, cũng gặp Bá Đa Lộc ở
đó, năm Quý Mão (1783) vua Gia Long chạy
trốn Tây Sơn ở các đảo trong vịnh
Thái Lan, Bá Đa Lộc qua Xiêm, năm
Giáp Thìn (1784), Gia Long nhờ Bá Đa Lộc
đem Hoàng tử Cảnh qua Pháp cầu viện,
mãi đến 4 năm sau mới về.
Năm Kỷ Dậu (1789) Gia Long lấy lại Gia
Định. Cũng trong năm nầy, vua Quang Trung nhà
Tây Sơn đánh thắng quân Thanh tại
Thăng Long ... (chiến thắng Đống Đa)
...Vì nước Pháp từ chối không thực
hiện lời hứa giúp Gia Long nên Bá Đa
Lộc đã dùng tiền bạc riêng của
mình (quyên góp được) mua tàu bọc
đồng và súng đạn của Tây
phương ... đem về giúp Gia Long và giới
thiệu một số người Pháp đang
làm sĩ quan trên các tàu buôn về
giúp Gia Long ...
Năm Kỷ Mùi (1799), Bá Đa Lộc bị
bệnh mất tại Gia Định. Vua Gia Long đã
tổ chức đám tang rất lớn, xây
lăng mộ và dựng bia đá ghi công ...Tiếng
Việt gọi Linh Mục là Cha hay ông Cha và
Giám Mục thì gọi là Cha Cả là
người có vai vế lớn hơn các Cha ...
Do đó lăng mộ của Giám Mục Bá
Đa Lộc được dân chúng gọi
là Lăng Cha Cả (trước
1975 lăng nầy ở gần phi trường Tân
Sơn Nhứt, sau 1975, CSVN đã ra lệnh
phá hủy lăng mộ nầy, hài cốt
và bia đá được đưa về
Toà Giám Mục Sài Gòn quản lý
...)
Trên bia đá, Gia Long gọi Bá Đa Lộc
là Thượng Sư. Nội dung bia đá nầy
đã được cụ Tiến sĩ Nguyễn Sĩ
Giác dịch ra tiếng Việt, đăng trên
báo Văn Hoá (do Phủ Quốc Vụ Khanh đặc
trách văn hoá thời cụ Mai Thọ Truyền
làm việc ... xuất bản tại Sài Gòn
trứơc 1975) Tôi còn nhớ câu mở đầu
văn bia được dịch ra tiếng Việt như
sau: “Nhà Thầy họ Bi Nhu người nước
Pha Lang Sa...”
Bá Đa Lộc là tên phiên âm chữ
Hán, tên tiếng Pháp là Pigneau de Béhaine (évecque
d’Adran: Giám Mục
hiệu tòa Adran) ...
Người đặt ra chữ Quốc
ngữ là Alexandre de Rhode (phiên âm là Á
Lịch Sơn Đắc Lộ) vào thế kỷ thứ
17 chứ không phải Pigneau de Béhaine
(Bá Đa Lộc) ... Bá Đa Lộc đã chết
từ năm Kỷ Mùi (1799) làm sao có chuyện
đem Hoàng tử Cảnh đi Tây sau khi Pháp
chiếm Nam Kỳ ...
Còn một chi tiết khác, năm 1858 cũng
không phải là năm Pháp chiếm 3 tỉnh
Nam Kỳ (chúng ta nhớ hòa ước 1862
ký kết giữa vua Việt Nam và Pháp,
nhường 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ
và năm 1867, Pháp đánh chiếm luôn 3
tỉnh miền Tây Nam kỳ) ... Xem như vậy đủ
biết, khi viết về các sự kiện lịch
sử, Ông Tú cũng không thèm xem lại sử
sách để khỏi nhầm lẫn ...
(5). Về chuyện “Cờ Quẻ Ly”...
Ông Tú viết “Sau
đó, cờ vàng 1 sọc đỏ được
biến đổi theo các thầy địa lý.
Thay vì 1 sọc đỏ, chính phủ nghe thầy
địa lý chia sọc đỏ làm 3 sọc nhỏ,
ngắn hơn sọc đỏ của cha Bá Đa Lộc.
Đặc biệt là sọc ở giữa được
cắt làm 2, ở giữa có khoảng trống
vì thầy địa lý quan niệm dựa
vào quẻ ly, khỏng trống để lưu
thông hay kinh mạch qua lại dễ dàng. Quẻ
Ly là một trong 4 quẻ của LONG, LY, QUY, PHƯỢNG”.
Như
đã nói trên, Giám Mục
Bá Đa Lộc không có mang cờ gì
đi theo và cũng không phải là người
làm ra lá cờ “vàng có sọc đỏ”
như ông Tú nói. Quẻ Ly là 01 trong 64 quẻ
Dịch, quẻ LY thuộc Hoả và chỉ
phương Nam. Hai chữ Hỏa chồng lên nhau
là chữ Viêm (bốc cháy), ý nghĩa
là điềm hưng vượng (gọi là Hoả
Hoà Ly). Trong 64 quẻ của Dịch
Lý không có quẻ nào là Long, Ly, Quy,
Phượng (Ly hay Lân tức là con Kỳ
lân) đó là 4 con vật linh thiêng gọi
là “Tứ Linh” (trong Tử Vi có 4 sao : Long trì,
Phượng các, Bạch hổ, Hoa cái... gọi
là tứ linh) ... Chắc ông Tú có quen biết
với nhà báo Vũ Công Lý ... nếu
ông Tú không tin lời của Nguyễn
Lý-Tưởng, xin hỏi người bạn (Vũ
Công Lý) sẽ được giải thích
rõ ràng ngay ...
Cờ Quẻ Ly ra đời
năm 1945 do cụ TRẦN TRỌNG KIM, một nhà
giáo, học giả kiêm sử gia làm Thủ
Tướng dưới thời vua Bảo Đại. Quẻ Ly có 3 sọc mà sọc
ở giữa rời ra. Còn cờ VNCH (hay cờ quốc
gia Việt Nam) ra đời dưới thời Quốc
Trưởng Bảo Đại (sau khi thoái vị năm 1945, vua Bảo Đại
qua Hồng Kông tỵ nạn, tiếp tục tranh đấu
đòi Pháp trả độc lập cho Việt
Nam ... Các tôn giáo và chính đảng
quốc gia chống Cộng làm hậu thuẫn cho
ông ... Cuộc tranh đấu rất gay go mới
được độc lập và thành lập
Quốc Gia Việt Nam với Bảo Đại làm Quốc
Trưởng có hành chánh, tài chánh,
quân đội, ngoại giao riêng và được
các nước trên thế giới công nhận
... không phải Pháp
đưa về làm Quốc Trưởng đâu !
Có Quốc Trưởng Bảo Đại , có
chính quyền quốc gia, có quân đội quốc
gia ... rồi mới có Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm do Quốc Trưởng Bảo Đại
bổ nhiệm, mới có các sĩ quan như
Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu ... xuất
thân từ Quân Đội Quốc Gia thời Quốc
Trưởng Bảo Đại ... sau nầy lên tới
Trung Tướng, Đại Tướng, Thủ Tướng,
Tổng Thống ...)
Thời cụ Trần Văn Lý làm Chủ
Tịch Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ,
nhiều người đề nghị mẫu cờ Quốc
gia Việt Nam trong đó có LM Trần Hữu
Thanh, hoạ sĩ Tôn Thất Sa ở Huế, ông
Trần Điền (lúc đó làm Giám
Đốc Thông Tin Trung Việt), lúc đầu
có nền vàng ba
sọc đỏ và có hình con rồng, sau anh
em góp ý, bỏ con rồng đi chỉ còn lại
3 sọc đỏ ... Theo quẻ dịch:
3 đường ngang liền nhau là Quẻ Càn chứ không phải quẻ
Ly
Về sau mẫu cờ nầy được
chính thức là Quốc Kỳ của quốc gia
Việt Nam (Ông Ngô
Đình Diệm đổi tên nước là
Việt Nam Cộng Hòa). Cờ của Việt Nam CS
bây giờ là cờ của Việt Minh (nền
đỏ sao vàng) đó là mẫu lá cờ
của Cộng Sản Trung Quốc (nền đỏ
có 5 ngôi sao vàng: Hán, Mãn, Mông, Hồi,
Tạng tức là ngũ tộc của Trung Quốc). Hồ Chí Minh bắt chước theo Trung Cộng,
là một ngôi sao nhỏ, đàn em của Mao
Trạch Đông, đàn em của Trung Cộng ... Ngày nay, đất nước
dân tộc phải chịu nhục nhã như thế
nào đối với đàn anh Trung Quốc
thì mọi người đã hiểu rồi !
Ngày
21/5/2008
Nguyễn Lý-Tưởng
(NGỌC YẾN sưu tầm và
chuyển)