Ngày tháng 6 năm 1906, vừa độ các trường
nghỉ hè, tôi cũng đi thăm một vị
sư ở chùa hàng Bưởi, về hạt Thuận
Thành tỉnh Bắc Ninh. Đến nơi th́ bản sư
cùng tăng chúng đi đọc hạ (1) bên chùa
Thiên Thai, từ mấy hôm trước. Bấy giờ
trời đă gần hôm, tôi phải nghỉ lại
đó. Một ḿnh ngồi trong pḥng khách trông sang hiên
tây, vắng ngắt không có người đi lại.
Bóng chiều phản chiếu, lá cây lẫn với
rêu sân một màu nhàn nhạt, trong cảnh thanh tịch
hiện ra một cái vẻ thê lương, khiến
cho ḷng kẻ khách du ngao ngán nỗi mây ngàn hạc nội.
Trong một cái pḥng sâu và tối, nghe có tiếng người
ho khoải khắc (2). Hỏi ra mới biết là một
vị hành tăng (3) tạm trụ cảnh chùa để
xem kinh và dưỡng bệnh. Tôi liền tới nơi,
có ư cùng sư nói mấy câu chuyện nhà chùa cho
khuây cơn sầu tịch.
Bước vào, vừa thấy một người chừng
năm mươi tuổi, mặt xanh ḿnh gầy, ngồi
tựa lưng vào cột, nét mặt đăm
đăm, trông ra cửa sổ, thỉnh thoảng thở
dài một cái, như đem bao nhiêu cái uất cái năo
đă chất chứa trong óc nhờ hơi thở
để tiết ra bên ngoài. Tôi sẽ lên tiếng
mà chào:
- A di đà Phật! Tôi là người có quyến thuộc
với sư bản tự (4) đến chào người.
Người kia nh́n tôi lúc lâu, rồi nói một tiếng
nặng nề rằng:
- Thầy hăy đứng xa tôi ra. Tôi là một người
có tội: tôi là người sắp xuống địa
ngục. Thầy hỏi tôi làm ǵ?
Tôi nghe nói phát lạnh cả người, như ḿnh
đứng bên ma quỷ. Tôi nói:
- Tội nghiệp thay, người ở cảnh nào?
Người có bệnh ǵ? Sao người không vào nhà
thương mà uống thuốc?
Người kia nói:
- Tôi không có nơi thường trụ. Bệnh tôi
đă lâu, không có thể chữa khỏi, mà cũng
không ai có thể chữa khỏi; chẳng bao lâu mà
tôi sẽ ra người dưới cửu trùng địa
ngục. Thôi, thầy về pḥng khách mà nghỉ.
Nói rồi cứ đăm đăm trông ra cửa sổ.
Tôi lui về pḥng khách, cứ một ḿnh ḿnh nghĩ:
người này hẳn có oan nghiệt ǵ đây, cho
nên cái lương tâm nó cứ dơi theo mà cắn giắt
(5), ấy là một sự h́nh phạt rất nặng.
Than ôi sinh, lăo, bệnh, tử là bốn nghiệp của
loài người, đă có thân phải có nghiệp.
Ḱa người đă xả thân diệt tục c̣n phải
mang lấy nghiệp vào ḿnh, huống chi người túng
dục tứ t́nh (6), biết bao giờ cho ra khỏi bến
mê bể khổ.
Đương ngồi đương nghĩ thấy
thoáng có bóng người vào cửa, như có hơi
gió lạnh thổi lọt vào ḿnh, sởn cả gai
ốc. Trông ra th́ là người bên tây hiên, bước
vào kéo ghế mà ngồi. Tôi cũng vội vàng đứng
lên mà chào hỏi. Người kia liền nói:
- Hẳn thầy đang nghĩ ngợi về việc
tôi. Nếu tôi không nói chuyện cho thầy nghe, để
cái nghi đoan (7) bận trí khôn cho thầy cũng không
phải. Vả lại, chẳng bao lâu mà tôi sẽ bỏ
cái thế giới này, cũng nên đem chuyện ḿnh
để làm gương cho thiên hạ. Tôi xem thầy
cũng là người văn sĩ, cũng nên kư lấy
những nỗi khắt khe ở đời, điều
hay để mà khuyên, điều dở để mà
răn, cũng không phải là sự vô ích.
Tôi nói:
- Người ta ai cũng có điều hay điều
dở, hễ biết dở ấy là người hay.
Cho nên đạo Thích ca cho chúng sinh sám hối, đạo
Thiên chúa cho con chiên rửa tội. Nếu người
đă sẵn ḷng nói thật, tự ḿnh không phụ
với lương tâm, trời Phật nào chẳng chứng
minh cho ḷng người ngay thật.
Người kia ngồi đối diện với tôi
mà nói:
- Tôi họ Trần, hiệu là Nguyễn Khuê, người
Hà Đông. Cha mẹ mất sớm ở với chị,
cũng cho ăn đi học. Năm 15 tuổi chị
chết, anh rể lấy vợ khác, thế không
ở được, phải bỏ mà đi. May gặp
một bà họ Lư, ở một làng bên, thấy con
nhà khốn khó, đem về mà nuôi. Bà không có con
trai, chỉ nuôi một người cháu gái tên là Lư
cô. Bà thấy tôi đă lớn, cho lên tỉnh vào
tràng (8) Pháp Việt mà học.
Nghĩ tôi có khác ǵ chiếc lá ĺa rừng, con chim lạc
tổ; sao cho khỏi sa ngă ch́m đắm đă là
khá, c̣n mong ǵ sự học hành, dù có thiên tư thông
tuệ thế nào, cũng phải đoạ lạc ra
con nhà thất giáo (9). Nay thân trầm luân đă
được nhờ tay tế độ, được
ấm no, có giáo dục tưởng cái ân cái nghĩa
ấy, biết lấy ǵ mà trả cho phu (10).
Một hôm nhân ngày nghỉ học, tôi về thăm Lư
bà. Bà lấy mẹ con mà xưng hô, t́nh âu yếm,
cách ôn tồn, đă cảm động ḷng tôi cho
đến rơm rớm hai hàng nước mắt. Tôi
nói: "Tôi là một đứa con nhà bạc đức,
đă không cha không mẹ lại không anh không em. Trời
đất sinh tôi ra có ư đày đoạ vào một
đời khốn cùng khổ nhục, dù bà có ḷng từ
thiện thế nào, không tô điểm đất bùn
cho nên tượng được". Lư bà nói:
"Già hiếm hoi, thèm chút con hiền cháu thảo, thấy
con cũng là con nhà lương thiện, coi người
dĩnh ngộ, có vẻ thông minh, để già sớm
khuya bầu bạn và tin cậy về sau. Con ôi,
đường sinh phúc con c̣n dài, việc ǵ mà lỗi
chí (11). Từ nay mẹ khuyên con phải phấn phát
tinh thần, học hành tấn tới cho bằng người,
cho khỏi phụ ḷng mẹ đă thương con ngày
nay". Nói rồi Lư bà gọi Lư cô đến mà bảo:
"Nay Trần sinh đă là người trong một nhà,
cháu phải lấy đạo anh em mà xử, không có
điều ǵ phải hiềm nghi, phải giúp anh mày
những việc mà mày có thể làm được".
Lư cô nghe nói, sẽ ngoảnh lại mà chào tôi, rồi
cứ cúi đầu mà đứng. Tôi vô ư cứ
chú mắt mà nh́n, làm cho Lư cô thẹn đỏ cả
tai cả cổ. Lư bà biết ư gọi Lư cô ra ngoài
nói sang chuyện khác. Tôi cũng ngơ ngẩn hồi
lâu, rồi xin trở về trường học.
Tự bấy giờ Lư cô thường đem tiền
gạo cho tôi ở nhà trọ, vá may giặt gịa
đều là việc Lư cô. Lần kia tôi phải
đau ở nhà trọ, một tay Lư cô thuốc thang cơm
nước; thực là một người có nữ
công, có đức hạnh; con nhà khuê tú chưa dễ
đă có mấy người. Vả từ thuở nhỏ
đă quen ăn cần ở kiệm, không nhiễm một
chút ǵ là thói đăng t́nh kiêu.
Một bữa, Lư cô bưng thuốc đến, tôi lấy
lời cảm tạ mà bảo Lư cô rằng: "Lư
cô đă khó nhọc với tôi là biết dường
nào! Tôi là con nhà bạc đức, sống thác có kể
chi mà cái ân cho toàn, nghĩa trân trọng của Lư cô
tôi biết lấy ǵ mà đền bù cho xứng đáng?"
Lư cô nói: "Việc giúp đỡ anh em cũng là việc
trong nhà, có ǵ mà kể ân kể nghĩa". Tôi nói:
"Tôi thương Lư cô hết ḷng, không biết Lư
cô có thương tôi như thế không?" Lư cô
nói: "Anh em thương nhau là lẽ tự
nhiên". Tôi nói: "Tuy nhiên, chẳng những tôi thương
Lư cô v́ t́nh anh em, và thương Lư cô v́ t́nh
...:". Nói đến đây tôi ngừng lại. Lư
cô lại hỏi: "C̣n v́ t́nh ǵ?" Tôi nói:
"V́ t́nh ân ái". Lư cô nh́n tôi một cách nghiêm
nghị mà nói: "Tôi không hiểu lời anh nói.
Thôi anh uống thuốc đi kẻo nguội, tôi cũng
phải về kẻo cô mong".
Nói rồi thảo thảo (12) ra về, đến cửa
c̣n trông lại.
Bấy giờ tinh thần tôi chuyên chú vào ḿnh Lư cô.
Lư cô mới mười sáu tuổi, kém tôi hai tuổi.
Như trăng c̣n non, như hoa c̣n tụ, chưa có thể
lấy t́nh động, lấy ư dụ. Vả Lư bà
đă hứa nhận ḿnh là con nuôi, hẳn không có ư
cho ḿnh là cháu rể. Nếu nghe Lư cô kể lại những
lời thô bỉ của ḿnh vừa rồi, có khi bao
nhiêu ḷng âu yếm xưa nay sẽ đổi ra t́nh yếm
bạc (13). Tôi cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn, nửa
thẹn nửa buồn. Sau thấy Lư cô vẫn đi
lại như thường, mới yên ḷng dần dần.
Từ đó không c̣n dám giở thói khinh bạc ra nữa.
ấy là sự giao thiệp lần thứ nhất của
tôi với người họ Lư; mà chính là điều
ân sâu t́nh nặng đă in sâu vào óc đă nhuộm
vào ḷng, không bao giờ tôi quên đi cho được.
Năm 20 tuổi, tôi thi đỗ thông ngôn (14), 21 tuổi
bổ lên thượng du. Vừa được bảy
tháng thuỷ thổ bất phục (15), phải cáo mà
về. Lần ấy Lư cô lại vất vả nuôi
tôi hơn là lần trước.
Một tối tôi đang băn khoăn dằn dọc
v́ mối t́nh riêng, Lư bà liền lại mà hỏi rằng:
"Nay bệnh con đă thanh thả, sao c̣n trằn trọc
canh khuya! Nay con đă đến ngày khôn lớn, mà mẹ
cũng một tuổi một già, mong cho con trẻ sớm
thành gia thất, để già được yên ḷng.
Nay Lư cô là con nhà có nết, có thể giúp cho con trong
việc tảo tần, thực đă hoa vừa thắm
cánh, trăng vừa tṛn gương; để đợi
ngày lành tháng tốt, mẹ hăy định liệu cho
chúng con thành duyên phu phụ".
Tôi nghe nói như thừa ngọc sắc (16) tự chín
tầng mây trời chuyền xuống, mừng mừng
tủi tủi, không biết lấy ǵ mà h́nh dung.
Chẳng bao lâu nguyện xưa đă vẹn, duyên mới
càng nồng, thực là cái hạnh phúc mà sinh b́nh tôi
mới được hưởng là lần thứ nhất.
Bây giờ Lư bà đă nên vật hóa (17), Lư cô cũng
c̣n phải trầm oan. Trời ơi! Biết bao giờ...
Đến đấy tiếng thổn thức làm cho dứt
câu nói, cứ gục đầu xuống cánh tay mà
khóc, nước mắt ṛng ṛng, không ngẩng đầu
lên được.
Chưa biết câu chuyện kết cục ra làm sao,
mà cái t́nh đau đớn của người này
đến cực điểm. Một lúc nhà sư lại
ngồi ngay lên, hai tay ôm lấy ngực, lông mày chau lại
thành một cái rănh giữa trán, vai so lên tận tai.
Trông bộ gớm ghiếc, như một người
tù bị giam đă lâu nay đem ra mà hỏi án.
Tôi trông mặt cầm ḷng không đậu, bảo hăy
ngồi yên mà nghỉ cho khỏi mệt. Nhà sư mỉm
cười miễn cưỡng làm bộ mạnh mẽ,
cho tôi khỏi chán. Rồi cứ tiếp tục mà
nói: "Chúng tôi cùng hưởng cái lạc cảnh
đoàn viên trong gia đ́nh được hơn một
năm, sinh được một đứa con trai, rồi
tôi lại bổ ra làm thông ngôn dưới tàu trận
(18), nay đóng cửa này, mai ra bể nọ. Từ bấy
giờ lại kẻ ra hồ thỉ bốn phương,
người chịu sớm hôm chiếc bóng, sum họp
có ít biệt ly th́ nhiều; thương thay! Sự
sinh hoạt của chúng tôi nó đă tiêu ma mất bao
nhiêu là cái thanh niên hạnh phúc!
Sáu năm sau tôi mới lại được đổi
về toà Sứ ở trung châu, th́ Lư bà mất đă
hết việc (19), bao nhiêu di sản cũng để
lại cho vợ chồng tôi. Đứa con trai tôi cũng
đă biết đi học. Làm việc ở toà Sứ
như tôi cũng là bậc có danh giá, từ tỉnh
quan cho đến phủ huyện ai cũng tới lui,
cho nên bổng lộc cũng nhiều mà chi tiêu cũng
lắm. Tưởng ngày nào vợ c̣n cắp từng
rổ khoai, đội từng thúng gạo đi nuôi
chồng, nay đă dù che ngựa cưỡi, ăn trắng
mặc trơn, sự hy vọng của chúng tôi, tưởng
thế đă là măn nguyện.
Ai ngờ no đủ sinh ra dâm dật, quyền quư
sinh ra kiêu căng; sự tai hoạ ở đời
thường phát đoan (20) từ những khi đắc
chí.
Một hôm tôi vừa ở nhà hầu ra thấy có
cái xe sừng sực (21) trước mặt đi lại,
một người trong xe bước xuống mà nói:
"Thầy quên tôi rồi ư? Tôi đă đến
mấy hôm nay, cứ đi t́m thầy măi". Tôi cũng
mừng rỡ mà nói: "Chào cô Ba". Cô Ba nói:
"Quan lớn tôi đă về, có khi không sang đất
thuộc địa nữa". Tôi vừa cười
vừa nói: "Thế th́ cô Ba càng được tự
do". Cô Ba nói: "Phải, chẳng thế sao tôi
được đến đây mà t́m thầy?"
Nguyên người này là vợ một viên quan ở
tàu trận. Vẫn ở trên bộ, trước có
dan díu cùng tôi. Ngày nay lại gặp, không kịp tính
gần tính xa, cứ đón rước về nhà, nhận
là người quen thuộc cũ.
Đại để những người đă lũa
(22) đường giao thiệp, không quen lấy lễ
phép buộc ḿnh, từ lời ăn tiếng nói cho
đến nết đứng nết ngồi, đều
đủ cho người ta chỉ trích. Trong bấy
nhiêu ngày cô Ba lui tới ở nhà tôi th́ Lư cô miệng
nói không ra, mà thực như đanh đóng trong con mắt.
Sau tôi phải thuê một cái nhà khác cho cô Ba ở,
mà một ḿnh tôi cứ tả xung hữu đột,
như ông chiến tướng đứng giữa trùng
vi. Một là tránh cho khỏi tiếng ch́ tiếng bấc
trong gia đ́nh, hai là dê béo rượu nồng; ai thấy
của trời mà chẳng tiếc. Thân thế tôi bấy
giờ chẳng khác ǵ Tiết Đinh Sơn đă
hăm vào mê hồn trận, lên, lui, tả, hữu, chẳng
c̣n bước nào là một bước quang minh. Mấy
nơi ca quán, mấy chỗ để trường, không
chỗ nào là không có tôi với cô Ba làm khai mạc chủ.
Một hôm canh đă tàn, rượu đă tỉnh,
cô Ba ngần ngại mà nói với tôi rằng: "Sự
hành lạc của chúng ta nay sắp đến ngày thu
cục (23), vậy phải liệu mà tính cách duy tŕ,
cuộc cạnh tranh có nhanh chân, nhẹ bước mới
hơn người, nếu ngồi chờ nước
đến chân có khi nhỡ bước. Tôi ngắm
anh cũng có vẻ phát đạt, sao anh không liệu
thế mà ra làm quan? Cứ lấy tài lực tôi mà
xem, tưởng cũng là việc dung dị (24)". Mới
nghe thấy hai chữ "làm quan" th́ tôi rộn rịp
cả tâm thần, như ai đă mở lá cờ trong
bụng, xưa nay chỉ tơ tưởng quan lớn,
bây giờ hóa ra sự thực th́ biết đâu? Tôi
vội vàng hỏi: "Nói chơi hay nói thật?
Đường sĩ hoạn bây giờ mỗi ngày một
hẹp; có phải đồ trong túi đâu để
tuỳ ư ḿnh vơ vét". Cô Ba tủm tỉm mà
nói: "Không phải nói chơi. Nếu mấy tay cốt
yếu với ḿnh đă là người quen; nhất sắc
nhị tài (25), thiên hạ c̣n có sự ǵ là
khó!".
Tôi mới nghe, mặt nóng lên bừng bừng, sau lạnh
như nước đổ vào lưng, bao nhiêu ư khí
tiêu ma đi đâu mất cả. Nghĩ ḿnh với
người này chẳng qua là duyên gặp gỡ, có
lư ǵ lấy trinh bạch mà buộc nhau. Và xem tính
t́nh cô Ba như chim ngoài lồng, như thú sổ cũi,
hồ dễ chịu cho ai lung lạc hay cơ my (26), của
tam bảo chỉ để bố thí cho thập phương
ai có duyên th́ hưởng. Tôi làm bộ ngẩn ngơ
mà nói: "Tôi coi cô Ba mày cao trán rộng, đường
đường một vị phu nhân, mà trong số
tôi quan lộc có đào hồng lại là số công
danh phải nhờ nội trợ. Không biết cô Ba sẽ
liệu ra cách nào?". Cô Ba nói: "Muốn ăn lăi
th́ phải bỏ vốn. Thầy cần phải chuộc
về cho tôi mấy bọn đồ vàng là đồ
cần dùng của tôi, c̣n việc ǵ nữa th́ cứ
mặc tôi tuỳ cơ ứng biến".
Tôi vội vàng về nhà vơ vét được bao
nhiêu đưa cả cho cô Ba mà cô Ba vẫn c̣n chưa
đủ dụng. Nghĩ đi nghĩ lại chỉ
c̣n mấy bức văn tự của di sản Lư bà
để lại và c̣n ở tay Lư cô, phải lập
thế mà lấy cho được, thế là hết.
Tối hôm ấy về nhà, thấy Lư cô đang ngồi
dưới bóng đèn mà vá áo. Tôi ghé lại mà bảo
rằng: "Nay v́ chút công danh nên phải tiêu cũng
tốn. Tôi muốn mượn mấy bức văn tự
của Lư bà để lại. Rồi đây có bổng
có lộc lại kiếm ra bằng trăm bằng ngh́n
bấy nhiêu, bấy giờ cũng của chồng công
vợ chớ đi đâu mất mà sợ". Lư cô
vội gạt lời tôi đi mà nói: "Thôi, lâu nay
tôi đă biết thân phận mẹ con tôi rồi.
Công danh phú quư cũng xin nhường cả cho ai. Thầy
hăy xem tôi bây giờ đă ḿnh trần tay trắng
c̣n có cái ǵ mà cho ai nhờ được nữa".
Nghe mấy tiếng châm phong (27), tôi đă tím gan tức
ruột phải bấm bụng mà lui ra. Vừa gặp
cô Ba vồn vă mà hỏi: "Này, đây vừa có
tin may mắn lắm, thật là cái dịp tốt cho
ḿnh. Nào khoản tôi bảo thầy biện đă
đủ chưa? Sợ chậm ra th́ nhỡ cả".
Nhiệt trường của tôi bấy giờ lại
nóng như lửa đốt. Nghĩ đến mấy
bức văn tự phải dùng vũ đoán mới
xong. Tối hôm ấy lại về nhà, không thấy
Lư cô ngồi ngoài. Hỏi con ở nói Lư cô đau bụng,
từ mấy bữa không ăn, phải uống thuốc
mới vào pḥng nghỉ.
Tôi biết ngay Lư cô thóai thác: vợ con như thế,
c̣n nhờ nhau lấy ǵ! Tôi vào ngay chỗ nằm mà
hỏi: "Mấy bức văn tự cô để
đâu? Nếu cô chối tôi một lời là có sự
chẳng lành đến tính mệnh". Lư cô c̣n tưởng
là nói doạ, cứ thủng thỉnh mà nói: "Văn
tự nào của thầy mà cứ tra hỏi?". Nói
rồi lại cứ nằm vật xuống. Tôi căm
quá, vừa bước ra rít lên một tiếng. Như
có người giẫy lại, hai con mắt nóng như
kéo màng, bao nhiêu mạch máu trong ḿnh sưng lên hết.
Bấy giờ tôi trông thấy Lư cô như người
đi săn đè được con thú dữ, cố
đánh cho thật phải phục xuống kẻo chạy
thóat đi chăng. Khi đă móc được cuốn
văn tự ở trong lưng Lư cô, th́ Lư cô không
c̣n một hơi thở. Tôi cũng bước rảo
ra mà đi thẳng. Đem cuộn văn tự kư lấy
mấy trăm đồng bạc mà đưa hết
cho cô Ba.
Mấy hôm sau, lén về nhà, vừa đến cửa
đă thấy rộn rịp kẻ vào người ra,
nghe nói Lư cô phải chứng băng huyết đă mấy
hôm nay nguy lắm. Thấy nói chột dạ mà ḿnh
không mặt nào dám vào trông thấy Lư cô, cứ bàng
hoàng thất thế, như người không hồn
không vía. Dù xin phép ở nhà nuôi vợ ốm, cũng
cứ lẩn lút một nơi, bưng mặt mà khóc.
Một hôm thấy thằng con chạy lại, mắt
hoe hoe đỏ nói: "Mẹ cứ gọi thầy
măi, xin thầy vào". Tôi liền theo đứa con mà
vào. Lư cô c̣n trông tôi miệng muốn nói mà không nên
tiếng nữa. Tôi đứng chân không vững, dựa
ḿnh vào vách, hai tay bưng lấy mặt, tưởng
ḿnh như một đứa tù nặng đưa ra mà
xử án. Thấy có người vực tôi ra ngoài rồi
mê thẳng đi. Việc Lư cô mất rồi tống
táng ra làm sao không biết ǵ nữa.
Bâng khuâng tưởng ḿnh ra khỏi cửa lại
t́m đến nhà cô Ba. Trông lên nhà gác, không có bóng
đèn, đă hồ nghi. Hỏi người ở nói:
"Cô đi chơi ngay từ hôm thầy không ở
đó". Hỏi cô đi với ai? Người
ở nói: "Cô đi với một ông khách lạ".
Tôi tưởng chẳng có lẽ thấy anh vừa dốc
túi mà chị đă đổi ḷng; hẳn cô này
đi vận động câu chuyện của ḿnh, hăy
chờ lâu thế nào cũng có giai tín. Cô này những
lúc biếng son nhạt phấn, tóc xoă ngang vai áo che nửa
ngực, cũng đủ cho người ta điên
đảo, huống lại vàng đeo ngọc giắt,
gấm bọc hoa cài, th́ sắt nào mà chẳng ngây,
đá nào mà chẳng chuyển.
Tôi lại thơ thẩn đi ra, vừa đến cửa
nhà hát, thấy suưt qua một cái xe ngựa. Người
trong xe chính là cô Ba ngồi với một người
luật sư, nhác thấy tôi ngoảnh mặt làm
thinh, giục đứa đánh xe ra roi cho ngựa tế.
Tôi cứ đứng đực một bên đường,
rồi đến nhà một người chị em mà
hỏi chuyện, vừa đến, người chị
em đưa cho tôi cái thư của cô Ba để lại.
Tôi bóc tuột cái thư ra mà xem. Thư rằng:
"Anh Phán, khi anh đọc cái thư này, th́ tôi
đă thuộc về tay một người khác. Duyên
kỳ phùng chúng ta có thế mà thôi, không c̣n bồi
tiếp với anh được nữa. Xin anh về
hà mà hưởng cái hạnh phúc vợ hiền con thảo,
bấy giờ sẽ quên có biết một người
con gái tên là cô Ba. Cái khoản anh đă gửi cho tôi
cũng đủ chi son phấn. Cảm ơn anh lắm".
Đọc cái thư rồi, mắt nẩy đom
đóm, tay run cầm cập, như con thú dữ phải
cái tên thuốc mà phát điên. Muốn hét lên một
tiếng: "Ai ngờ?" giật ḿnh thành ra một
cơn ác mộng.
Biết chính ḿnh đă phạm một tội rất
lớn là tội giết người, biết Lư cô
đă chịu khuất nhục đau đớn mà chết;
biết cái ḷng tham dục ḿnh nó đă đưa dắt
ḿnh vào những đường tội lỗi, biết
nhân t́nh thế lợi chẳng qua là một cảnh
chiêm bao, bấy giờ óc tôi không sao mà chứa cho hết
những điều hối hận. Thôi! Ḿnh đă vị
một người xấu xa, rất hèn hạ, mà phụ
với một người đáng quư hóa, đáng
ơn nghĩa; mặt mũi nào c̣n đối với
mọi người? Lư cô có biết cũng tha thứ
cho tôi chăng? Đa mang phóng túng cũng là cái thông bệnh
của người đàn ông, c̣n tội ngộ phạm
của người nóng, cũng như người
điên, hoặc có thể nguyên t́nh mà khoan giảm.
Tuy nhiên cái lương tâm tôi nó càng nghiêm nhặt,
nó bắt tôi nhớ măi cái tội tôi, rửa cũng
không phai, mài cũng không sạch, đă mười
năm nay, tôi bỏ hết mọi sự ái luyến
ở đời, đă quy y đầu Phật, đội
đức từ bi, mở đường tế độ,
cho tôi gặp lại bạn tôi cùng về chính giác.
Đứa con tôi cũng theo chúng bạn mà đi Sài
G̣n. Khi đi có gửi lại cho tôi một cái thư,
xin thầy hăy đọc cái thư này, th́ biết can
tràng con trẻ...".
Nói rồi đưa tôi một cái thư gói kỹ lưỡng
lắm, rồi cứ dựa ghế mà ngồi, hoặc
sa nước mắt hoặc cau đôi mày, t́nh thái
thê lương, lâu lâu thiu ngủ.
Tôi đem cái thư đến bóng đèn mà đọc.
Thư rằng:
"Thưa cha. Tôi là một đứa con trẻ rất
khốn nạn (28). V́ chính mắt con đă làm chứng
một cái thảm kịch đáng kinh hăi đă diễn
ra ở trong gia đ́nh. Cái ác cảm ấy không bao giờ
cho con khuây đi được. Thù mẹ khôn trả,
nghĩa cha chưa đền, thực con không đáng
kể là một người trên thế giới. Nếu
con chưa t́m đến non cao vực thẳm cũng v́
không nỡ để cha thêm nặng tội t́nh. Xin
cha hăy quên có sinh đứa con tên là X... hăy sẵn
ḷng mạnh mẽ ăn năn cải hối. Sự
sum họp của chúng ta ở nơi chín suối, ngày
hăy c̣n dài".
Tôi vừa đọc cái thư xong th́ nhà sư
cũng vừa thức dậy; hỏi tôi đọc
đă xong chưa. Tôi nói:
- Sự t́nh thuộc thực, th́ cái thương tâm của
người cũng là quá đáng.
Khi về nhà nhân kư đầu đuôi như thế.
Năm sau có người nhà chùa về hội Phủ
Giầy, hỏi thăm, th́ nói: Vị hành tăng
ấy đă tịch tại chùa Thiên Thai ngày tháng Chạp
năm ấy.
Tạp chí Nam Phong,
số 26, Tháng 8 - 1919.
--------------------------------------------------
1. Mỗi năm, sư tăng phải tập trung học
tập kinh sách một thời gian, vào mùa hạ, nên gọi
là "kết hạ", "đọc hạ".
2. Như khúc khắc.
3. Vị sư đi vân du nơi này nơi khác.
4. Chùa sở tại.
5. Cắn rứt.
6. Buông thả t́nh dục.
7. Mối ngờ.
8. Trường.
9. Như thất học.
10. Có lẽ là phủ hoặc phù: vừa, đủ.
11. Bại chí.
12. Tất tả, qua loa.
13. Khinh rẻ.
14. Phiên dịch
15. Không hợp thuỷ thổ.
16. Nhận được sắc chỉ quư báu.
17. Hóa thành vật khác, tức đă chết.
18. Tàu chiến.
19. Măn tang.
20. Bắt nguồn.
21. Như sừng sững.
22. Lũa: thạo, sành.
23. Kết cục.
24. Dễ dàng.
25. Thứ nhất là sắc đẹp, thứ nh́ là
tiền tài.
26. Cơ my hay ky my là dây giàm ngựa, ḅ, ư là ràng buộc.
27. Như mũi kim chích vào ḿnh.
28. Chữ khốn nạn ở đây chỉ có nghĩa
như khốn khổ. Nguyễn Văn Vĩnh thời
ấy dịch Những người khốn khổ là
Những kẻ khốn nạn.