Người Việt có câu "phép vua thua lệ
làng." Những phong tục dân gian lắm lúc
được biết nhiều hơn là những nguyên
tắc chánh truyền. Lễ Thượng Nguyên Rằm
Tháng Giêng là một trường hợp điển h́nh.
Tên Phạn ngữ của đại lễ là Maghapuja
có nghĩa là lễ hội ngày rằm tháng Magha - tương
đương với tháng Giêng theo lịch Trung Hoa. Gọi
là Thượng Nguyên là cách phân chia theo Âm Lịch cùng
với Rằm tháng Bảy là Trung Nguyên và Rằm tháng
Mười là Hạ Nguyên. Người Phật tử
Việt Nam thường đi chùa xin dâng sớ cầu
an cúng sao giải hạn. V́ là ngày Rằm đầu
năm nên các chùa tổ chức lễ rất trọng
thể.
Đại lễ Rằm Tháng Giêng theo truyền thống
Phật Giáo mang hai ư nghĩa: Thứ nhất kỷ niệm
ngày Đức Phật thuyết kinh Giải Thoát Giáo tại
Thánh Hội Tăng Già. Thứ hai kỷ niệm đánh
dấu ngày Đức Phật công bố Giáo Pháp đă
được thiết lập vững vàng và Ngài sẽ
viên tịch trong ba tháng nữa.
Kinh Giải Thoát Giáo - Ovadàpatimokkha- là bài kinh cô
đọng về giáo pháp của chư Phật, căn
bản của đời sống tu tập và tôn chỉ
hoằng pháp. Mở đầu bài kinh Đức Thế
Tôn dạy rằng sự cúng dường Đức Phật
bằng cách cao quí nhất là sự hành tŕ Phật
Pháp.
Ai hành tŕ chánh Pháp
Là cúng dường Đức Phật
Bằng cách cao quí nhất
Trong các sự cúng dường
Pháp mà Ngài dạy có thể tóm lược trong ba
điều: không làm các ác nghiệp, huân tu hạnh
lành và thanh lọc tâm ư. Câu kinh nầy đă trở
thành lời toát yếu Phật Pháp quen thuộc với
mọi người Phật tử.
Không làm các nghiệp ác
Năng tu tập hành hạnh lành
Thanh lọc tâm thạnh tịnh
Là huấn ngôn chư Phật
Tiếp theo Đức Phật nhấn mạnh khả năng
kham nhẫn trong cuộc sống tu tập. Vị sa môn
trên đường đạo phải học đức
chịu đựng nhẫn nại. Trước hết
là đối với bản thân. Đức Từ Phụ
nhắc nhở về con đường giải thoát
mà chư Phật truyền dạy đều đ̣i hỏi
sự kiên tâm. Tự chế không nuôi hiềm hận,
nghiêm tŕ giới luật, pḥng hộ các căn, tiết
độ trong ăn uống, sống thanh tịnh độc
cư, sống với tâm hướng thượng là những
pháp căn bản của người cầu đạo
giải thoát.
Diệt ác bằng nhẫn nại
Là pháp môn tối thắng
Chứng giải thoát niết bàn
Là thành tựu tối thượng
Sa môn không hiềm hận
Luôn tinh nghiêm giới luật
Sống pḥng hộ các căn
Tiết độ trong ẩm thực
Sống thanh tịnh độc cư
Hướng tâm cầu giải thoát
Đi xa hơn Đức Phật dạy thế nào là
cái đẹp, cái được, cái nổi bật mà
một người trên đường đạo nên
mong mỏi. Pháp nhẫn nại là trang sức đẹp
nhất; là điều kiện tất yếu cho các thiện
pháp phát triển; là trang sức của người trí;
là vẻ đẹp của người hiền; là
điều kiện dẫn đến những thành tựu
trong cuộc sống. Nhẫn nại là phương cách
diệu dụng hoá giải mọi tranh chấp.
Tất cả các hạnh lành
Lớn mạnh nhờ kiên tâm
Với hiền trí trong đời
Dùng nhẫn là sức mạnh
Làm sang bằng nhẫn nại
Làm đẹp bằng nhẫn nại
Làm giàu bằng nhẫn nại
Thành công với nhẫn nại
Những tranh chấp lớn nhỏ
Hoá giải nhờ nhẫn nại
Đức Phật cũng nêu rơ tôn chỉ hoằng
pháp khi Ngài dạy chư Tăng: Đời sa môn sống
v́ lợi ích của muôn loài. Không dụ dỗ, hăm
dọa, hay dùng phỉ báng, phá hoại tha nhân. Con
đường giải thoát giác ngộ là con đường
của những người tự giác.
Không mê hoặc, doạ hẩm
Không gây thương tổn ai
Sa môn hoằng đạo cả
V́ lợi lạc cho đời
Một học giả Phật giáo gọi kinh Giải
Thoát Giáo là bản tuyên ngôn về tôn chỉ tu tập
và hoằng pháp của Tăng lữ. Bản tuyên ngôn
đó đă được Đức Phật long trọng
tŕnh bày trước một thính chúng toàn bậc thánh
nhơn giải thoát. Tất cả đă im lặng mặc
nhiên đón nhận.
Thánh Hội Tăng Già là một sự cố hy hữu
xẩy ra duy nhất một lần trong thời Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Thuở ấy, Đức Điều
Ngự đang trú ở chùa Trúc Lâm tại thành
Ràjagaha. Đó ngày trăng Rằm tháng Magha (tháng Giêng).
Mặc dù không một lời mời nào, 1250 vị
thánh Tăng tự vân tập về. Tất cả đều
là bậc thánh tứ quả vô lậu giải thoát và
đều xuất gia bằng lời gọi của
Đức Phật: "ehi bhikkhu - thiện lai tỳ
kheo". Những bậc phước huệ vẹn toàn
đó đă ngồi vây quanh dưới chân của
Đấng Đại Giác trong sự im lặng tuyệt
đối. Những lời giản dị nhưng thâm
sâu của Phật được đón nhận bởi
những tâm hồn cao khiết. Dưới ánh trăng
vằng vặc sáng trong vườn trúc, tiếng nói
giác ngộ được nói lên bởi con người
giác ngộ cho một hội chúng giác ngộ. Quả
là một cuộc gặp gỡ vô tiền khoáng hậu.
Rằm Tháng Giêng cũng kỷ niệm ngày Đức
Phật tuyên bố đạo tṛn duyên măn và Ngài sẽ
viên tịch trong ba tháng nữa. Sau 45 năm hoằng
đạo, Đức Phật kết thúc năm sau cùng bằng
cuộc hành tŕnh dài. Năm ấy Ngài đă 80 tuổi.
Con đường từ Ràjagaha về Kusinara ghi lại
nhiều sự cố quan trọng. Tại Vesaĺ, Đức
Điều Ngự "với cái nh́n của con voi
chúa" đưa mắt quanh núi đồi thanh tú của
xứ Vajji lần sau cùng. Buổi trưa hôm đó tôn
giả Ananda vị thị giả của Đức Như
Lai cảm nhận sự rung chuyển mạnh của một
cơn động đất trong khi đang thiền tịnh.
Tôn giả đến gặp bậc Đạo Sư và
từ kim khẩu của Phật tôn giả được
biết rằng Đức Phật đă quyết định
sẽ viên tịch sau 3 tháng tới. Không cầm
được nước mắt, người đệ
tử trung kiên nầy đă khẩn cầu Đức Phật
trụ thế lâu hơn. Đức Phật ôn tồn:
Hỡi Ananda, các con c̣n chờ đợi ǵ nữa
ở Như Lai. Giáo pháp đă được truyền
dạy đầy đủ không có ǵ giấu kín. Bốn
chúng đệ tử đă được hướng
dẫn đầy đủ trong việc tu học. Pháp
và Luật đă được giảng giải tường
tận. Rất dễ dàng cho hậu thế chia sẻ
tâm trạng của tôn giả Ananda nhưng cũng không
thể quên rằng sự hoàn tất ngôi nhà giáo pháp của
Đức Phật là một sự kiện thiêng liêng
để kỷ niệm.
Rằm Tháng Giêng cũng được gọi là
Ngày Pháp Bảo - Dhamma Day. Cùng với ngày Phật Bảo
(đại lễ Rằm Tháng Tư) và ngày Tăng Bảo
( Lễ Kathina tháng Mười.) Bởi v́ nội dung
kinh Giải Thoát Giáo được xem là tôn chỉ của
Giáo Pháp nên đại lễ nầy được gọi
là Ngày Pháp Bảo. Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ
Việt Nam tại hải ngoại đă thông qua ba ngày
lễ trên là những ngày truyền thống của Phật
giáo và những ngày lễ chính thức khác trong năm
như ngày Cha Mẹ (vu lan), Ngày Thiếu Nhi (trung thu) ...
Quyết định được công bố vào tháng
11 năm 1997.
Thọ Tŕ Hạnh Đầu Đà là cách cúng dường
bằng sự tu tập. Lời xưa Phật dạy ai
hành tŕ chánh pháp là cúng dường Như Lai bằng cách
cao thượng. Nay những đệ tử cúng dường
Phật bằng một đêm tu học không ngủ. Chữ
đầu đà là phạn âm của từ ngữ
Dhutanga có nghĩa là pháp tiêu trừ phiền năo. Có tất
cả là 13 hạnh đầu đà. Quyển Thanh Tịnh
Đạo (Visuddhimagga) giải thích tường tận
về mỗi hạnh với hiệu năng đối
trị những phiền năo khác nhau. Hạnh đầu
đà trong đại lễ là hạnh sau cùng của mười
ba hạnh. Đây là pháp tiết chế sự mê ngủ
bằng cách chỉ đi, đứng, ngồi chứ không
nằm. Nói cách khác đây là một đêm không ngủ
tu tập cúng dường Đức Phật. Thiền sư
Buddhadàsa ghi lại những kinh nghiệm bản thân khi
Ngài thức đêm thiền định trong rừng:
"thế giới về đêm quả có nhiều
điểm kỳ diệu. H́nh như trong sự yên tĩnh
của màn đêm có cả bao nhiêu sự sống động
tiềm ẩn. Những ai theo đuổi cuộc sống
tinh thần không nên bỏ qua kinh nghiệm quí báu nầy."
Tùy theo mỗi chùa, đêm đầu đà có thể
bao gồm nhiều tiết mục tu học. Thường
th́ gồm có thuyết pháp, luận đạo, tụng
kinh, kệ kinh, hành thiền, kinh hành ..v.v.. Nói chung là những
sinh hoạt tu học khó t́m thấy ở những đại
lễ khác.
Cúng đèn cũng là một nghi thức đặc biệt
của đại lễ. Túc Sanh Truyện cho chúng ta biết
không phải chỉ có trong thời Đức Phật
đến nay mới có việc cúng đèn. Từ thời
xa xưa đă có cách dúng dường như vậy. Nền
văn minh Ấn hà có tục thờ lửa nên xem đèn
như một lễ phẩm quan trọng trong nghi thức
tôn giáo. Thời xưa đèn là một nhu yếu cho
các pháp hội buổi tối. V́ thế cúng đèn cũng
là cúng dường Pháp Bảo. Dù làm cho sáng hay cho
đẹp th́ theo lư Nhân Quả người cúng đèn
có phước quả sanh làm người có gương
mặt sáng lạn, ngoài ra nếu có nguyện lực cũng
là nhân sanh trí huệ. Người Phật tử Việt
nam xem hương, đăng, hoa, quả là bốn lễ
phẩm cúng dường chính cho bàn thờ. V́ lễ thọ
đầu đà tổ chức buổi tối nên cúng
đèn mang lại không khí thiêng liêng đặt biệt.
28 ngọn đèn được thắp để cúng
dường 28 vị Chánh Đẳng Chánh Giác như
trong Buddhavamsa ghi chép. 108 ngọn đèn để tiêu
tai bạt nghiệp từ 6 căn, 6 cảnh, 6 thức
thuộc nội phần và ngoại phận trong ba thời
quá khứ, hiện tại, vị lai ((6+6+6) x 2 x 3 = 108).
Tục cúng cúng sao giải hạn vào lễ Thượng
Nguyên cũng lấy việc cúng đèn làm nghi thức
chánh. Nói chung dù theo truyền thống hay tập tục
th́ lễ Thượng Nguyên vẫn có hai điểm nổi
bật là cúng dường ngày Pháp Bảo và cầu an
cho bản thân và gia đ́nh.