Tánh
Không Luận Là Ǵ ?
TUỆ
SỸ
(I)
(MARTIN HEIDEGGER, Aus der Erfahrung des Denkens)
Có thể vay mượn
những lời như vậy để khởi
đầu cho sự chờ đợi tiếng
vọng đáp ứng của những ǵ đó
đang ẩn ḿnh trong bóng tối. Những lời
được vay mượn ấy không nhất
thiết phải là đồng thanh với những
cái sắp đáp ứng. Sự tựu thành
của những cái đáp ứng này sẽ không
xuất hiện trong những tiếng động náo
nhiệt. Đây là sự tựu thành của một cơn
mưa như thác lũ, khi con bướm mùa hè
đă chịu khép lại đôi cánh mỏng để
lắng nghe trong thầm lặng hơi thở
của cỏ nội. Chờ đợi; kiên tŕ và
dừng lại trong sự bế tắc của
một thời chỉ có ánh sáng vĩnh cửu
của mặt trời. Kiên tŕ và dừng lại
để chờ đợi trong sự bế
tắc là liều lĩnh thác ḿnh cho một
cuộc chơi ngoạn mục của thiên
diễn, là liều lĩnh đứng lại
giữa ḷng thác đổ của vạn hữu.
Đó là một thái độ bướng bỉnh, không
chịu tiệm tiến từng bước vững
chắc như những đợt nhảy của
con chim hồng: nhảy bên bờ nước,
nhảy đến tảng đá, nhảy trên đất
cạn, nhảy lên cành cây, nhảy lên g̣ cao và
cuối cùng bay trong thương khung để lông
cánh làm đẹp cho bầu trời (1).
Chờ đợi trong sự bế tắc là
những bước thụt lùi của con chim
hồng, từ trên cành cây rơi trở xuống
đất cạn (2). Từ trên cành
cây rơi trở xuống đất cạn để
chập chững như cưu mang một cái ǵ
đó có vẻ ngược ngạo; đó là
sự tiến tới bằng những bước
thụt lùi, bởi v́ thuận theo sự bế
tắc (3).
Mượn một kinh
nghiệm tư tưởng để nói về
một kinh nghiệm tư tưởng, đó là
một sự vay mượn nghịch lư ngang ngược;
vay mượn đă là một điều bất
khả, mà nói về lại cũng là điều
bất khả. Bất khả cho nên bế tắc.
Bế tắc cho nên không t́m thấy một lối
trung chính để vào tư tưởng (4).
Như thế là đă
khởi đầu bằng một sự bất chính.
Đằng sau sự bất chính này không có che
dấu một ẩn nghĩa nào hết để
biện minh cho nó. Nhưng, Tánh Không luận là ǵ?
"Khi con bướm mùa hè dừng lại trên
đóa hoa, khép lại đôi cánh, và đong
đưa theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn…"
(II)
(MARTIN HEIDEGGER, Im
Denken Wird jeglich Ding einsam und langsam)
Từ khi Nagārjuna (Long Thọ)
xuất hiện ở miền Nam Ấn độ,
đến nay đă 18 thế kỷ qua, và suốt
một ṿng cung ba phần tư của toàn bộ Á
châu, Tánh Không luận (Sūnyavāda) đă
trở thành một thứ khí giới vô cùng
sắc bén được trang bị cho một
nền triết lư chuyên môn phá hoại. Với
những kẻ chống đối nó, phá hoại là
phá hoại. Nhưng những kẻ tán thưởng
nó th́ nói phá hoại tức là thiết lập.
Với cả hai, phá hoại là điều đáng
sợ và nên tránh. Chính thực, Nagārjuna đă
cố ư binh vực cho một chân lư nào bằng khí
giới Tánh Không luận? Người ta đă
từng nghĩ, chính Tánh Không (Sūnyatā) là chân
lư đó. Bởi v́, người ta có thể t́m
thấy, với bằng chứng vô cùng xác thực
của văn nghĩa, rằng chính Nagārjuna đă
coi phương tiện và cứu cánh là một. Nói
cách khác, chính chân lư của Tánh Không tự
bảo vệ lấy nó, tự binh vực cho chính nó,
không một cái ǵ khác.
Những học giả
hiện đại chuyên môn về Tánh Không
luận với những đại biểu có
thẩm quyền như T. R. V. MURTI, Ed. CONZE, J. MAY, và
có thể kể thêm những vị ở ngoài lănh
vực chuyên môn này nhưng cũng được
coi như là có thẩm quyền như
STCHERBATSKY, J.TAKAKUSU, vân vân, đều đồng
thanh công nhận Tánh Không luận như là Biện
chứng pháp (dialectique). Những người đi
sau, bám chặt vào danh từ này – Biện
chứng pháp – để hiểu Tánh Không
luận. Đó quả là một sự vay mượn
vô cùng thận trọng. Người ta đă t́m
được cho Tánh Không luận một sự
đồng thanh tương ứng. Như vậy là
"Ngh́n tầm gởi bóng tùng quân (5),
tuyết sương che chở cho thân cát đằng".
Ed. Conze nói đến
sự táo bạo của những hiền triết
Đông phương là tư tưởng bằng mâu
thuẫn. Bởi v́, chính luật mâu thuẫn cho phép
người ta nói: phương tiện là cứu cánh,
cứu cánh là phương tiện. Phá hủy trong
phương tiện, nhưng lại là thiết
lập trong cứu cánh. Phá hủy và thiết
lập là một. Như thế h́nh như mâu
thuẫn đối chọi với đồng
nhất. Đây là lư lẽ mà ngươi ta hay
dựa vào đó để phân biệt tính cách
dị biệt của tư tưởng Đông phương
và tư tưởng Tây phương. Người
ta thường lư luận theo một tiêu thức
điển h́nh nhất như sau: với Tây phương,
ce qui est est, ce qui n'est pas n'est pas (của Parménid),
đó là tư tưởng trên nguyên tắc đồng
nhất; với Đông phương th́, Đạo
khả đạo phi thường Đạo, danh
khả danh phi thường danh (của Lăo Tử),
đó là tư tưởng trên nguyên tắc mâu
thuẫn. Bởi v́, nguyên tắc mâu thuẫn như
thế là dung nạp tất cả mọi tương
phản, tất cả mọi cái không phải là nó,
cho nên người ta nghĩ nếu công nhận
rằng Đông phương luôn luôn tư tưởng
trên nguyên tắc này th́ tư tưởng Đông phương
lúc nào cũng có thể dung nạp được
tư tưởng Tây phương với tất
cả nhũng dị biệt của chính nó. Và ngược
lại; v́ nguyên tắc đồng nhất không
dung nạp những tương phản. Nguyên
tắc đồng nhất đưa đến
chỗ đ̣i hỏi sự nghiêm xác của khái
niệm. Merleau Ponty: "Có cái ǵ đó không
thể thay thế trong tư tưởng Tây phương:
(…) sự nghiêm xác của khái niệm…"(6)
H́nh như chúng ta
vừa đưa ra một tràng, ngắn, những lư
luận có vẻ rất mạch lạc. Nếu nói
cho chí lư, th́ kiểu lư luận này là điều
tối kỵ của các nhà Tánh Không luận,
kể từ Aryadeva, xuống Buddhapalita, qua Bhavaviveka
cho đến Candrakīrti (những truyền nhân
của Nagārjuna). Nhưng nói vậy cũng không
được. V́ đó cũng chỉ một cách
nói áp dụng luật mâu thuẫn một cách
mạch lạc. Như vậy, chính mâu thuẫn
đă phối trí thành một trật tự
mạch lạc để cho mâu thuẫn là mâu
thuẫn. Tức là, mâu thuẫn chỉ được
thừa nhận như là mâu thuẫn thực
sự khi người ta có thể t́m được
mạch lạc của nó trong một trật tự
nào đó. Bởi v́, nếu không có sự mạch
lạc giữa những mâu thuẫn và không mâu
thuẫn, làm thế nào ta nhận biết đó là
mâu thuẫn?
Vậy th́, Tánh Không
luận là ǵ? "Trong tư tưởng, mọi
sự trở thành cô liêu và lững thững."
(III)
Những vay mượn đă không
thể tránh và những thành kiến nặng như
ch́ cũng chưa thể từ bỏ được.
"Những con cá lớn trong hồ nước
nhỏ này, tất cả chúng đều bị bao
phủ trong tấm lưới nhỏ này, dầu chúng
có nhảy vọt lên, chúng vẫn bị hạn
cuộc bao phủ nơi đây"(7).
Người học về Tánh Không cũng như
kẻ học bắt rắn bằng hai tay không.
Nagārjuna
là ai?
Những thiên tài lớn đều
xuất hiện trong cơn thịnh nộ. Héraclite
trong b́nh minh của Hy lạp với cơn thịnh
nộ như những ngọn lửa tàn bạo; ông
đă muốn tống cổ Homère ra khỏi
những cuộc chơi chung bởi v́ lời
cầu nguyện của Homère muốn cho mối
bất ḥa giữa các thần linh và loài người
hăy chấm dứt. Zarathoustra xuống núi, cùng
với sự xuất hiện của Siêu nhân, sau
khi đă nổi cơn thịnh nộ với
mặt trời. Những con sâu con ngủ suốt
cả một nùa đông để chờ đợi
những tiếng sấm đầu tiên của
tiết kinh trập tháng hai. Nhưng, "Một khi
sinh ra, họ muốn sống để rồi
chịu đựng sự chết, hay để
rồi đi t́m sự yên nghỉ. Và họ để
lại những con cháu cùng chia xẻ số
phận như vậy." (Héraclite) Những con sâu
con chỉ trở ḿnh trong giấc ngủ triền
miên, c̣n phải đợi bao giờ cỏ cây
nứt vỏ sau tiếng sấm của kinh trập
rồi mới trổi dậy: giải chi thời
đại hỉ tai! "Thiên địa giải
nhi lôi vũ tác. Lôi vũ tác nhi bách quả
thảo mộc giai giáp tích. Giải chi thời
đại hỉ tai!" (quẻ Lôi Thủy
Giải, Kinh Dịch).
Nagārjuna xuất hiện như
một con voi dữ trong truyền thống Phật
học và tư tưởng triết học Ấn
độ. Đương thời, đối với các
nhà hiền triết Ấn, Nagārjuna được
xếp vào hàng những tư tưởng gia
Phật học lỗi lạc bậc nhất. Nhưng
ngay trong hàng ngũ này. Nagārjuna lại được
kính trọng như một tên phá hoại đáng
sợ. Người sợ đầu tiên có lẽ
chính cao đệ của ông là Aryadeva. Ngay trong tên
gọi đă có sự trái ngược. Cái tên Nagārjuna
ám chỉ cho một thứ rắn dữ. Bởi v́
Nagā có nghĩa là rắn dữ. Nhưng Aryadeva
lại hàm ư là một thiên thần thánh thiện.
Hai thầy tṛ này, một con khủng long và một
vị thiên thần, phải chăng là hai nếp
gấp tư tưởng: Huyền chi hựu
huyền.
Nhiều huyền thoại đă
được dựng lên chứng tỏ rằng
đă có nhiều phép lạ hiện ra để
hạ bớt thái độ ngông cuồng của
Nagārjuna, khi ông quyết định bỏ cả
núi cao, cả rừng rậm và cả đất
liền để xuống biển cư ngụ cùng
loại rắn dữ (8) . Như
vậy người ta mới có đủ lư do
để xác nhận rằng ông quả là một
tư tưởng gia Phật học khi ông chịu
nghe theo lời khuyến cáo của vua rắn mà
trở lại đất liền. Ông quả
thực là một tư tưởng gia Phật
học chính thống. – bởi v́ chính thống cũng
hảm ư là ngoan ngoăn mặc dù lối xử
sự của ông đôi khi có vẻ ngược
ngạo.
Từ lúc mà Nagārjuna trở lại
đất liền, nhiều vấn đề trong
truyền thống Phật học và nền minh
triết Ấn Độ được đặt
lại: Tánh Không luận là ǵ?
Dường như có một sự
lửng lơ và bất khả nào đó; lửng lơ
như chính đời sống và bất khả như
chính tư tưởng, Nagārjuna từ sương
mù của b́nh minh và nắng quái.
Yathā māyā tathā svapno
gandharva-nagaram yathā tathospāda tathā sthānam
tathā bhanga udāhritah.
Như quáng nắng, như
giấc mộng, như thành phố giữa sa
mạc: tất cả sự hiện khởi,
tồn tục và biến mất đều như
vậy (9).
(IV)
Trong Đại tạng kinh Trung hoa,
được ấn hành dưới sự điều
khiển của J. TAKAKUSU, một học giả
Phật học người Nhật, có một tác
phẩm đứt đoạn mang tựa đề
là Lăo tử hóa Hồ kinh, được xếp vào
loại những tác phẩm ở bên ngoài Phật
học (Ngoại giáo bộ, DTK. 2139; tập 54; tr.
1266 và tiếp). Tác phẩm đứt đoạn này
nói Lăo tử cưỡi trâu bỏ xứ Trung hoa
đi về phía Tây bắc và giao hóa cho những
giống dân man di ở phương này. Môn đệ
lớn nhất của ông là Thích ca. Đó là một
sự lửng lơ của huyền sử và cũng
là một điều bất khả của tư tưởng.
Nhưng, mười thế kỷ sau, một người
v́ kính trọng Nagārjuna mà phải từ bỏ
quê hương của ḿnh để sang cư
ngụ và chết ở Trung hoa. Đó là Kumarajiva. Cái
tên này lại ám chỉ cho sự trường
thọ của trẻ thơ (10).
Có lẽ Nagārjuna hóa thân làm Lăo Tử tại
đất Tàu để nói cho một phân nữa
Á châu nghe lại cái diệu chỉ "huyền
chi hựu huyền" trong câu hỏi "Tánh Không
Luận là ǵ?"
Và như thế, trước câu
hỏi "Tánh Không luận là ǵ?" nhưng vay
mượn đă không dễ ǵ tránh khỏi và
những thành kiến cũng chưa dễ ǵ
từ bỏ được:
"Cũng ví như một người đánh
cá lành nghề hay người học đánh cá
vung lưới trên mặt hồ nước
nhỏ này với một tấm lưới có
mắt lưới sít sao. Người ấy nghĩ:
Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ
này, tất cả chúng đều bị bao phủ
trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy
vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao
phủ nơi đây."
Đó là những lời kết luận
của kinh Brahmajāla-sutta. Và kinh chấm dứt như
thế này:
Imasmim ca pana veyyākaranasmim bhannamane
sahasi loka-dhātu akampitthāti. "Trong khi kinh này
được truyền thuyết, một ngàn
thế giới đều rung động,"
TUỆ SỸ
Chú thích
1)
Thứ tự của sáu hào trong quẻ Phong Sơn
Tiệm của Kinh Dịch: sơ lục, hồng
tiệm vu can; lục nhị, hồng tiệm vu bàn;
cửu tam, hồng tiệm vu lục; lục tứ,
hồng tiệm vu mộc; cửu ngũ, hồng
tiệm vu lăng; thượng cửu, hồng
tiệm vu qú.
2
) Hào cửu tam và hào lục tứ của
quẻ Phong Sơn Tiệm đảo ngược thành
hào lục tam và cửu tứ của Thiên Địa
Bỉ.
3
) Quẻ Thiên Địa Bỉ: lục tam, bao tu;
cửu tứ, hữu mệnh.
4
) Quẻ Thiên Địa Bỉ: Bỉ chi phỉ nhân
(…) Thiên địa bất giao nhi vạn bất thông
dă.
5
) Và đây cũng là một đồng thanh tương
ứng: "Đời vốn như thế. Ban đầu
vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều, giàu
nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây tỉa
hột, nhưng gnày tháng trôi, năm sầu
lại: thời gian phá vỡ mất công tŕnh; cây
rừng bị chặt; bạn hữu từng người
rơi rụng xuống. Bóng tùng quân ngh́n tầm xiêu
đổ, cái con người trơ trụi sẽ
c̣n nghe rơ trong hoang liêu mối ngậm ngùi xuân xanh
xa mất." (Saint-Exupéry, Cơi Người Ta, Bùi Giáng
dịch).
6
) "II y a quelque chose irremplaçable dans la pensée
occidentale: (…), la rigueur du concept,…" (MP. Signes,
Gallimard, p. 174)
7
) Trường Bộ kinh, kinh Phạm Vơng (Brahmajāle. Sutt); T.T. Minh Châu dịch.
8
) Viết phỏng theo "Long Thọ Bồ Tát
truyện" của Kumarajiva D.T.K. 2047; tập 50, tr.
184 và tiếp.
9
) Nagārjuna, Madhyamika – Kārikā, VII, 34.
10
) Đồng Thọ, cũng mường tượng
như chữ Lăo Tử.
[Về đầu trang]
[Xem
tiếp TƯ
TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI DIỆN VỚI HƯ
VÔ]