TƯ
TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI DIỆN VỚI HƯ VÔ "Triết
lư; đó là đời sống trong băng lạnh và trong
núi cao"
(NIETZSCHE)
" Nếu dữ kiện kinh
nghiệm tất cả là Không, th́ không có sự sinh
khởi và sự hủy diệt. Như vậy, chắc
chắn sẽ không có bốn chân lư cao cả." (MK.
XXIV.1) "(Nếu thừa nhận) tánh Không,
ngài đẩy đi mất hiện hữu đích
thực của (nhân) quả, của những đức lư
thiện và ác, và tất cả trật tự thực
tiễn (Samuyavahārams) của thế gian." (NK. XXIV. 6)
Nói một cách vắn tắt, tất
cả những nan giải được nêu lên cho tánh Không
luận là người ta có được quyền coi nó
như một hư vô luận hay không? Chắc chắn, tánh
Không và hư vô có thể được hiểu như là
đồng nghĩa. Như vậy, đến mức độ
nào th́ thứ hư vô luận này được coi như
là phương tiện để đạt đến
một chân lư tuyệt đối nào đó; và trong
một mức độ nào th́ tánh Không là cứu cánh
của phương tiện diễn đạt ấy? Chúng
ta không thể không lầm lẫn giữa phương
tiện và cứu cánh; bởi v́, mối tương quan
giữa chúng không ǵ khác hơn chính là mối quan hệ
nhân quả. Nagārjuna nhắc nhở: "Như bắt
rắn không đúng cách; như dùng chú thuật sai
lạc, tánh Không bị hiểu nhầm là điều tai
hại cho kẻ trí năng thấp kém." (MK. XXIV. 11) Nhắc nhở ấy h́nh như
chỉ là lấy lệ. Ai cũng có thể viện
dẫn lời khuyến cáo ấy để binh vực cho
giải thích của ḿnh về tánh Không. Theo giải thích
chung của đa số, trong mức độ mà tánh Không
luận chỉ là phương tiện diễn đạt
về một Tuyệt đối bất khả tri nào
đó, th́ tánh Không luận cũng đồng với hư
vô luận. Ở đây, người ta ưa dùng chữ
Phủ định luận hơn. Trong mức độ mà
tánh Không chính là cứu cánh, người ta sẽ coi nó như
một thực nghiệm luận, hay thực hữu
luận. Bởi v́, nó thực đến độ người
ta phải nhảy vọt qua tất cả hàng rào danh lư
để diện kiến trực tiếp, v́ đây là nơi:
"chấm dứt tất cả con đường
của ngôn ngữ; hủy diệt tất cả con
đường của tư tưởng". Ở đây,
người ta ưa gọi tánh Không luận như một
thứ Tuyệt đối luận. Nếu kết hợp
cả hai, tánh Không vừa là phương tiện và
vừa là cứu cánh, ta có một danh từ tập
hợp để chỉ cho nó: Tuyệt đối duy danh
luận. Tuyệt đối, v́ tánh Không là cứu cánh
phải đạt đến. Duy danh, v́ tánh Không là phương
tiện đáng được thể hiện. Nhưng, hai
chữ này, Tuyệt đối và Duy danh (hay giả danh),
chống đối lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau.
Nếu duy danh - như là phương tiện
của tánh Không – mà được khai thác đến
triệt để, th́ nó tiến đến một hư
vô luận ở ngay nơi cứu cánh chứ không chỉ
ở phương tiện. Chúng ta giả thiết một
quá tŕnh lịch sử về tánh Không luận để
giải thích điều này; trọng tâm của vấn
đề là: từ những dữ kiện thực
nghiệm, v́ những nan giải nào của nhận
thức và diễn đạt, mà người ta phải
tiến đến một hư vô luận như vậy
– bất xét đó là hư vô luận ở phương
tiện hay hư vô luận trong cứu cánh. Vấn đề
được rút lại trong câu hỏi: "cái ǵ có và
cái ǵ không?" Để có thể có một trả lời
thích ứng, người ta phải xét đến hai trường
hợp: khả tính của phức thể và khả tính
của nhất thể. Hai khía cạnh này nhằm xác định
một điều: Khả tính của đối tượng.
Nhận thức về một đối tượng
tức là nhận thức về một nhất thể;
nhất thể hiểu như là tổng hợp của
những phức thể. Thí dụ, v́ thế giới
của dữ kiện kinh nghiệm là thế giới
của tương quan: "một chút màu xanh của
biển càng xanh khi máu đỏ càng đỏ" nói như
nhà thơ Pháp, Paul Claudel; do đó nhất thể của
đối tượng lại được coi như là
tổng hợp của những phức thể. Thí dụ
khác, vật chất hữu h́nh mà ta thấy đó là
sự kết hợp của vô số cực vi; nhưng lư
luận đến kỳ cùng th́ sự kết hợp này
là điều bất khả: chỉ có tổ hợp
hữu h́nh nhưng không có yếu tố của tổ
hợp; giống như một ṿng lửa, không có hiện
hữu đích thực của nhiều đốm lửa
để hợp thành một ṿng lửa. Ṿng lửa là
ảo ảnh về sự liên tục vận chuyển
của một đốm lửa. Tất cả mọi
tổ hợp đều là rỗng không. Như vậy, do
ảo tưởng nào mà người ta hứa hẹn
khả tính của nhất thể? Chỉ có nhất
thể trong tên gọi, đó là lập trường duy
danh luận; trong lập trường này, đă hàm ư
một hư vô luận. Trong lịch sử tư tưởng
của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh
luận về điểm: có nên thừa nhận có
một Bản ngă (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này
được khởi đầu v́ h́nh như nguyên
thủy, Phật từ chối về một Bản ngă, nhưng
phái Vātsiput́rya lại chủ trương phải có
Bản ngă và dẫn chứng lời của Phật. Theo
lập luận của phái này, nếu không có sự
tồn tại của một Bản ngă, làm sao người
ta có thể truy ức về những hoài niệm đă
qua? Những hoạt động của các tổ chức
vật lư và tâm lư phải chịu sự chi phối
của định luật vô thường; nếu không có
sự tồn tại của một Bản ngă ở ngoài
định luật này, cái ǵ duy tŕ những hoạt động
của các tổ chức vật lư và tâm lư để có
thể truy ức về một quá khứ của chúng?
Vả lại, nếu căn cứ trên định luật
nhân quả, với tính cách phổ quát và thường
nghiệm của định luật, người ta bị
bắt buộc phải thừa nhận tính cách thường
tại của một Bản Ngă. Bởi v́, phải có
một Bản ngă vừa là tác giả vừa là thọ
giả, người ta mới giải thích được
mối tương quan và đồng nhất giữa tác
dụng và phản ứng của tác dụng. Lối lập luận trên đây
nếu được nới rộng, ta sẽ đi đến
một Nhất thể toàn diện và khép kín. Nhất
thể đó sẽ là căn nguyên của tất cả
vạn hữu. Nó thỏa măn câu hỏi: thế nào là
khả tính của một đối tượng? Câu
trả lời có thể là: trong tương quan đối
đăi với một Bản ngă thường tại,
khả tính của một đối tượng được
xác định từ một Nhất thể toàn diện. Nói
theo thuật ngữ: Ngă pháp câu hữu; Bản ngă và
những yếu tố tập hợp của tất cả
phức thể: cả hai không đồng nhất cũng
không dị biệt. Tập hợp các phức thể thành
một Nhất thể: Nhất thể không phải là
một bản thể, hay bản ngă, ở ngoài các
phức thể. Nhưng ngược lại, do Nhất
thể – xét như một bản thể hay bản ngă –
mà trật tự của các phức thể được
duy tŕ và chúng có thể tác động theo định
luật nhân quả: như vậy, Nhất thể không
thể đồng nhất với phức thể. Nhất
thể và phức thể không đồng nhất cũng
không dị biệt: các nhà Vātsiputrīyas thành lập
một Bản ngă bất khả thuyết. Chủ trương này bị cực
lực phản đối. Lư do chính của sự phản
đối này là: bất cứ một chủ trương
nào thừa nhận có một Bản ngă thường
tại đều đi ngược với Phật pháp.
Trong lư tưởng "tuyệt đối từ khước"
không thể dung dưỡng một Bản ngă như
vậy; dù Bản ngă được hiểu, trong phạm
vi thường nghiệm như một chủ thể tâm lư,
hay trong lănh vực tâm linh như một nguyên lư siêu h́nh,
như một căn nguyên thực tại. Ngoài ra chủ trương đ̣i
hỏi có một Bản ngă thường tại để
làm căn nguyên cho vạn hữu không giải quyết
được ǵ cả. Trước tiên, nếu coi
Bản ngă như một thể tính không chịu chi
phối của luật vô thường, nó không thể là
căn nguyên của tác dụng nhân quả; v́ rằng
bất động. Ngược lại, những ǵ có tác
dụng nhân quả đều phải chịu sự chi
phối của định luật vô thường. Trong
định luật này, không có đồng nhất tính, do
đó không có một thể tính bất biến nào để
có thể gọi đó là một Bản ngă thường
hằng. Những lập luận phản đối chủ
trương Bản ngă thường không quên trích dẫn
lời này của Phật: "có tác nghiệp, như không
có tác giả và thọ giả." "Có tác nghiệp, nhưng không có tác
giả và thọ giả": ở đây, tất nhiên
từ khước sự hiện hữu của một
bản ngă liên tục thường tại và đồng
nhất hay không? Bởi v́, trong tương quan tác
dụng, khỏi cần có một căn nguyên chung, mà chính
do sự giao hỗ của các hiện thể cũng đảm
bảo hiệu quả thiết thực của định
luật nhân quả và lại không chống trái với
định luật vô thường. Nếu thế,
phải thừa nhận thể tính của hiện hữu;
mặc dù không thể nhận có bản ngă của
hiện hữu. Thể tính đó tức là tính cách
thực hữu của hiện hữu trong giới hạn nào
đó của thời gian: chỉ thực hữu trong
hiện tại, hay cả trong quá khứ và vị lai?
Ở đây người ta bộc lộ một vấn
đề công khai và quyết liệt: cái ǵ có và cái ǵ
không? Chúng ta có hai quan điểm: Thứ nhất, đặc trưng là
phái Sarvāstivāda: "Cái CÓ th́ có thấy; cái KHÔNG th́
không thấy". Thứ hai, đặc trưng là phái
Sautrantika: "cái CÓ th́ thấy có; cái KHÔNG th́ thấy không".
Cái CÓ th́ có thấy; cái Không th́ không
thấy; tức là, những ǵ được xác định
là CÓ, chúng phải là đối tượng cho nhận
thức hay khả hữu của đối tượng, cái
không xuất hiện như một đối tượng
hay khả hữu của đối tượng, cái ấy
là KHÔNG và không thể nghĩ hay nói về một cái KHÔNG
mà không phải là đối tượng như vậy. Trên
tổng quát, lập luận của Sarvāstivāda căn
cứ ở định thức duyên khởi (Pratityasamutpāda):
có cái này v́ có cái kia. Khi định thức này được
khai triển, th́ bản chất của tri thức là truy
nhận đối tượng; do đó, nếu thừa
nhận hoạt động của tri thức th́ phải
thừa nhận sự hiện hữu của đối tượng.
Nếu đối tượng hoàn toàn bất thực, nó
không đủ khả năng tác động sự truy
nhận của tri thức. Nhưng, trong trường
hợp đối tượng chỉ là một ảo giác,
nó tác động như thế nào? Để giải quyết nạn vấn
này, các nhà Sarvāstivāda theo như tŕnh bày của
Sanghabhadra, có hai loại hữu: a) thật vật hữu
(dravyasat), là tinh cách thực hữu đạt được
trong nhận thức trực khởi hay trực giác; thí
dụ, từng đốm lửa trong một ṿng lửa.
b) giả danh hữu (prajnaptisat), là ảo giác đạt
được do gán ghép những thực vật hữu;
thí dụ, ṿng lửa. Trong thực vật hữu, người
ta đạt được tự tướng của
sự hữu. Đó là sự hữu biểu lộ trong
từng khoảnh khắc sát na. Ở giả danh hữu, người
ta đạt được cọng tướng hay
tổng tướng của sự hữu. Đó là sự
hữu trong một khoảnh khắc sát na nhưng lại
biểu lộ như là tất cả mọi thời;
thấy sự hữu bây giờ và ở đây như là
thấy nó trong mọi lúc và mọi nơi. Như vậy,
dù đối tượng là ảo giác, nhưng ảo giác
ấy không phải là vô căn vô cố. Thí dụ, khi
thấy sợi dây ngỡ là con rắn; ảo giác này căn
cứ sự hữu của chính sợi dây. Nếu
diễn dịch cho đến kỳ cùng, th́ sự hữu
xét như thực vật hữu của sợi dây phải
là những cực vi kết tụ. Chính cực vi ấy
mới là tự tướng, và chỉ có trong nhận
thức trực khởi. Giải thích này cũng để
trả lời cho những nạn vấn của Sautrantika.
Theo những nạn vấn này, thi thức vẫn có
thể truy nhận được cái KHÔNG. Vả lại,
khi một nhà tu thiền, họ lấy màu xanh làm khởi
điểm chẳng hạn; đến một lúc nào đó,
đối với ông cả thế giới này đều
là màu xanh hết. Màu xanh như vậy cũng không
phải là một sự hữu. Lại nữa, hoặc như
trong chiêm bao, người ta có thể thấy lông của rùa
hay sừng của thỏ. Trên tất cả thí dụ này,
Sautrantika đưa ra một nạn vấn tổng quát:
nếu cái KHÔNG nhất thiết không thể là đối
tượng của nhận thức, tại sao trong ngôn
ngữ thường nhật người ta vẫn dùng
được những danh từ không chỉ cho một
sự hữu nào cả? Đối với những thí dụ
như màu xanh phổ biến hay h́nh ảnh trong chiêm bao mà
Sautrantika đề ra, các nhà Sarvāstivāda quả
quyết rằng, chính trong dữ kiện kinh nghiệm
đă cung cấp cho ta những h́nh ảnh ấy. Thí
dụ, thực sự ta không hề thấy lông của rùa
hay sừng của thỏ, nhưng trong dữ kiện kinh
nghiệm, ta đă từng thấy lông và rùa, sừng và
thỏ. Nói tổng quát, cái giả căn cứ trên cái
thực. Với nạn vấn về những danh từ
chỉ trống, họ cho rằng đấy chỉ là
mặt phủ định của danh từ; mặt kia
vẫn là khẳng định. Với lối lư luận đặc trưng
như trên, các nhà Sarvāstivāda đi đến
một chủ thuyết về Hữu toàn diện, đúng
như tên gọi của nó: Nhất thiết hữu bộ
(Sarvāstivāda); họ chấp nhận luôn đến
cả thực tại tính của giấc mộng. Trong
truyền thống này, nếu ta thành lập một tánh Không
luận, phải chăng đó là cưỡng từ đoạt
lư? Bởi v́, tánh Không là một phủ định, mà
mặt khác chắc chắn là khẳng định. Như
vậy, khái niệm về Không chỉ là một giả tưởng.
Nếu vậy, ta phải hiểu thế nào với
giải thích thông thường về tánh Không luận,
rằng "v́ Không cho nên Có" để không vướng
khỏi cái lưới hữu toàn diện mà Sarvāstivāda
đă bủa ra đó? Bây giờ xét đến chủ trương
của Sautrantika: "cái CÓ th́ thấy có; cái KHÔNG th́
thấy không." Ở trên chúng ta có nhắc đến
một ít nạn vấn mà họ nêu lên cho Sarvāstivāda
để buộc phái này phải nhận rằng có
thể có nhận thức về KHÔNG. Nạn vấn
của họ h́nh như được giải đáp
thỏa đáng. Chúng ta không có các văn kiện của
Sautrantika để thấy rơ lập luận của
họ. Nhưng Harivarma, trong truyền thống của
Sautrantika, cũng trả lời lại cho câu giải đáp
của Sarvārtivāda. Đối với Harivarma, định
thức duyên khởi cố nhiên phải thừa nhận,
nhưng bản chất của tri thức là hoạt động
liên khởi với đối tượng, th́ CÓ thấy
rằng CÓ và KHÔNG thấy rằng KHÔNG, có ǵ trở
ngại? Vả lại, căn cứ trên một chút màu
xanh mà thấy tất cả đều xanh, th́ trong cái
thấy ấy, đối tượng trực tiếp
của tri thức không phải là cái "màu xanh một chút"
nhưng là cái "màu xanh tất cả"; và màu xanh như
vậy là một sự trống không. Khi các nhà Sarvāstivāda
diễn kịch đến tự tướng cực vi và
đặt biên tế của thực tại hữu ở
đây, th́ cực vi thực ra cũng chỉ là một
giả tưởng; nó chỉ là hệ luận có vẻ
hợp lư của lư luận diễn dịch. Bởi v́, người
ta không thể giải thích được tính cách tập
hợp của cực vi. Khi truy nhận về một
tập hợp sắc, mà tập hợp ấy lại không
có các phần tử cực vi tụ hội lại, th́
tập hợp ấy há không phải là một tập
hợp trống không? Và như vậy, cái KHÔNG vẫn có
thể hiện diện như là đối tượng
của nhận thức. Đây là hậu quả hợp lư
của một thứ hư vô luận. Nhưng xét cho
kỳ cùng, ta vẫn có thể nói ngược lại. Khi
các nhà Sarvāstivāda, th́ hiển nhiên họ treo một
thứ hư vô luận lơ lửng trên đầu. Trong
khi đó, các nhà Sautrantika cố t́m cách đặt cái KHÔNG
vào hoạt trường của nhận thức, rơ ràng
họ đẩy hư vô ra khỏi bóng tối để
trở thành một thứ duy thực triệt để. Đấy là kinh nghiệm rút ra từ
lịch sử của tư tưởng – một thứ
lịch sử giả thiết: khi nói về cái CÓ th́ nói
trong sự bao dung của cái KHÔNG; khi nói về cái KHÔNG th́
nói trong sự bao dung của cái CÓ. Cái ǵ có và cái ǵ không:
CÓ và KHÔNG là một song quan luận đă điều
động tất cả lịch sử tư tưởng
Phật giáo. Đấy vẫn là một thứ lịch
sử của giả thiết. Bên trong giả thiết là môi
trường diễn đạt của ngôn ngữ. Và, h́nh
như bên trên tất cả sự giả thiết ấy,
một chân tính nào đó cần phải được
thể nghiệm, mà không thể nói bằng lời. Cái chân
tính ấy như là căn nguyên. Rơ ràng đây chỉ là
một hệ luận hợp lư, vẫn ở trong ṿng chi
phối của diễn đạt ngôn ngữ: "Tất cả đều hợp lư
v́ hợp lư với Tánh Không. Tất cả không hợp lư
v́ không hợp lư với tánh Không." Nếu tánh Không được
hiểu như một hư vô luận; th́ ở đây
mọi cái hợp lư đều không phải là hợp lư
do đối chiếu với một căn tính nào đó,
mà hợp lư v́ tương quan đúng, v́ kết hợp
được mạch lạc giữa nguyên nhân và
hiệu quả. Hợp lư không phải v́ mọi sự
hữu đều có nguyên nhân hiện hữu, nhưng v́
là tương quan hiện hữu. Như thế, tất
cả đều là hữu của giả danh, v́ bản tính
của hữu là Không. Trong phương tiện, trong
dữ kiện thường nghiệm, hữu là giả
danh. Trong cứu cánh, tính thể của hữu là tánh Không.
Ta có kết luận: đấy là lư luận để
đưa đến một tánh Không duy danh luận. Trong
con mắt của những nhà Yogācāra, thứ tánh Không
luận ấy không thể chấp nhận được.
Thứ nhất, nếu đặt nó thành một tiền
đề luận lư, tiền đề ấy không thể
xác định được đúng hay sai, một
tiền đề vượt ngoài tương quan nhân
quả. Thứ đến, với thứ tánh Không luận
ấy, người ta không tạo nổi một nội
dung cho giả thiết. Như vậy, mọi luận
thuyết sẽ diễn ra như một tṛ chơi chữ.
Lankavātāra, với một cố gắng dung hợp hơn,
chấp nhận tánh Không luận ấy, nhưng khuyên là
đừng nên đặt nó thành một tiền đề
của luận lư. H́nh như Nagārjuna bất chấp
tất cả những điều ấy. Chúng ta đă
biết Nagārjuna nói ǵ về những nan giải cho tánh
Không luận trong Vigrahavyāvartāń. Tại sao các nhà
Yogācāra không xét đến, dù họ là những người
đi sau Nagārjuna? Lại nữa, ngay cả Aryadeva,
một đồ đệ thân cận nhất của Nagārjuna,
cũng yêu sách tánh Không luận phải hội đủ
cả hai phương diện là phá hủy và kiến
thiết. Chính Nagārjuna trong chương XXIV của
Madhyamika-Kārikā, h́nh như cũng nói rằng tánh Không
luận gồm đủ cả hai phương diện là
phá hủy và kiến thiết. Cuối cùng, người ta
không thể giải thích khác hơn là nói rằng tánh Không
luận chỉ được hiểu như hư vô
luận ở mức độ phương tiện mà thôi.
Như thế, tận cùng của lịch sử tánh Không
luận vẫn là lănh vực của một "nhất
thiết Hữu", Hữu toàn diện. Trong cái lănh
vực Hữu toàn diện này, bất cứ dữ
kiện thường nghiệm nào cũng có khả năng
dẫn khởi hạt giống Giác ngộ. Nhưng,
tất cả dữ kiện thường nghiệm đều
phải chịu sự chi phối của định
luật vô thường, sự dẫn khởi của
hạt giống Giác ngộ lại là sự sáng tạo liên
tục; liên tục trong từng ư niệm liên tục. Trong mọi trường hợp, đối
với chúng ta, tánh Không luận chỉ mới được
hiểu như là một phương thức tư tưởng,
một phương tiện diễn đạt; hay nói
gọn, nó chỉ là một pháp thức luận lư nào
đó. Nếu ta coi nó như là ngón tay chỉ mặt trăng;
th́ mặt trăng đang lơ lửng ở phương
nào? Trước câu hỏi ấy, ta đối đầu
với một hư vô luận nữa. Tánh Không là phương
tiện; nhưng tánh Không cũng là cứu cánh. Đấy là
tánh Không duy danh luận trong một lănh vực Hữu toàn
diện? Hay đấy là một thứ hư vô luận
triệt để, từ đầu đến cuối? Mượn
trả lời của Nietzsche: "thà chun qua lỗ khóa c̣n
hơn qua những cánh cửa mở rộng". TUỆ SỸ Minh Quang đưa lên lưới ngày 12 tháng 11 năm 2001 bằng kiểu chữ Arial Unicode MS |