Chuyện Thằng Bé Tỵ Nạn
Bất Đắc Dĩ
(Tác
Giả:
ThaiNC)
Tùng khẽ
nhếch vai để cái túi đi học đeo sau lưng
trở lại tư thế gọn gàng. Nó ngoái cổ ra sau
kiểm tra lần cuối cẩn thận, và đẩy cửa,
giữ vẻ thản nhiên bước vô nhà.
Nó kinh ngạc
khi thấy "Dad" John của nó đăm chiêu đi
qua đi lại trong phòng khách. "Ủa, sao hôm nay ổng
về sớm vậy cà?" Tùng nghĩ thầm. Thấy
Tùng đi vào, ông mừng rỡ chạy lại ôm nó.
-Ồ, con
đã về! Con đi đâu làm ta lo quá!
-Con đi học
về, Dad!
Đang hoan hỉ,
ông John bỗng xịu xuống, trở nên nghiêm khắc. Ông
buông Tùng ra, đứng lên lạnh lùng:
-Con nói dối.
Hôm nay nhà trường điện thoại cho "Mom"
nói con không đi học khiến ta phải bỏ làm về
kiếm con cả ngày nay.
Thằng Tùng
sợ đến rụng rời tay chân. Trời ơi, vậy
là lộ tẩy rồi! Nó mới nghỉ học có một
ngày, đã gọi về nhà? Cái trường chi quái ác. Nó vẫn
cố chống chế:
-Con đi học
thiệt mà Dad.
-Đừng
dối ta, đó là một thói xấu. Hãy cho ta biết chuyện
gì xảy ra, và con đã làm gì vì ta đã gọi cảnh sát,
tí nữa ta và mom phải báo cáo với họ.
Nghe hai chữ
"cảnh sát", Tùng càng hoảng. Câu chuyện không nhỏ
như nó nghĩ. Hồi còn ở quê nhà, thỉnh thoảng
nó cũng trốn học mấy lần đi tắm sông với
tụi bạn, có ai hay đâu. Qua đây mới lần
đầu tiên đã bị bắt tại trận. Tùng cảm
thấy vừa lo vừa ngượng ngùng vì lỡ nói dối
bố mẹ nuôi nó. Nó đỏ mặt ngượng nghịu
cúi đầu, không dám nhìn ông John.
Giữa lúc
Tùng chưa biết trả lời như thế nào thì cánh cửa
bật mở. Bà Linda, "Mom" của nó hớt hải
đi vào, nói không ra hơi:
-Kiếm khắp
nơi mà vẫn không ..
Bà ta ngưng
lại khi thấy Tùng đứng đó. Bà trợn xòe mắt
như không tin ở chính mình, kêu lên, "Lạy chúa
tôi!", quên hết cơn mệt chạy lại ôm choàng
Tùng.
-Con đi
đâu cả ngày?
Vừa nói,
bà Linda vừa nhìn thằng bé từ đầu đến
chân xem nó có bị xây xát trầy trụa chỗ nào không. Thái
độ đầy quan tâm của "mom" làm Tùng thêm bối
rối, cúi gầm mặt. Sau khi xem xét và thấy Tùng vẫn
lành lặn, bà Linda yên tâm nắm tay nó kéo vào bếp.
-Tội nghiệp
con tôi, chắc nó đói rồi, vào đây mẹ lấy
pizza cho ăn.
Nhưng ông
John đã cản lại:
-Khoan đã,
tí nữa rồi ăn. Tùng phải nói chuyện gì khiến
con nghỉ học không xin phép hôm nay. Lát nữa cảnh sát sẽ
lại đây đó.
-Ông sao gấp
quá, để cho con ăn xong rồi hỏi cũng
được mà.
-Bà
thương nó quá không được. Nên nhớ nó mới
qua và chưa rành luật lệ. Tôi phải biết nó đã
làm gì để trả lời với họ chứ.
Nghe ông John
nói, bà Linda không biết làm sao hơn, cúi xuống dỗ Tùng:
-Cũng
được. Tùng nói cho mom biết tại sao con không tới
trường hôm nay đi. Nếu con chỉ đi chơi mà
không làm gì bậy, mom sẽ tha. Lần sau đừng
như vậy nữa.
-Con, con ..
Thằng Tùng
ấp úng, nó biết nói sao bây giờ? Đã đành nó trốn
học và nói dối là hai lỗi lớn. Nhưng nào phải
nó đi chơi hay làm gì bậy đâu.
-Con đi ..
shopping.
-Shopping
ư? Con mua gì ở đó? Hai ông bà ngạc nhiên.
Tùng tháo cái
túi đi học trên lưng xuống. Lúc này, ông bà John và Linda
mới chú ý đến cái túi gồ ghề hơn mọi
ngày trên lưng thằng bé. Nó cẩn thận lấy ra một
gói giấy: cái xe lửa chạy bằng pin.
Ông John thảng
thốt:
-Con lớn rồi
sao còn chơi cái đồ này?
-Tiền
đâu con mua nó? Bà Linda tiếp.
-Con đi bỏ
báo mua cái này cho em con ở Việt Nam.
Thằng Tùng
bỗng bật khóc. Nó như được cởi mở
tấm lòng.
Hai ông bà John
và Linda nhìn nhau. Họ linh cảm đứa con nuôi trước
mặt đang mang một tâm sự chồng chất mà nó giấu
kín. Nguyên nhân sự nghỉ học của nó hôm nay có lẽ
bắt nguồn từ đó ..
Tâm sự của thằng Tùng: Nó là một
thuyền nhân bất đắc dĩ.
Nói ra thì có vẻ
hi hữu, nhưng trên đời có nhiều chuyện xảy
ra một cách kỳ cục không ai có thể liệu định
được. Và một trong những cái "kỳ cục"
đó đã xảy ra với Tùng hơn một năm
trước đây, khi nó vẫn còn mang giỏ mía ghim lang
thang trên bến đò Kiên Lương mỗi buổi chiều
kiếm thêm chút tiền giúp đỡ gia đình.
Đúng ra nhà
thằng Tùng cũng không nghèo lắm. Trước ngày giải
phóng, ba nó là Trung Úy Pháo binh đóng ở Cà Mau, má nó làm cô giáo
tiểu học. Nhưng tai họa đã giáng xuống gia
đình Tùng sau ngày 30/4 năm đó. Ba nó phải đi học
tập cải tạo. Tưởng chỉ có 10 ngày là xong,
ai ngờ đến 6 năm sau, khi Tùng rời quê nhà vẫn
chưa gặp lại ba. Má nó bị cho nghỉ dạy vì là
"vợ sĩ quan Ngụy". Gia đình Tùng khốn
đốn từ đó. Đã mất việc, lại thêm
phải nuôi ba nó trong tù, má Tùng phải tất tả làm
đủ mọi việc để nuôi bốn miệng
ăn. Ban ngày bà ra chợ trời, buôn đi bán lại, tối
về bà phải nhận may vá thêm cho anh em Tùng đủ
điều kiện cắp sách đến trường.
Cuộc sống
mỗi ngày mỗi khó khăn. Tính, em nó, còn nhỏ chưa biết
gì nhiều, nhưng Tùng đã lớn, dù nó chỉ học lớp
Sáu. Sự nghèo khổ và nhọc nhằn đã khiến Tùng
khôn trước tuổi để thấy những sợi
tóc bạc ngày càng rậm trên nét mặt khắc khổ của
má. Những lần bà phải đôn đáo vay mượn
trong mỗi dịp gửi đồ tiếp tế cho ba nó
trong tù .. đã đẩy Tùng ra ngoài xã hội.
Mỗi chiều
sau khi đi học về, Tùng đi bán mía ở bến
đò Kiên Lương. Nó vô vườn mua rẻ mấy cụm
mía về lóc vỏ, và chặt thành từng khúc nhỏ khoảng
bằng đốt ngón tay. Xong rồi nó đi kiếm tre, gọt
thành những cây nhỏ, mỗi đầu cây tẻ thành
sáu nhánh nhỏ khác, vót nhọn, và gắn mía vào, vậy là
thành một ghim. Mía ghim.
Nó không bán ở
chợ vì ở đó đã có nhiều thằng nhỏ khác
bán. Ra nghề sau nên Tùng phải chịu khó lặn lội
ra tận bến đò. Tại đây cũng tấp nập
không kém chi ở chợ, nhất là vào buổi chiều. Ghe
thuyền là một trong những phương tiện giao
thông chính của xứ Rạch Giá đầy mương rạch
này. Khách hàng của Tùng phần đông là mấy bác xích lô,
hay xe ba gác, hoặc những người từ thôn xóm chung
quanh khi tan chợ trở về. Ngồi trên ghe gió chiều
hiu hiu, có ghim mía nhai đỡ buồn miệng, khỏi phải
lóc vỏ, bỏ cùi, mà giá lại rẻ mạt: có 50 xu. Nhai
xong nhổ bã xuống rạch là xong, thật tiện.
Công việc
làm ăn của Tùng tiến hành suông sẻ. Mỗi ngày nó kiếm
được ít tiền đưa cho má để dành mua
quà nuôi ba nó. Cuộc đời bán mía ghim của Tùng không biết
sẽ kéo dài bao lâu, nếu một ngày nọ ..
Hôm đó Tùng
ế hàng. Bán từ chiều đến gần tối mịt
rồi mà rổ mía vẫn còn vơi nửa. Điệu này
hôm nay nó huề vốn là may. Đáng lẽ Tùng về nhà,
nhưng nó vẫn ráng kiên nhẫn ở lại. Biết
đâu còn nhiều người về bến đò trễ
cũng nên. Đang thơ thẩn tìm khách, nó nghe gọi:
-Mía.
Tùng mừng
húm thấy một thanh niên từ chiếc ghe lớn nãy giờ
đậu im lìm dưới chân cầu đi ra.
-Mía bao nhiêu một
xâu?
-Dạ 50 xu.
-Mày còn mấy
xâu?
-Để
coi. 1,2,3 .. 32 xâu.
-Tao mua hết,
vị chi là 16 đồng phải không?
Đang mừng
nghe nói được mua hết, Tùng khựng lại khi thấy
anh thanh niên đưa tờ 100 còn mới toanh. Tiền
đâu mà thối? Nãy giờ nó mới bán được có
hai mươi mấy đồng, thêm mười đồng
tiền lẻ má nó đưa để thối lại, cộng
chung cũng chưa đến bốn chục. Tùng lúng túng:
-Anh có tiền
lẻ cho em xin, em không có đủ tiền thối.
Hơi ngần
ngừ một chút, anh thanh niên nói:
-Thôi cho mày
luôn đó nhỏ.
Tùng tưởng
mình nghe lầm, nó trợn mắt nhìn anh thanh niên, ông khách rộng
lượng nhất trong cuộc đời bán mía mà nó
đã gặp. Bỗng nhiên nó nhận thấy cái anh này sao lạ
quá, nhứt định không phải là dân ở đây. Nhất
là ảnh ốm và trắng, không giống dân bản xứ ở
đây ai cũng nở nang và đen sạm. Nó chợt
nghĩ đến những tin đồn mà nó đã nghe,
không dằn được, buột miệng hỏi:
-Có phải
anh ở Sài gòn xuống đây vượt biên không?
Người
thanh niên tái mặt, anh quăng hết mấy xâu mía xuống
sông và chụp lấy thằng Tùng, bụm miệng nó lại.
Diễn biến xảy ra quá đột ngột nên Tùng không
kịp phản ứng, chống cự một cách vô vọng,
và bị người thanh niên vác xuống thuyền.
Tùng cố
vùng vẫy thật kịch liệt, chân nó đạp tùm lum
làm văng luôn một chiếc dép xuống sông. "Trời
ơi, cha này định làm gì đây? Vượt biên thì cứ
vượt biên. Tui có đi báo công an đâu mà bắt
tui?". Nhưng nó chỉ ú ớ không thành lời.
Đem Tùng xuống
khoang tàu và đóng cửa lại, người thanh niên cầm
một cây sắt dí trước mặt Tùng, "ngồi
im, làm ồn tao đập chết thả xuống
sông". Tùng hoảng sợ thôi vùng vẫy. Thanh niên đè
nó xuống sàn, và thả tay ra. Bây giờ Tùng mới hơi
hoàn hồn chút đỉnh và đưa mắt nhìn quanh. Trời
đất ơi! Cái khoang thuyền bé xíu mà đầy những
người là người, già trẻ lớn bé, đàn ông
lẫn đàn bà, hầu hết đều lạ hoắc từ
đâu tới.
Một
người đàn bà ngồi gần cất giọng hỏi:
-Thằng nhỏ
nào vậy? Sao tự nhiên bắt nó?
Hùng, người
thanh nhiên phân trần:
-Tui định
mua ít mía mang theo, ai ngờ thằng này biết mình sắp
"đi" nên phải đem nó xuống đây đó chứ,
lỡ nó đi la tùm lum là bể hết, tù rã đám.
Tùng mếu
máo:
-Em đâu biết
gì đâu, thả em về đi anh ơi, hu hu!
Đám
người vượt biên ngơ ngác nhìn nhau. Hùng lại
lên tiếng:
-Mày không biết
thực không?
-Thiệt mà,
cho em về đi.
Anh Hùng quay
sang nói với mấy người trong ghe:
-Coi bộ thằng
này chỉ tình cờ thôi, nhưng vì an toàn, khi nào mình khởi
hành mới thả nó ra được.
-Hu hu! Em về
trễ má em đi kiếm.
Một
người đàn bà khác lại dỗ nó:
-Thôi em chịu
khó ngồi đây chút xíu, tí nữa anh Hùng cho em về nhà .. Đây
chị cho em một trăm mang về cho má.
Bà nhét vào túi
áo nó tờ giấy bạc. Nếu ngày thường, có lẽ
Tùng đã la lên sung sướng, bữa nay nó phát tài rồi.
Nhưng không hiểu sao nó chỉ cảm thấy lo lắng,
linh cảm điều gì bất thường.
Điều
bất thường đã đến. Đang im lặng bỗng
có tiếng gấp rút gõ cửa.
-Ai đó?
Hùng hỏi.
-Tui, Tư
đây Hùng, mở cửa mau.
Một
người đàn ông ló đầu vào thở hổn hển:
-Lộ rồi,
đám kia bị bắt hết và tụi du kích sắp đến
đây đó, nhổ neo dông liền đi.
Cả khoang
thuyền rúng động nghe tin dữ. Từng khuôn mặt
hốt hoảng. "Chết cha, làm sao bây giờ?".
"Lên bờ trốn". "Khổ thân tôi" .. Mỗi
người một câu, không ai còn nhớ đến Tùng
đang ngồi một góc. Nó cũng lo lắng không kém. Lỡ
tụi du kích tới đây thấy nó cùng đám vượt
biên này thì mười cái miệng nói cũng không xuôi. Nó mà
đi tù thì chỉ khổ cho má nó.
Anh Hùng hồi
nãy cũng la lên:
-Bà con bình
tĩnh. Bây giờ ai mà lên bờ là bị chộp liền.
Đằng nào ghe cũng chuẩn bị rồi, ta đi
luôn.
Vài tiếng
hô lên đồng ý.
-Anh Hùng nói
đúng, mình đi luôn may ra kịp.
-Một liều
ba bảy cũng liều.
-Nhưng thằng
em tui chưa tới mà?
-Thân ông lo
chưa xong, còn lo ai? Muốn đi tù chung cho vui hả?
- ..
-Vậy thì
mình đi, Hùng lên tiếng. Ai lên phụ tôi kéo cái neo sau, còn
anh Tư chuẩn bị lái.
Mọi
người đã đồng lòng, chia nhau công việc để
ghe có thể rời bến.
Lúc này thằng
Tùng muốn trốn lên cũng không ai buồn để ý.
Nhưng, có lẽ số phận đã an bài, cái số của
nó phải sống xa gia đình nên Tùng cứ nằm yên run rẩy,
nó cũng sợ đám du kích sắp đến như mấy
người trên ghe. Tùng cảm thấy vừa mệt vừa
đói, đầu óc choáng váng. Nó cảm thấy cái ghe chuyển
động, tiếng lâm râm cầu nguyện của những
người đàn bà trong khoang .. và thiếp đi lúc nào
không biết.
Thế là chiều
hôm đó, trên chuyến tàu vượt biên vội vàng đã
mang theo một hành khách không mong đợi: thằng bán mía
ghim ở bến đò Kiên Lương.
Tàu đi
được bốn ngày thì được tàu Mỹ vớt
đưa vào bờ Mã Lai, và đến Pulau Bidong sau đó.
Mọi người trên đảo ai nghe câu chuyện của
Tùng cũng đều gật gù cho là .. số mệnh, không
ai có thể vượt biển một cách kỳ cục
như thằng Tùng.
Hôm đó sau
khi tỉnh dậy, nó cảm thấy khát đến khô cả
cổ, bèn mò dậy kiếm nước uống. Anh Hùng thấy
nó trước tiên trên boong.
-Cha chả,
thằng bán mía, sao mày còn ở đây?
-Cho em miếng
nước.
Hùng
đưa cho nó ly nước. Uống xong, Tùng bắt đầu
tỉnh trí và nhớ lại mọi việc.
-Trời
ơi, mấy anh cho em về nhà chớ đi đâu đây?
Nó hốt hoảng
nhìn chung quanh. Trời đã tối lắm rồi, có lẽ
tàu chạy xuôi xẻ cũng được mấy tiếng
và đang tiến dần ra cửa biển.Bốn bề chỉ
thấy nước mênh mông. Xa xa một vài ánh đèn chập
chờn từ những tàu đánh cá hay một trạm gác
nào đó, leo lét. Thỉnh thoảng lại thấy vài cụm
sậy thấp thoáng trong bóng đêm dày đặc.
Ba bốn
người từ dưới khoang đi lên, họ
cũng chợt nhớ ra thằng Tùng. Một bà ái ngại
hỏi anh Tư lái tàu:
-Mình đi xa
chưa? Hay là tấp lại chỗ nào cho thằng nhỏ
lên rồi đi tiếp?
-Trời
đất, bộ giỡn sao chớ? Tối um vầy biết
đâu mà vô. Rồi lại tụi du kích nghe tiếng ra túm hết
cả tàu thì bà tính sao đây?
-Nhưng mà
cũng phải cho thằng nhỏ về nhà chứ.
Tùng thút thít
năn nỉ:
-Không sao
đâu chú ơi, chú cho tàu chạy vào gần bờ rồi
cháu nhảy xuống bơi vô được mà.
-Nói thiệt
với mày nghe nhỏ, không phải tao ác hay là gì hết.
Nhưng mày là dân ở đây thì cũng biết, đằng
kia toàn là rừng sậy không hà, mày bơi chưa tới là
đã lún sình ngủm củ tẻo rồi. Mà tao cho ghe vô gần
hơn thì cũng lún luôn, chết cả đám. Thôi mày đi
theo tụi tao luôn đi. Được đi Mỹ
"chùa" không tốn một cắc mà còn than gì nữa?
Tao sợ má mày hay tin mày đi rồi bả còn mừng nữa
à.
Thằng Tùng
thất vọng nhìn chung quanh. Nó biết chú Tư nói thiệt.
Nó bơi như rái cũng khó qua nổi mấy vũng lầy
trước khi vào đất liền. Tùng ngồi xuống
ôm mặt tấm tức, tự sỉ vả mình ham tiền
ở lại trễ tại bến đò làm chi cho bị ..
tai bay vạ gió như vầy ..
Vậy mà
trong ghe, Tùng lại được đi định cư
sớm nhất. Nó ở đâu có 3,4 tháng thì được
hội nhà thờ bảo lãnh sang làm con nuôi của ông bà John
và Linda, một cặp vợ chồng Mỹ không con cái.
Mấy tuần
đầu ở đảo, Tùng nhớ nhà, nhớ ba má, nhớ
thằng Tính em nó và khóc hoài. Nó giận tất cả mọi
người trong ghe đã ép uổng nó đi theo.
Chuyến ghe
nó đi thật thuận buồm xuôi gió, không hải tặc,
không đói khát. Mấy người lớn tuổi nói trong
ghe có "quí nhân" đi theo nên được tai qua nạn
khỏi. Và họ bảo nhau quí nhân đó chính là thằng
Tùng. Đâu có ai vượt biên một cách bất ngờ
như nó đâu. Hồi đó hải tặc lộng hành, ít
có ghe tị nạn nào thoát khỏi, vậy mà ghe nó đi êm
ru. Vì vậy ai cũng thương và tử tế với
nó, họ chia nhau an ủi và nuôi nấng Tùng trong suốt thời
gian ở trại vì nó không có ai thân nhân ở nước
ngoài cả.
Đêm
trước khi Tùng lên đường, mọi người
mở tiệc tiễn "quí nhân". Mỗi người
một lời khuyên nhủ làm Tùng cảm động quên hết
giận hờn. họ nói riết, Tùng cũng tin là tại
số phận của nó phải như vậy. Đây là ý của
Trời Phật muốn giúp nó ra nước ngoài ăn học
để một mai thành tài giúp đỡ cha mẹ lúc tuổi
già. Cuộc sống bon chen lúc còn bán mía ở bến đò
Kiên Lương và biến cố vừa qua đã làm cho trí
óc Tùng tiến một bước dài.
Trước
khi từ giã, anh Hùng, người đã bắt nó xuống
tàu hôm nọ nắm tay nó xem bói. Anh vỗ tay xuống bàn, la
lên:
-Trời
ơi, bà con coi bàn tay thằng này nè. Cái đường xuất
ngoại của nó dài và rõ như vầy thì đúng là số
của nó phải đi du học rồi. Nói thiệt, nếu
hôm dó tui không nắm cổ nó kéo xuống ghe thì cũng có
người khác làm mờ.
***
Bốn tháng
sau khi đến Mỹ, Tùng nhận được lá
thư đầu tiên của má nó từ Việt nam gởi
sang. Còn gì mừng hơn được nhìn lại nét chữ
của người mẹ thân thương từ quê nhà. Nó
ngấu nghiến đọc đến thuộc lòng cả
lá thư mà vẫn cứ đọc. Lại có cả
thư của thằng Tính nữa chứ, em nó viết:
"Em là Tính em của anh nè anh Tùng, anh còn nhớ em hôn?".
Tùng đang khóc cũng suýt bật cười đọc
dòng chữ ngây thơ trên. ".. Ba có viết thơ về
nói bị đau bao tử mà má không có tiền mua thuốc.
Em muốn đi bán mía như anh nhưng má không cho, má sợ
em cũng bị bắt đi Mỹ luôn má ở nhà một
mình buồn. Anh ráng đi làm như anh con Hà rồi gởi
thuốc về cho ba nghe. Mà anh cũng nhớ mua cho em cái xe
lửa điện như của con Hà vậy nghe, em ở
nhà một mình buồn quá. Nhớ nhe anh Tùng .."
Dòng chữ
ngây thơ của em nó làm Tùng khắc khoải. Ba nó đang
bệnh trong tù, mà thuốc Tây ở chợ trời thì Tùng
dư biết là mắc lắm, làm sao mua nổi? Chưa kể
má nó thiệt thà có khi còn mua nhầm thuốc giả nữa.
Còn cái xe lửa điện. Tùng nhớ hồi ở Rạch
Giá mỗi lần nhìn chị em con Hà gần nhà chơi cái xe
lửa điện của anh tụi nó từ ngoại quốc
gởi về mà mơ ước cũng có một cái, nhất
là thằng Tính, mê cái xe lửa kinh khủng. Tùng chiều em,
vác cuốc đi đào đủ một lon sữa bò đầy
giun để con Hà cho gà ăn thì nó mới cho chơi chung.
Đến bây giờ em nó vẫn còn mơ ước cái xe
lửa.
Tùng muốn
xin tiền bố mẹ nuôi để nó mua đồ,
nhưng lại không dám. Ông bà John và Linda thương nó
như con ruột, chăm lo cho nó ăn học đầy
đủ, nên nó không muốn xin thêm điều gì làm phiền
ông bà. Tùng quyết định đi làm để tự
mình kiếm tiền. Mà làm gì bây giờ nhỉ? Bán mía như
ở Việt Nam ư? Mỹ họ đâu có ăn mía ghim.
Mía họ đóng hộp để lạnh, khi nào ăn thì
khui ra là xong. Tùng đâu thấy thằng Mỹ con nào bán mía
ngoài đường.
May sao thằng
Tâm bạn chung lớp chỉ nó gia nhập làng bán báo. Gì chứ
bán báo ở Mỹ dễ ợt, người ta đặt
mua hàng tháng, bọn nó chỉ đem bỏ từng nhà là
xong. Và Tùng đi bỏ báo.
Hôm qua mới
được lãnh lương nên sáng nay nó và thằng Tâm rủ
nhau nghỉ học để mua đồ. Đã lỡ giấu
bố mẹ nuôi từ đầu nên Tùng phải nhờ thằng
Tâm chỉ dẫn. Thằng này qua đây đã lâu mà lại
thường theo anh chị nó sắm đồ nên rất
rành đường xá. Đầu tiên, hai thằng đến
tiệm thuốc tây Việt Nam có bán loại thùng thuốc
đóng sẵn. Tùng nhờ người bán hàng chỉ loại
thùng có thuốc trị bao tử để gởi về.
Xong xuôi cả hai lại đáp xe bus tới mấy tiệm
bán đồ chơi để Tùng tìm mua cái xe lửa điện
cho em nó. Lang thang mãi rồi Tùng cũng kiếm được
cái vừa ý, và nhất là hợp với túi tiền nhỏ
nhoi của nó.
Có điều
thằng Tùng chưa rõ là nhà trường Mỹ không giống
như ở Việt Nam. Trước kia nó có trốn học
đi coi đá banh, hay tắm sông với bạn bè mấy
ngày cũng không ai để ý. Nhưng ở Mỹ, con nít
thường được chú ý, cho nên khi cô giáo buổi
sáng thấy Tùng vắng mặt không xin phép đã gọi
điện thoại về nhà. Câu chuyện đổ bể
..
Ông John và bà
Linda im lặng nhìn nhau. Họ đi từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác. Đứa con nuôi của họ
chỉ mười mấy tuổi đầu đã trải
qua bao lận đận, và cuộc đời của nó thật
hi hữu. Đây hẳn là ý Chúa. Chúa đã mang thằng nhỏ
đầy tình nghĩa trong trái tim son trẻ kia về đặt
trong sự thương yêu của hai người để
giúp nó được lớn lên trong một xã hội tự
do, bác ái, và để cho nó có cơ hội giúp đỡ cha
mẹ nó tận bên kia Thái Bình Dương.
Bà Linda ôm Tùng
trong lòng, bà cũng khóc tự hồi nào.
-Ôi, con yêu dấu
của mẹ. Cha mẹ không trách con nữa. Con thật là một
đứa con ngoan.
***
Lúc bà nội
Tùng còn sống, nó thường nghe bà kể chuyện ông lão
ăn mày nghèo khổ, một đêm trong miếu cổ nằm
mộng thấy mình trở thành quan Tể tướng, giàu
sang quyền quí, sống cuộc đời cực kỳ hạnh
phúc. Giật mình tỉnh dậy trời chưa sáng, tất
cả đều hết, ông lại là kẻ ăn mày nghèo
khó giữa đêm tối âm u ..
Tùng mong mình
cũng như lão ăn mày nọ. Tất cả chỉ là một
giấc mơ. Nó ước ao một sáng thức dậy,
thấy mình vẫn còn nằm trên chiếc giường tre ở
quê nhà, nghe tiếng gà gáy, tiếng lục đục của
má nó sửa soạn ra chợ. Thấy chân thằng Tính gác
trên bụng và hơi thở phì phò trên má .. Cho đến khi
cảm giác êm ái của chiếc giường nệm và cái lạnh
cuối năm của xứ người đưa nó về
thực tại. Có những đêm Tùng nằm mơ thấy
mình trở về Rạch Giá, lang thang trên bến đò với
rổ mía, gặp lại ba má, bạn bè, để rồi
tỉnh dậy trong tiếc nuối ngẩn ngơ.
Đêm nay
Tùng lại nằm mơ thấy mình về Việt Nam. Giấc
mơ kỳ lạ. Nó thấy "Dad" John lái xe chở
nó và "Mom" Linda chạy trên xa lộ Mỹ, vậy mà
khi ổng quẹo vào exit là đã tới .. Rạch Giá môt
cách ngon lành. Tùng vào nhà gặp má nó, thằng Tính, và điều
mừng rỡ nhất là có cả ba nó nữa. Ông hết ở
tù rồi. Tùng khệ nệ khiêng thùng quà mà nó dành dụm từ
mấy tháng nay vào cho má nó. Nào vải, nào thuốc .. và dĩ
nhiên có cả cái xe lửa điện cho thằng Tính nữa.
Rồi trong khi má nó và "Mom" làm cá rô kho tiêu trong bếp,
"Dad" John và ba nó ngồi nhậu thật tương
đắc. Ngoài sân, thằng Tính lui cui chơi cái xe lửa,
thỉnh thoảng khoái chí cười nắc nẻ.
Tùng cảm
thấy mình thật hạnh phúc. Nó đã có ba má, rồi lại
có cả "Dad" và "Mom" nữa, tất cả
đều yêu thương nó. Ô hay, ai nói Việt Nam và Mỹ
xa lắm cả một đại dương chứ với
Tùng, nó thấy thật gần gũi, nhất là trong những
giấc mơ như vầy.
ThaiNC
(Huôn
Trinh sưu
tầm
và chuyển)