Thư
gửi Thầy Cao Vị Khanh
(Lương
Thư Trung)
Boston ngày 15 tháng giêng năm 2005,
Kính chào Thầy Cao Vị Khanh,
Tôi là một người vốn
sống ở miền quê, thuở nhỏ có học
trường làng rồi lớn thêm một chút
được cha mẹ cho lên tỉnh học. Lớp
học tṛ quê lên tỉnh như chúng tôi th́ nghèo lắm
Thầy ạ! Cha mẹ làm ruộng, thiếu trước
hụt sau, nên không gia đ́nh nào đủ tiền cho con cái
ăn cơm tháng; mà phải tự lực cánh sinh bằng
cách lên gần trường học kiếm mướn
một khoảnh đất rồi chở tre chặt lá lên
che cḥi cất tum cho con cái có chỗ tạm ngụ mà
học hành. Việc ăn uống, chúng tôi tự mang
gạo củi từ dưới quê lên nhúm lửa nấu
cơm. Ăn lấy sống để học, không cầu
lấy ngon, chỉ cầu no bụng thôi. Nói thế
để Thầy thương.
May sao, vừa nhận được tác phẩm Nghề
Thầy [1] của
Thầy do Thư Ấn Quán phát hành, nhà văn Trần Hoài
Thư gởi tặng, tôi mải mê đọc cả ngày,
thấy được nỗi niềm của Thầy,
một vị giáo sư tốt nghiệp trường
Đại học Sư phạm Sài G̣n ngày trước, một
học vị mà hồi nhỏ cũng như ngay bây giờ
tôi hằng mơ ước mà không bao giờ đạt
nổi trong đời ḿnh. Và từ cảm mến lời
văn đến mê say câu chuyện và thấy phục cái
nghề dạy học cùng mến mộ một
người Thầy như Thầy qua 99 trang sách gói gọn
một nỗi niềm mà tôi xin mạo muội có lá thư
dài này.
Thưa Thầy,
Trường trung học Nguyễn Trung Trực ở
Rạch Giá nơi Thầy về nhận nhiệm sở
lần đầu, có lần tôi cũng định về
đó xin vào học lớp Đệ thất v́ bà con tôi có
người dạy học trong đó, giáo sư Hưng, quê
ở Cái Nai, quận Lấp Ṿ; nhưng nhà tôi ở xa
Rạch Giá quá nên tía má tôi cho tôi lên Long Xuyên để
học cho gần; đến năm học Đệ nhị,
tôi lại muốn mon men vô đó nhưng cũng không thành và
trường Thoại Ngọc Hầu là nơi các Thầy
ở đây đă ban tặng cho tôi hầu hết những
chữ nghĩa mà bây giờ già rồi tôi c̣n giữ
được, như các chữ đang viết cho
Thầy đây. Một trong những vị Thầy ấy
là giáo sư Nguyễn Cao Đàn dạy Việt văn, Tết
này tṛn 90 mà vẫn mạnh và đang ở bên xứ Canada.
Thầy tôi rất thương tôi, một học tṛ nhà quê
năm xưa sau gần nửa thế kỷ mà không làm sao
quên được ơn Thầy. Thầy tôi và tôi hiện
giờ vẫn c̣n liên lạc thư từ.
Thành ra, đọc những t́nh cảm học tṛ Rạch
Giá dành cho Thầy và những cảm xúc mà Thầy cảm
nhận từ tấm chân t́nh của các em, các bậc
phụ huynh ở trong đó, tôi cảm động dữ
lắm. Cảm động v́ t́nh nghĩa thầy tṛ mà
cũng cảm động v́ cái nghề mà Thầy không
mơ, nhưng khi đă theo là phải chí t́nh chí nghĩa.
Cách Thầy dạy và cách Thầy nh́n về giáo dục
quả là những trăn trở mà một đời
người măi hoài trăn trở. Tôi mê lối nhận xét
ấy và tôi cũng mê cái phong cách ấy. Thầy viết:
Văn chương vốn là nguồn sống bất
tận, chảy miên man không ngừng nghỉ. Nó tự nhiên
như con nước, tươi tắn như giọt
sương, là hơi thở của trời đất, là
nhịp tim của muôn đời. Muốn truyền đi cho
được cái thông điệp huyền nhiệm đó,
người ta phải thở cùng hơi, đập cùng
nhịp với nó. Nghĩa là chính ḿnh phải sống
đẹp, sống thật với văn chương
mới làm cho người khác sống đẹp, sống
thật cùng với ḿnh được.
Và rồi Thầy lại băn khoăn về cách dạy
văn chương một cách máy móc đă có từ lâu
đời:
Chớ c̣n dạy văn chương mà nhốt văn
chương chữ nghĩa trong khuôn khổ chật
hẹp của giáo khoa th́ chỉ vô t́nh giết chết
văn chương thôi. Bởi vậy, dù không nói ra tôi
rất kỵ lối dạy văn chương một cách
máy móc, thiếu sáng tạo, bo bo theo sách vở như kẻ
ch́m tàu đeo riết lấy chiếc phao, không dám cục
cựa ..
Với thiên chức của một giáo sư Việt
văn, Thầy đưa ra nhận xét rất thiết
yếu:
Làm thầy dạy quốc văn mà không xui
được cho học tṛ biết trân trọng tiếng
mẹ đẻ, không hănh diện được nguồn
gốc, không yêu thương được đồng
chủng và nới rộng thêm ra tới tinh thần nhân ái
th́ phải kể là một thất bại đáng buồn.
Bởi v́ hơn ai hết, chỉ có người thầy
dạy quốc văn là có cơ hội nhắc cho đám
trẻ đời sống tinh thần giàu có, vị tha và
nhân hậu của người Việt qua bao nhiêu mẩu
chuyện hay, câu thơ đẹp và t́nh ư thi vị của
tổ tiên.
Phải chăng đó là một nhân sinh quan mới với
một giáo sư trẻ mới ra trường mà ngành giáo
dục của ḿnh từ những năm tháng ấy đă
cố lờ đi như người mê ngủ.
Thầy làm tôi nhớ Thầy tôi, cụ Nguyễn Cao Đàn,
như lời tự vấn lấy ḿnh, viết cho tôi trong
lá thư t́m lại học tṛ cũ sau gần năm
mưoi năm xa cách:
Ông già nhớ lại: thời ấy, những chiều
không dạy, đi xuống phố về, qua cầu Hoàng
Diệu ngược chiều với dẫy dài học sinh
trai gái lớn có, nhỏ có, từ trường Thoại
Ngọc Hầu và các trường tiểu học đang
líu ríu nườm nượp ra về, ông dừng
bước đứng nh́n, bần thần, ḷng vui lo
lẫn lộn: Ta làm ǵ cho những công dân nụ hoa
này trước một thời cuộc đang cuồn
cuộn sóng ngầm?
Và Thầy lại viết:
Tôi biết những em gái cha mẹ bị bom đạn
chết hết phải sống nhờ cô d́, đổi
miếng cơm ăn học bằng chuyện giữ em
gánh nuớc. Tôi biết những em trai tối tối
xuống bến cảng lựa cá từ khuya đến
năm sáu giờ sáng. Tôi biết những đứa
học tṛ hằng ngày đạp xe đi học cả
chục cây số, đêm về che đèn làm bài mà chỉ
chực chờ nhào xuống hầm trú ẩn khi có pháo kích.
Tôi làm ǵ đây khi buổi sáng trên bục giảng có một
bài làm không soạn, một bài học không thuộc kề
bên một cặp mắt đỏ hoe phờ phạc,
một cái đầu ngủ ngà ngủ gật? Tôi làm
được ǵ đây?
Trong đời này, c̣n có những ư tưởng nào
đẹp và thiêng liêng hơn những trăn trở
của các bậc Thầy như vậy nữa không?
Tôi đọc mê man tập sách mỏng vỏn vẹn 99
trang giấy c̣n thơm mực mà nghe ra cái ḷng học tṛ
tỉnh ngày xa xưa như thức dậy trong tôi tự
hồi nào với ḷng kính trọng một bậc Thầy.
Tôi đang nghi ngờ về các nhận định của
tác giả Nguyễn Văn Lục bàn về hiện
trạng lăo hoá nơi các nhà văn hải ngoại đăng
trên talawas sau khi đọc tác phẩm Nghề Thầy
của Thầy. Tôi tin tập sách Nghề Thầy
của Thầy sẽ không làm dáng văn chương mà là
một thứ Quốc văn giáo khoa thư tân biên
thời ly loạn, một loại giáo khoa thư cần cho
tuổi trẻ lẫn người già, cho đời này và
cho mọi thời.
Xin được gởi đến Thầy lời
cảm ơn của một đứa học tṛ quê ngày
xưa, ít nhiều có mang dáng dấp của những em
học tṛ nhỏ của Thầy ngày nào, với tất
cả tấm chân t́nh quư trọng.
Trân trọng,
LƯƠNG THƯ TRUNG
(Trích ĐẶC
SAN KG XUÂN ẤT DẬU-TRẦN CẨM TÚ chuyển)
© 2005 talawas[1] Nghề Thầy của
Cao Vị Khanh, là phụ bản đặc biệt của
Thư Quán Bản Thảo, sách dày 99 trang, do Thư Ấn
Quán phát hành tháng Giêng năm 2005. Là tác phẩm thứ 2
của Cao Vị Khanh sau Lệ từ nét ngang (Thư Ấn
Quán, 2001)