CÂU CHUYỆN TRÊN ĐỈNH NÚI
(GS Nguyễn Văn Phú)
Mời
đọc và tùy nghi thẩm định về đạo
Phật, một đạo hiền ḥa, qua bao thăng trầm
pháp nạn vậy mà vẫn tồn tại cho đến
ngày hôm nay. Có những lần vào thế kỷ thứ 13,
đạo Phật tưởng đâu đă không c̣n v́ bị
Bà La Môn (Ấn Độ) t́m đủ mọi cách để
cách tiêu diệt v́ quyền lợi ăn trên ngồi trước
của đạo nầy.
***
Sau khi từ
biệt
nhà sư
trụ
tŕ chùa Giải Oan ở
ngay chân núi, hai thầy tṛ bắt
đầu
lên dốc.
Mới
đi chân c̣n khoẻ, nhà sư
già bước
thoăn thoắt, chú tiểu
đồng
nhanh nhẹn
theo sau. Qua một đoạn
đường
gần
như dựng
đứng,
họ
đến
một
khu đất khá rộng
và phẳng
với
mấy
chục
ngôi tháp, ngôi lớn nhất
và đẹp nhất
là tháp vua Trần Nhân Tông - vị
sáng lập
Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử - bỏ
ngôi đi tu, tên là Điều
Ngự
Giác Hoàng hay Hương
Vân đại
đầu
đà.
Không nấn
ná nhiều,
họ
tiến
nhanh trên đường
dốc
để
lên chùa Hoa Yên, ngôi chùa chính của
khu Yên Tử, lớn
và đẹp. Tiểu
đồng
đứng
dưới
cây đại già, đọc
được
đôi câu đối:
Dẹp giặc độ chúng sinh, làm vua làm
Phật,
Dạy dân tu thiền giáo, yêu đạo yêu đời.
Suối
Ngự
róc rách chảy bên cạnh
chùa. Hai thầy tṛ rửa
mặt
rồi
tiếp
tục
lên cao. Con đường
không phải
là đường, thật
ra chỉ
là một
lối
đi chật hẹp,
cheo leo, hai người
gắng
theo hẻm
nhỏ
giữa
hai vách đá để đến
Cửa
Trời.
Không khí trong
lành, mát mẻ, làm cho người
ta quên cả mệt
nhọc,
cố cất
bước
thêm, mong lên đỉnh núi. Mục
tiêu đă đạt: hai thầy
tṛ đến chùa Đồng,
gọi
là chùa mà thật ra chỉ
là một
cái am, mỗi bề
chừng
hơn
một
mét, cao khoảng một
mét rưỡi.
Gọi
là chùa Đồng v́ làm bằng
đồng,
nhưng
sau bị mất
nên được làm lại
bằng
gạch.
Hai thầy
tṛ thắp
nhang làm lễ, xong ngồi
nghỉ,
phóng tầm
mắt
ra xa. Được ngày trời
đẹp,
họ
thấy
tận
Vịnh
Hạ
Long. Gió từ biển
thổi
vào làm cho cả ngàn cả vạn
cây thông rung động vi vu. Trước
cảnh
bao la thơ mộng
ấy,
hai thầy
tṛ không ai nói câu nào. Quay về
phía tay mặt, xa xa, một
rặng
núi hiền
lành mờ mờ
xanh xanh ven theo ḍng sông Kinh Thầy.
Ngọn
Yên Phụ ở
đó chăng?
Thấy
chủ
tiểu
yên lặng,
vị sư
già hỏi:
- Con có điều
ǵ suy nghĩ thế?
- Dạ,
bạch
thầy,
đứng
trước
cảnh
này con nghĩ đến hai câu: "Dù ai quyết chí tu hành, có về Yên Tử mới đành ḷng tu".
Và con không ngạc nhiên về
việc
lên núi này để tu hành. Tuy nhiên
bỏ cả
ngai vàng để đi tu như
ngài Điều
Ngự
Giác Hoàng, điều ấy
làm con tự hỏi:
Đạo
Phật
có những
điểm
ǵ đặc biệt
đến
mức
thu hút cả bậc
đế vương
như vậy.
- Có chứ!
- Xin thầy
thương
dạy
cho con.
- Được,
đạo
Phật
có một
số
đặc
điểm.
Thứ
nhất,
đạo
Phật
không nhận
có một
đấng
thần
linh sáng tạo ra vũ trụ,
vạn
vật,
nghĩa là không nhận có một
nguyên nhân đầu tiên. Ở
Đông phương, ngoài đạo
Phật
c̣n đạo Lăo nói đến "nhất
sinh nhị,
nhị
sinh tam, tam sinh vạn vật".
Cái "nhất" ấy
là "ĐẠO"; Đạo
Khổng
nói đến "thái cực
sinh lưỡng
nghi (âm dương), lưỡng
nghi sinh tứ tượng,
tứ tượng
sinh bát quái ..". Nguyên nhân đầu tiên
ĐẠO,
THÁI-CỰC
không có h́nh tượng
và không được
nhân cách hóa.
- Bạch
thầy,
thế
th́ đạo Phật
nói đến cái ǵ?
- Đạo
Phật
có cái lư duyên khởi.
Nhân gặp
đủ
duyên th́ có sự vật.
Cái nầy
làm nhân cho cái khác, cái khác lại
làm nhân cho cái khác nữa, muốn
có quả
th́ phải
đủ
duyên. V́ lập trường
ấy
mà có người
cho rằng
đạo
Phật
là vô thần.
Điều
này cần
xét lại
v́ cái quan niệm về
vô thần
và hữu
thần
cần
phải
rơ rệt
mới
thảo
luận
sâu hơn được.
- Đạo
Phật
c̣n đặc điểm
ǵ nữa,
bạch
thầy?
- Đạo
Phật
có thuyết vô ngă tức
là "không có ta". Lư vô ngă rất
khó. Nôm na mà nói th́ đức
Phật
dạy
như
thế
này: Cái mà ta vẫn coi là ta gồm
có thân và tâm. Thân chẳng qua là do những
cái khác hợp lại
mà thành, Phật học
gọi
đó là duyên hợp. Hết
duyên th́ hết thân. Thân tuy có, mà là
"giả
có" chứ không thật
có. Tâm th́ biến chuyển
từng
giây từng
phút, lúc vui lúc buồn, lúc thương
lúc giận.
Nó tuy có mà là "giả có". Cái ta
mà người
ta thường
nói đến chỉ
là "cái ta" do xă hội
qui ước
ra, gọi
là "ta" cho tiện thôi!
- Có thầy
đây, có con đây, mà lại
bảo
rằng
không có ta, thật là bí hiểm!
- Thế mới
gọi
là đặc điểm,
phải
mất
nhiều
thời
gian tham cứu mới "ngấm",
phải
mất
nhiều
thời
gian tu tập mới "vô".
- Thế
là hai đặc điểm
rồi,
bạch
thầy.
- Đúng, cái thứ
ba là: Đạo Phật
đ̣i hỏi Phật
tử "hiểu rồi mới tin"
chứ
không phải "nghe
ǵ tin nấy".
Có cả một
bài kinh nói về chuyện
nầy,
đó là kinh Kalama và đặc
biệt
nhất
là điểm thứ tư:
Tính cách khoan dung. Đức
Phật
dạy
đệ tử
không được bài bác các tôn giáo
khác. Khi có một người
khác đạo đến
xin quy y Phật, Ngài bảo
nên về
suy nghĩ kỹ rồi
hăy quyết
định
và khuyên người đó phải
tôn trọng
sư
phụ
cũ. V́ tính cách khoan dung đó mà trong lịch
sử
không có chiến tranh nào mang tính cách
Phật
giáo cả.
- Bạch
thầy,
đạo
Phật
có giáo điều không?
- Tùy theo cách hiểu
biết.
Có người
bảo
rằng
giáo điều của
đạo
Phật
là "Vạn pháp có chung một
bản
thể
tuy rằng
h́nh tướng
khác nhau. Ai cũng có Phật
tánh, ai cũng có thể thành Phật
được".
Điều
này cho biết: người
tu Phật
có thể
thành Phật
như vị
sáng lập
ra Phật
giáo. Ở
tôn giáo khác, đệ tử
không thể
lên ngang giáo chủ được!
V́ không thể "chứng
minh" rằng vạn
pháp có chung một bản
thể
và ai ai cũng có Phật tánh, nên người
ta nghĩ rằng câu ấy
là một
giáo điều. Tuy nhiên cũng có
người
trả lời
rằng:
Tu hành đến chứng
ngộ sẽ "thấy",
không ai chỉ cho được!
Mặt
trời
đă ngả bóng, hai thầy
tṛ khoác bị lên vai, ngắm
nh́n cảnh
vật
xung quanh một lần
nữa;
những
đám mây trắng cuồn
cuộn
nổi
bật
trên nền
trời
xanh bắt
đầu
ngăn tầm mắt
phóng ra vịnh Hạ
Long và đảo Cát Bà, nhưng
gió mát vẫn
thổi
nhè nhẹ,
rừng
thông vẫn
reo vi vu êm ả, ḷng người
lâng lâng, vừa say mê cảnh
đẹp
của
đất
nước,
vừa
muốn
theo dấu
chân của
Điều
Ngự
Giác Hoàng.
Hai thầy
tṛ đi lần xuống
núi, đến chùa Hoa Yên nghỉ
đêm tại đó. Ăn xong lương
khô đạm
bạc
cạnh
đống
lửa
đốt
lên để xua khí lạnh
ban đêm, thầy tṛ ngồi
yên lặng.
Thầy
nhập
thiền,
tṛ nghiền
ngẫm
về
những
điều
vừa
được
nghe. Chú tiểu đồng
bỗng
nhớ lại
câu: Đạo là để thực hành chứ không phải là để nghiên cứu suông.
Ánh b́nh minh ló rạng,
chú tiểu
có cảm
giác ḷng ḿnh cũng đang có b́nh minh.
GS. Nguyễn Văn Phú
(Nhă Khanh sưu
tầm
và chuyển)