Một nụ cười cho tôi sống một
ngày
(Chu
Thập)
Kể
từ một tháng nay tôi "ghiền" chạy bộ.
Mưa gió hay cảm thấy mệt mỏi đến
đâu, tôi cũng đều cố gắng chạy. Sáng
không chạy th́ chiều cũng chạy. Phần thưởng
dành cho tôi thật lớn: lượng đường trong
máu của tôi đă xuống đến mức b́nh thường.
Cách
đây ba năm, đọc kết quả thử máu của
tôi, bác sĩ gia đ́nh của tôi giữ tôi lại và bắt
tôi nốc nguyên một ly nước đường. Hai tiếng
đồng hồ sau tôi trở lại để thử
máu. Sau khi coi kết quả, như một quan ṭa, bác sĩ
dơng dạc "tuyên án": ông
bị tiểu đường loại 2. Tôi thấy rụng
rời tay chân. Nghĩ đến những người có
đôi bàn chân tím ngắt hoặc bị cưa chân, cụt
ngón hoặc bị mù ḷa, tôi thấy như trời sắp
đổ xuống trên tôi.
Bác
sĩ cho toa để tôi mua thuốc Diaformin và dụng cụ
thử máu mỗi ngày. Thử máu th́ tôi thử nhưng uống
thuốc th́ tôi gật đầu cho có lệ. Mua thuốc về,
tôi cất kỹ trong tủ. Tôi đă có kế hoạch tự
chữa bệnh của ḿnh: kiêng cữ và tập thể dục.
Đây là hai "liều thuốc" có sẵn trong tầm
tay và chẳng tốn kém bao nhiêu mà lâu nay tôi xem thường.
Thế là trong một tháng liền, tôi ăn uống theo
đúng sách vở dành cho những người bị tiểu
đường và tập thể dục mỗi ngày. Lượng
đường trong máu của tôi đă xuống đến
mức của một người bị tiểu đường
được coi là "kiểm soát" một cách "rất
tốt" (very good diabetic control). Đúng một tháng sau,
tôi đi gặp bác sĩ và khoe thành tích của ḿnh. Bác sĩ
khen lấy khen để. Nhưng thói thường, sự
tự măn dễ làm cho con người vấp ngă. Tưởng
ḿnh đă thoát khỏi nguy biến, tôi bắt đầu
lơ là trong việc kiêng cữ và tập thể dục và
cũng chẳng thèm thử máu thường xuyên làm ǵ cho
"tốn" máu.
Cách
đây một tháng, tôi xin thử máu tổng quát và trở lại
gặp bác sĩ. Lần này, khi bác sĩ cho xem kết quả
thử máu, tôi mới tá hỏa tam tinh. Lượng
đường trong máu của tôi lên cao chưa từng thấy.
Bà bác sĩ trẻ người Tàu lại cho toa mua thuốc
và nắm tay tôi dặn ḍ rất kỹ: ông phải uống
thuốc! Bà c̣n trấn an tôi: có người uống thuốc
ba lần một ngày có sao đâu!
Lần
này th́ tôi "vâng lời" bác sĩ và uống đúng ba
ngày. Lượng đường có xuống, nhưng bù lại
tôi phải chịu một số hiệu ứng phụ
như chóng mặt, muốn mửa. Cứ tưởng suốt
những năm tháng cuối đời phải lệ thuộc
vào thuốc và sống trong t́nh trạng này tôi thấy lo. Tôi
tự trách ḿnh: không chịu kiêng cữ trong việc ăn uống
và ngồi quá nhiều trước màn ảnh vi tính. H́nh ảnh
của cha tôi lại hiện về. Suốt một đời,
cha tôi không hề biết đến một pḥng mạch của
bác sĩ hay bất cứ một viên thuốc Tây nào. Hết
ra ruộng, cha tôi lại làm vườn và đi bộ. Mỗi
ngày, sau bữa ăn chiều, ông uống ba viên thuốc lô
hội (Aloe vera) mua trong tiệm thuốc Bắc. Sau 75, thiếu
thốn mọi bề, vậy mà cha tôi cũng trở thành
người thọ nhứt trong làng và qua đời ở
tuổi 95.
Không
biết có nhờ cha tôi phù hộ không mà trong những ngày xuống
tinh thần nhứt v́ biết ḿnh bị tiểu đường,
trong khi t́m hiểu về căn bệnh này, tôi đọc
được trong tạp chí Readers Digest, ấn bản Úc
châu, số ra tháng Tư vừa qua, một bài viết về
"5 thực phẩm có thể cứu thế giới"
(five foods that may save the world). Đứng hàng thứ hai trong
5 thực phẩm "cứu rỗi" này là trái khổ qua (người miền
Bắc Việt nam gọi là mướp đắng. Trong
Anh ngữ, trái này có tên là Bitter Melon). Trái khổ qua có chứa
chất "charantin" có khả năng giúp tiếp nhận
Insulin do tuyến tụy tiết ra và điều ḥa lượng
đường trong máu. Năm 2007, Bộ Y Tế của
Phi Luật Tân đă công nhận dược tính trên đây của
trái khổ qua và cho áp dụng vào việc chữa trị bệnh
tiểu đường loại 2.
Như
lênh đênh giữa biển khơi mà quơ được
phao cứu hộ, tôi liền ngưng uống Diaformin và thử
dùng trái khổ qua. Sẵn dịp một ông bạn tặng
cho một mớ khổ qua loại cực kỳ đắng
và trồng theo phương pháp tự nhiên, nghĩa là không
dùng phân hóa học hay thúc cho mau lớn, tôi liền bắt
tay vào việc tự chữa trị. Mỗi ngày tôi ăn sống
nửa trái. Đắng cỡ nào tôi cũng ráng nhai và nuốt.
Ngoài ra tôi cũng t́m mua trà khổ qua để uống mỗi
ngày thay nước.
Sau
đúng 3 tuần lễ ăn và uống trà khổ qua, cộng
với kiêng cữ và chạy bộ mỗi ngày, lượng
đường của tôi đă xuống đến mức
của một người không bị tiểu đường.
Tôi
không biết yếu tố nào mang lại kết quả trên
đây. Tôi tin ở phép lạ của trái khổ qua. Tôi cũng
nh́n thấy hiệu quả của sự kiêng cữ.
Nhưng phần thưởng lớn nhứt tôi lại gán
cho một giờ chạy bộ mỗi ngày. Với tôi, chẳng
có thuốc tiên nào có thể thay thế cho sự kiên tŕ vận
động. Một giờ chạy bộ mỗi ngày cũng
mang lại cho tôi một niềm vui đủ lớn để
sống một ngày.
Người
Úc trong vùng tôi ở rất thích thể dục. Bờ hồ
gần nhà tôi có lẽ là nơi gặp gỡ nhộn nhịp
nhứt vào buổi sáng và buổi chiều. Xung quanh bờ hồ
sát gần mé nước với chu vi cũng đến cả
hơn chục cây số có một con đường xi
măng chỉ dành riêng cho người đi bộ và xe
đạp. Một giờ chạy bộ với tốc
độ vừa phải của một người đă
"thấy đời xanh rêu" như tôi chỉ vừa
đủ để chào hỏi chừng 2,3 chục người
đi hoặc chạy bộ mỗi buổi sáng. Chỉ cần
một cái gật đầu, một lời chào và nhứt
là một nụ cười thôi cũng đủ cho tôi thấy
muốn sống một ngày. Người Úc ở vùng tôi sống,
ai cũng có thói quen chào hỏi người xa lạ. Hầu
như ngày nào tôi cũng tính nhẩm: có đến 99 phần
trăm những người tôi gặp khi chạy bộ
đều dành cho tôi một câu chào hỏi, dĩ nhiên theo một
công thức quen thuộc và hơn một nửa sẵn sàng
nhoẻn miệng cười. Nhưng trong số những
người tôi gặp mỗi ngày, cảm động nhứt
vẫn là nụ cười của một cụ già ngày nào
cũng ngồi chờ ở trạm xe buưt gần khu tôi ở.
Tôi đoán có lẽ cụ là cư dân của khu "tự
lo" (self care) trong viện dưỡng lăo cũng gần
nhà tôi. Ngày nào cũng vậy, hễ mỗi lần thấy
tôi chạy qua trước mặt, cụ đều chào hỏi,
kèm với một nụ cười hồn nhiên như trẻ
thơ và nhứt là đưa tay như ra hiệu khuyến
khích tôi chạy cho khỏe. Tôi
"ghiền" chạy bộ mỗi ngày có lẽ cũng
v́ nụ cười của cụ già này.
Tôi
đọc được ở đâu đó một giai thoại
về văn hào Pháp Antoine de Saint Exupéry. Ông từng là một
phi công trong thời Đệ nhị thế chiến. Chính
từ những năm tháng này mà ông đă viết ra truyện
ngắn có tính tự thuật với tựa đề
"Nụ cười" (Le sourire). Trong câu truyện, ông
thuật lại việc ông bị quân Đức quốc xă
bắt làm tù binh và bị đối xử một cách tàn bạo.
Ông viết: "Tôi trở
nên quẫn
trí. Bàn tay tôi giật
giật,
cố
gắng
rút trong túi áo một
điếu
thuốc.
Nhưng
tôi
lại
không có diêm quẹt.
Qua hàng chấn
song nhà giam, tôi trông thấy
một
cai tù. Tôi gọi:
"Xin lỗi,
anh có lửa
không?".. Anh ta nhún vai rồi
tiến
lại
gần.
Khi rút que diêm, t́nh cờ
mắt
anh nh́n vào mắt
tôi. Tôi mỉm
cười
mà chẳng
hiểu
v́ sao lại
làm thế.
Có lẽ
v́ khi muốn
làm thân với
ai đó, người
ta dễ
dàng nở
một
nụ
cười.
Lúc này dường
như
có
một
đốm
lửa
bùng cháy nhanh qua kẽ
hở
giữa
hai tâm hồn
chúng tôi, giữa
hai trái tim con người.
Tôi biết
anh ta không muốn,
nhưng
do tôi đă
mỉm
cười
nên anh ta phải
mỉm
cười
đáp lại.
Anh ta bật
que diêm, đến
gần
tôi hơn,
nh́n
thẳng
vào mắt
tôi và miệng
vẫn
cười.
Giờ
đây trước
mặt
tôi không c̣n là một
viên cai tù Phát xít nữa,
mà chỉ
c̣n là một
con người.
Anh ta hỏi
tôi: "Anh có con chứ?".
Tôi đáp: "Có" và lôi từ
trong ví ra tấm
h́nh nhỏ
của
gia đ́nh ḿnh. Anh ta cũng vội
rút trong túi áo ra h́nh những
đứa
con và bắt
đầu
kể
lể
về
những
kỳ vọng
của
anh đối
với
chúng. Đôi mắt
tôi nḥa lệ.
Tôi biết
ḿnh sắp
chết
và sẽ
chẳng
bao giờ
gặp
lại
người
thân. Anh ta cũng bật
khóc. Đột
nhiên, không nói một
lời,
anh ta mở
khóa và kéo tôi ra khỏi
buồng
giam. Anh lặng
lẽ
đưa
tôi
ra khỏi
khu vực
thị
trấn
chiếm
đóng, thả
tôi tự
do rồi
quay trở
về.
Thế
đó, cuộc
sống
của
tôi đă được
cứu
rỗi
chỉ
nhờ
một
nụ
cười".(x.
Hanoch McCarty, Short Stories to warm the heart).
Tôi
vẫn luôn tâm niệm về những ǵ người ta
thường viết về nụ cười. "Giá
của
một
nụ
cười
rẻ
hơn
tiền
điện,
thế
nhưng
nụ
cười
tỏa
sáng nhiều
hơn
hàng
trăm
bóng
đèn.
Không ai nghèo đến
nỗi
không thể
nở
nổi
một
nụ
cười.
Cũng chẳng
ai đủ
giàu để
sống
mà không cần
đến
nụ
cười
của
người
khác. Một
nụ
cười,
vốn
liếng
tuy nhỏ
bé nhưng
lại
sinh hoa lợi
nhiều,
nó làm giàu cho kẻ
đón nhận
nó mà không hề
làm kẻ
trao tặng
phải
nghèo đi. Ngược
lại,
có khi người
ta sẽ
c̣n măi măi ghi nhớ.
Không
ai đủ
giàu mà bỏ
qua không nhận
lấy
một
nụ
cười.
Nụ
cười
tạo
được
hạnh
phúc trong gia đ́nh. Nụ
cười
là dấu
hiệu
của
nhân ái. Nụ
cười
đem lại
sự
can đảm
cho người
nản
chí hoang mang.
Nếu
có một
lúc nào đó trong đời,
bạn
gặp
một
ai đó không cho bạn
được
một
nụ
cười
như
bạn
đáng được
nhận,
th́ bạn
hăy quảng
đại
mà nở
một
nụ
cười
với
người
đó. Bởi
lẽ
không ai cần
đến
nụ
cười
cho bằng
người
không bao giờ
biết
cười". (Khuyết
Danh).
Dĩ
nhiên, cười cũng có 36 vạn cái cười khác nhau.
Có cái cười phải trả bằng cái giá của cả
một đế quốc như cái cười của nàng
Bao Tự thời Đông Chu liệt quốc. Có cái cười
của bạo chúa Nero khi cho nổi lửa đốt thành
La Mă để có cái cớ bách hại các tín hữu Kitô tiên
khởi .. Gần đây, có cái cười chỉ có thể
làm cho thế giới văn minh muốn nôn mửa đó là
cái cười của những tên khủng bố người
Nam Dương khi ra trước ṭa để bị xét xử
v́ tội đặt bom sát hại những người vô tội.
Nhưng
loại bỏ những cái cười ngạo nghễ,
độc ác và điên cuồng ấy đi, người
ta thấy nụ cười nào cũng đều là gạch
nối tự nhiên giữa con người với nhau.
Cười là muốn đi vào cái phần sâu thẳm nhứt
của tâm hồn mà không ǵ có thể đạt tới
được. Cười có sức tước đoạt
mọi vũ khí tàn độc nhứt trong con người.
Bên dưới cái vỏ ngụy tạo của mỗi
người là một "cung thánh" bất khả xâm phạm.
Đó là nơi duy nhứt để gặp gỡ nhau, liên
kết với nhau bên kia ranh giới của hận thù,
đố kỵ, sợ hăi hay chiến tranh. Chính nơi
đây mà văn hào Saint Exupéry và người cai tù Phát xít
đă gặp nhau và gặp nhau nhờ một nụ cười.
Tác
giả Hanoch McCarty, khi b́nh về truyện ngắn "Nụ
cười" của Saint Exupéry, đă nêu lên câu hỏi:
"Tại sao chúng ta cười khi gặp một bé
thơ?". Và tác giả đă trả lời: "Có lẽ v́ chúng ta thấy được một tâm hồn tinh sạch không vướng mắc trong bất cứ một lớp vỏ bọc nào. Chúng ta biết và cảm thấy nụ cười của trẻ thơ là một nụ cười chân thực, không lừa dối và tâm hồn trẻ thơ trong chính chúng ta mỉm cười đáp trả một cách say sưa".
Nụ
cười chân thực luôn có tính lây lan.Thấy ai đó
cười một cách chân thực, chúng ta không thể không
cười đáp trả. Tôi thường nghĩ đến
nụ cười của Đức Đạt Lai Lạt
Ma, nhà lănh đạo tinh thần của Tây Tạng. Nh́n
ngài, tôi mới hiểu được h́nh tượng của
Phật Di Lặc. Tôi cho rằng với Phật Giáo, đời
không chỉ là bể khổ. Đời cũng đáng
để vui hưởng, để cười và để
trao cho nhau nụ cười hơn là thù hận hay buồn
phiền.
Nh́n
nụ cười của Đức Đạt Lai Lạt
Ma, tự dưng tôi cũng muốn làm một phật tử. Dĩ nhiên theo cách thế của
tôi hay ít ra theo tinh thần của nhà lănh đạo tinh thần
này. Cuộc sống có quá nhiều phúc lành cần được
vui vẻ đón nhận và chia sẻ với mọi người.
Ngay cả bệnh tật, xét cho cùng, cũng là một phúc
lành. Nhờ nó mà ta biết cảm thông với người
khác hơn. Nhờ nó mà ta cũng biết cảm thông với
bản thân hơn. Và dĩ nhiên, cũng nhờ nó mà ta
được tôi luyện để biết mỉm cười
với cuộc đời.
Chu
Thập
(P.K.O
sưu
tầm và chuyển)