Thân
phận người con gái của Cần Thơ
(Bút
Kư: Đặng Mỹ
Dung)
Tôi chào đời
trong khói lửa chiến tranh, anh chị em tôi lớn lên
trong cái nôi của cách mạng. Những bàn tay kháng chiến
đă ru ngủ, bao bọc chúng tôi cho đến lúc chúng tôi
thành người.
Cha tôi là một
nhà cách mạng, một người đàn ông lư tưởng,
thơ mộng, yêu quê hương, yêu gia đ́nh. Từ một
thanh niên chống Pháp dành tự do độc lập cho
nước nhà, ông trở thành một đảng viên cao cấp
của đảng Cộng Sản Việt Nam, và giữ chức
Đại Sứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam tại Liên Xô 7 năm ṛng ră cho đến ngày miền Bắc
thôn tính miền Nam.
Mẹ tôi là
một người can đảm, chung thủy với gia
đ́nh và đất nước. Bà yêu chuộng tự do,
tôn thờ đạo làm người, như hàng triệu
đàn bà Việt Nam thuần túy khác. Má tôi vừa làm mẹ
vừa làm cha, nuôi một đàn con thơ trong suốt khoảng
thời gian chiến tranh, từ trong bưng biền cho
đến những năm khó khăn chốn thị thành.
Năm 1954 ba
tôi quyết định tập kết ra Bắc. T́nh nước
đă nồng mà t́nh nhà cũng đậm nên ba tôi muốn
đem cả vợ và 7 con ra Bắc. Năm đó má tôi 37 tuổi
đời, không có một tuổi đảng nào, không một
chức tước ǵ trong chánh phủ cách mạng. Nhưng
má tôi đă hiểu rộng, đă biết nh́n xa mà lo sợ
và chán ngán cuộc sống trong chế độ mà ba tôi
đang thờ phượng. Má tôi can đảm từ chối
lời mời của đảng và của chồng. Bà nói
nhỏ với ba tôi: "Con tôi
c̣n nhỏ quá để tôi nuôi. Nếu để Bác Hồ
của anh nuôi chúng nó sẽ hư hết". Ba tôi muốn chồng đâu vợ
đó, muốn cho chúng tôi được đi học ở
ngoài Bắc rồi có thể được du học bên
Tàu bên Nga. Nghe nói vậy, má tôi c̣n sợ hơn nữa. Thế
là ba tôi đành đi tập kết một ḿnh và dắt
người anh lớn của tôi theo và hứa sau hai năm
sẽ trở về với gia đ́nh sau cuộc tổng
tuyển cử mà ông tin là cộng sản chắc chắn sẽ
thắng.
Cuộc chia
ly nào cũng đau buồn, cũng mất mát. Kể từ
ngày ba tôi ra đi má tôi mất đi cái diễm phúc
được làm vợ của một nhà cách mạng, của
một người đàn ông đẹp trai, lăng mạn,
yêu vợ thương con. Nhưng bù lại má tôi được
tự do chọn lựa. Kết quả của sự lựa
chọn đó là chúng tôi được sống ở miền
Nam, được hít thở không khí tự do và hiểu
được thế nào là dân chủ.
Ba tôi đi rồi
má tôi rời khỏi bưng biền, trở về làng sống
với cha mẹ. Lúc đó tôi mới có 9 tuổi, hai người
chị lớn 16, em trai kế tôi 6 tuổi, em gái 3 tuổi
và đứa em út vừa được 6 tháng. Má tôi gặp
biết bao khó khăn trong đời sống cô đơn ở
một hoàn cảnh nhiều thử thách. Nào là một
đàn con nhớ cha cứ hỏi "Chừng nào ba về?",
nào là bị công an miền Nam theo dơi, điều tra về
ông chồng tập kết của bà. Trong khi đó bọn
Việt Cộng nằm vùng cũng thường gơ cửa
sau kêu gọi đóng góp cho cách mạng. Là một người
đàn bà có bản tánh thẳng thắn, dứt khoát, má tôi một
mực trả lời với công an quốc gia rằng: "Tôi lo may vá nuôi đám con nít
phá gạo c̣n không nổi làm sao có th́ giờ đi kiếm
chồng tôi được". Khi phải giáp mặt với
bọn Việt Cộng nằm vùng, má tôi thành thật nói:"Ba của sắp nhỏ
để lại sáu đứa con chỉ dặn mẹ con
tôi chờ hai năm ổng về. V́ con c̣n nhỏ quá nên ổng
không dặn tôi phải tham gia tổ chức nào, chỉ mong
cho tôi mạnh giỏi nuôi con ăn học tới nơi tới
chốn".
Lúc 10 hay 11 tuổi,
tôi khám phá ra là tôi yêu thương cái làng của ông bà tôi ở.
Thương con sông nhỏ, thương mảnh vườn
cam, vườn quít, thương hàng dừa, thương ruộng
lúa từ mùa khô cho đến mùa nước lũ. Tôi cũng
biết t́nh yêu đó sở dĩ mà có là nhờ được
làm con của một người yêu nước và làm cháu của
một gia đ́nh nông dân chất phác. Bà ngoại tôi
thương từ hột lúa giống, tới trái cam, cây
quít trong vườn. Tôi nhớ lại những năm mà
cách mạng lấy nhà, lấy đất của chủ
điền cho những người đi theo cách mạng
và gia đ́nh họ trú ngụ, chủ điền bị
đuổi ra khỏi nhà tạm thời. Tôi so sánh giữa
đời sống trong vùng được gọi là giải
phóng dưới chế độ của Hồ Chí Minh và
đời sống của ông bà tôi ở một nơi mà cộng
sản chưa tới được, tôi bỗng rùng ḿnh v́
không ngờ các
cán bộ cách mạng lại hà hiếp người dân
như vậy!
Tôi may mắn
được lớn lên trong một đại gia đ́nh
mà vận nhà, vận nước gắn liền với
đời sống của chúng tôi. Bà con họ hàng xa gần,
phần đông là nông dân, thường đến nhà ông bà
tôi để bàn luận về việc nước, chuyện
thời sự, chuyện phân chia Bắc Nam. Người th́
sợ lính của ông Hồ, kẻ th́ nghe ông ngoại tôi
đọc nhựt tŕnh rồi bàn chuyện nước non.
Đặc biệt là ḍng họ tôi không ai có ư nghĩ chánh phủ
nào cũng vậy. Họ là những người thấu hiểu
thời sự nhờ giao thiệp, gần gũi với ông
ngoại tôi, với các cậu của tôi và với ba tôi. Ai
tin tưởng ở ông ngoại tôi th́ chống cộng, ai
ngưỡng mộ ba tôi và các cậu tôi th́ một mực
tin cộng sản dưới lốt Việt Minh là những
người chống xâm lăng cứu nước.
Tôi nhớ
năm 1955 hay 1956 ǵ đó, dân trong làng họp nhau ở nhà
ông bà tôi chờ sao chổi mọc lên. Có người muốn
cán chổi xoay về hướng Bắc để lính ông
Hồ quét sạch miền Nam, Nhưng cũng có người
lại mong cán chổi xoay về hướng Nam để
đập tan Bắc Kỳ Hà Nội. Tôi không muốn ba tôi
chết nếu người ta đập tan Bắc Kỳ
Hà Nội, chỉ muốn ông bỏ đảng về với
gia đ́nh thôi.
Không có cha,
tôi quấn quưt bên ông ngoại. Có lần tôi hỏi ông sao ba
tôi đi ra Bắc mà bè bạn đồng chí của ba không
c̣n ai giúp đỡ chúng tôi như trước nữa? Ông
ngoại tôi nói họ cũng đă đi hết với ba
tôi rồi. Có hơn 180,000 người tập kết ra Bắc.
Mấy ngày sau tôi hỏi ông là má không theo ba tập kết ra
Bắc th́ má có sai không? Ông tôi khuyên:"Ráng siêng học lẹ
lên để đọc nhựt tŕnh mà biết thêm tin tức
với người ta. Ngoài Bắc có 7, 8 trăm ngàn người
di cư vô Nam. Họ sợ cộng sản quá họ mới
phải bỏ làng bỏ xóm ra đi th́ má con ngu dại ǵ mà
đi nạp ḿnh cho thằng già Hồ?"
Ông tôi rất
trọng việc học nên đă kèm cho một đàn cháu 15
đứa đi học. Ông khuyên chúng tôi phải chăm học
và ngoan ngoăn để má tôi an tâm và sau này có thể giúp đỡ
má. Ông tôi chỉ cấm chúng tôi có một điều là không
được theo Việt Cộng. Chỉ có bọn tôi,
con của má tôi, là không một ai theo Việt Cộng.
Nhưng năm người chị, con của cậu tôi,
đều nối gót cha chống Mỹ cứu nước.
Tôi sống
trong một giai đoạn của lịch sử Việt
Nam mà ngày hay đêm không phân biệt được, phải
hay trái, trắng hay đen đều mịt mù, không rơ ràng
đối với tôi. Nhưng điều dễ nhận thấy
nhứt trước mắt tôi là những cán bộ Việt
Cộng nằm vùng đă có những hành động bạo ngược.
Dù c̣n nhỏ
tôi cũng hiểu rằng cái ǵ bạo ngược là phi
nghĩa, là trái ḷng dân, là nghịch ư trời.
Từ
năm 1954 cho đến 1975, má tôi một ḷng chung thủy
chờ chồng dù suốt thời gian đó má tôi không nhận
được một lá thơ, một lời nhắn hay
một bức h́nh nào của ba tôi. Nhưng bà vẫn tin là
ông c̣n sống. Chúng tôi cũng muốn tin ba ḿnh c̣n sống.
Tháng Tư
năm 1975, chồng tôi về Việt Nam để t́m cách
rước má tôi, mặc dầu lúc đó sĩ quan Mỹ
không được vô Sài G̣n nếu không có sự vụ lịnh.
Nhưng chồng tôi nói thà bị ra ṭa án quân sự Mỹ
c̣n hơn là để má và các em tôi ra ṭa án nhân dân của cộng
sản.
28 tháng Tư
năm 1975 má tôi và hai đứa em rời Sài G̣n. Trong một
buổi sáng mặt trời chưa lên má tôi mất nước,
mất dịp được gặp lại đứa con
trai lớn theo cha đi tập kết. Bà không được
đem theo hành lư, chỉ có 1 cái valise nhỏ, trong đó má
tôi gói ghém hết những kỷ niệm của đứa
con trai tử nạn v́ máy bay trực thăng.
Má tôi bỏ
đi là một h́nh thức của cái thau nước tạt
vào mặt đồng chí của ba tôi. Nhưng ba tôi kiên nhẫn,
thông cảm và ước mong má tôi quay trở về Việt
Nam với ông. Ba tôi yêu cầu vợ chồng tôi đưa
má tôi qua Pháp để ông rước má tôi về Việt
Nam sống với ông và anh cả của tôi. Lúc đó tôi
không biết có một phép lạ nào đă giúp tôi lo
được giấy tờ đưa má tôi qua Pháp gặp
ba tôi. Thời thế tạo anh hùng chớ tôi không biết
hóa phép.
Chị em tôi
không muốn má về Việt Nam mà chỉ muốn ba má
được sống bên nhau trong những năm c̣n lại
của hai người. Nhưng chúng tôi cùng đồng ư rằng
để má tự quyết định. 21 năm về
trước má đă tự quyết định cho đời
má và quyết định cho chị em chúng tôi. Lúc đó má
tôi mới có 37 tuổi. Tất cả trong tay má, tất cả
trong tim má và bài học lịch sử của đất
nước má đă thuộc ḷng.
Phút giây tái ngộ
của hai vợ chồng được kiểm soát bằng
cặp mắt của t́nh báo cộng sản. Tôi muốn họ
đi chỗ khác để ba má tôi tự do nói chuyện
nhưng họ nói họ có bổn phận phải giữ
an ninh cho hai ông bà. Sau hơn một tuần gặp nhau, tiếng
khóc xen tiếng cười của cha mẹ tôi làm cho tôi
tưởng tôi đang sống trong mơ hay lạc vào một
thế giới thần tiên nào đó.
Từ
thơ mộng đến ác mộng chỉ xảy ra trong một
thời gian ngắn. Khi má tôi đă sẵn sàng theo ba tôi về
Việt Nam, bà bỗng nửa đùa nửa thật hỏi:
"Tôi về Sài G̣n mấy thằng cán ngố sẽ làm ǵ
tôi, anh biết không?"
Ba tôi chau mày
nói: "Sao em dùng những danh từ chữ không đẹp
đẽ ǵ hết vậy?"
Má tôi liền
đáp:"Trong Nam của tôi chỉ có những chữ
đó để kêu họ thôi, tôi đâu biết tiếng ǵ
khác hơn".
Suy nghĩ một
lát ba tôi nh́n về phía thật xa rồi nói:"Em về th́
mấy anh sẽ mời em lên nói chuyện .. Chắc là em sẽ
phải đi học tập ít ngày".
Má tôi tỏ
ư không bằng ḷng nh́n thẳng vào mắt ba tôi, rồi hỏi:"Tôi
khôn hơn mấy thằng cán ngố của anh, lại
không làm ǵ ác độc như anh Ba Duẫn của anh,
thương nước thương ṇi hơn cậu Hồ
của anh, th́ ai mà dạy tôi học với tập
được? Mà tôi đâu có tội ǵ với Đảng
với Bác của anh?".
Ba tôi bụm
miệng má tôi lại v́ hai người đang ở trong
villa của cộng sản, nơi mà Nguyễn thị B́nh
và Lê Đức Thọ đă từng ở trong thời gian
hội nghị Ba Lê. Rồi ba tôi hạ giọng nói nhỏ:"Em
bỏ nước ra đi khi toàn dân chào mừng cách mạng,
em c̣n để cho con lấy chồng Mỹ".
Má tôi cười
ngạo:"Dạ thưa đồng chí, những người
Mỹ nầy là cha của cháu ngoại đồng chí. C̣n
nói chào với đón .. th́ ai chào ai đón mấy ông rồi
sẽ hối hận ê chề sau tuần trăng mật".
Thế là cuộc
xum họp tan vỡ. Má tôi trở về Mỹ như một
con chim đại bàng bị thương. Ba tôi về Sài G̣n
như một hiệp sĩ thua trận. Nhưng t́nh nghĩa
giữa cha mẹ tôi vẫn nồng vẫn đậm. Kể
từ đó ba tôi làm thơ lén gởi cho má tôi bằng cách
nhờ những người tin cẩn chuyển đến
tay má tôi. Trong khi đó, má tôi vẫn cố gắng bảo vệ
tánh mạng của ba tôi bằng cách ngăn cản, năn
nỉ tôi đừng chống cộng công khai. Biết tôi
viết quyển A Thousand Tears Falling (Ngàn Giọt Lệ
Rơi) bà rất hănh diện về công tŕnh này của tôi,
nhưng lại năn nỉ tôi đừng xuất bản
khi ba tôi ṣn sống.
Ba tôi qua
đời vào mùa hè năm 1986. Tôi xuất bản "A
Thousand Tears Falling" vào mùa Thu năm 1995.
Tiền nhân
đă để lại cho chúng ta một kho tàng và kinh nghiệm.
Lịch sử là những bộ sách học làm người
cho nhân loại. Quá khứ vẫn sống trong tôi theo với
nhịp sống hằng ngày của tôi. Đó là kinh nghiệm
của một người Việt Nam từng trải qua
những giai đoạn thê thảm, tàn khốc nhất của
đất nước. Nhưng những tàn khốc, bạo
lực ấy đă không giết được tôi. Trái lại
nó đă tạo cho tôi một sức mạnh, một lư trí,
một bài học có thể dùng làm kim chỉ nam để
trở nên con người hữu dụng. Tôi chỉ là một
đàn em nhỏ bé của những người đi
trước, lại có người kêu tôi là thục nữ.
Tôi đă ư thức được trách nhiệm của tôi
là cùng với các bậc đàn anh cương quyết giữ
cho ngọn lửa thiêng sáng măi để khỏi phụ
ḷng những người đă ngă xuống cho tự do, cho
quyền sống của con người. Tôi cũng có trách
nhiệm nhắc nhở tất cả những người
đă thành công, đă được hưởng tự do
nơi hải ngoại đừng chà đạp lên giấc
mơ Dân Chủ của dân Việt Nam
đang sống trên giải đất ph́ nhiêu nhưng lại
nghèo khổ nhất trên thế giới.
Tiền tài,
danh vọng ta đă có hết, có luôn cả tự do nữa.
Bắt tay với cộng sản dưới chiêu bài ḥa giải
ḥa hợp để làm ăn hay kiếm một chỗ ngồi,
trong tương lai chúng ta sẽ có thể bị con cháu chất
vấn là "Cha mẹ hay ông bà đă làm ǵ khi nước mất
nhà tan? Cha mẹ hay ông bà đă làm ǵ khi dân Việt Nam bị
cộng sản áp bức, đọa đày?".
Gia tài để
lại cho thế hệ sau không phải là những lời
hay, lời đẹp khắc trên mộ bia của người
quá cố mà là hành động của chúng ta lúc c̣n sống
trong tự do.
Cá nhân tôi, v́
tôi là người được hưởng tự do nên
tôi không có những suy nghĩ của người phải sống
trong gông cùm nô lệ. Tôi muốn tất cả mọi
người phải được tự do như tôi.
Hăy yêu người
như ta yêu ta, đó là lời dạy của một thiền
sư.
ĐẶNG
MỸ DUNG - Yung Krall
PO.Box.
33391
Decatur,
Georgia. 30033
(Huôn
Trinh sưu
tầm
và chuyển)