SÂN
NGOÀI CÒN LÁ
(Cư sĩ Vĩnh Hảo)
Có
một chú tiểu đâu chừng mười ba tuổi
thôi, mà đã bỏ chùa của thầy tổ đi tu trên một ngọn núi cao, cao
đến nỗi không ai nhọc công lên đến chỗ
chú ở.
Chú
tu trên núi đã được bốn năm. Nay chú đã trở
thành một chàng thanh niên tu sĩ cao lớn, mạnh khỏe.
Lâu lâu chú xuống núi một lần để về nhà
thăm mẹ và đứa em trai trong làng. Mỗi lần
chú xuống núi, trong làng ai thấy chú cũng xì xầm những
lời khen ngợi hoặc xuýt xoa như tiếc rằng
chú đi tu là làm uổng phí mất một thanh niên đẹp
trai của làng xã.
Chỗ
chú ở là một hang đá lẩn khuất đâu đó gần
đỉnh núi. Cây cối to lớn, cỏ gai rậm rịt,
bít hết mọi chỗ trống, chẳng thấy đâu
là con đường đi lên. Những hiểm trở, gai
góc, vách đá cheo leo của ngọn núi như là một thái
độ rõ rệt của chú đối với tục lụy.
Chưa hết, từ ngọn núi mà chú ẩn dật đi
đến một làng gần nhất cũng phải đi
băng qua một cánh rừng hoang mà nơi đó chỉ có
đời sống của muông thú chứ không có bóng dáng của
loài người. Qua khỏi cánh rừng hoang đó, phải
đi bộ khoảng nửa ngày đường nữa mới
đến được những bụi tre làm ranh giới
của một ngôi làng, mà trong làng này, có căn nhà nhỏ của
bà mẹ già của chú.
Thường
thường, chú xuống núi thăm mẹ vào dịp tết
trung nguyên rằm tháng bảy, nhằm vào ngày lễ Vu Lan.
Chú đi xuất gia không phụng dưỡng mẹ già
được nên mỗi năm cứ vào dịp lễ Vu
Lan - mà người ta quen gọi là Mùa Báo Hiếu - thì xuống
núi để thăm mẹ đồng thời giảng
thuyết đạo lý của Phật cho mẹ nghe.
Năm
nay, còn nửa tháng nữa mới đến rằm tháng bảy
nhưng chú linh tính có chuyện bất tường, bèn
khăn gói lên đường xuống núi sớm hơn mọi
năm. Chú phải mất một ngày để xuống khỏi
núi và hai ngày để ra khỏi rừng, sau đó là nửa
ngày để đến làng của mẹ già. Vừa đến
đầu làng, đã có mấy người láng giềng hối
hả chạy đến chỗ chú, vừa vái chào vừa
thưa với giọng ái ngại:
"Thưa
chú .. thưa chú .. có chuyện chẳng lành .."
Chú
hỏi mau:
"Chuyện
gì vậy?"
"Dạ
.. cậu Tú em chú bị .. rắn độc cắn chết.
Mẹ chú đau khổ quá, bỏ ăn bỏ uống, chẳng
ai dỗ dành gì được. May có chú về .."
"Em
tôi mất bao lâu rồi?"
"Thưa
cũng ba tuần rồi. Mẹ chú ngồi thẫn thờ
suốt ngày này qua ngày kia .."
Chú
lặng người đi một lúc, không nói gì. Rồi vội
vàng về nhà tìm mẹ.
Bà
mẹ đang ngồi lặng câm bên thềm cửa, nhìn xa
xăm. Thấy chú, đứa con trai yêu dấu của mình
trở về, mắt bà sáng hẳn lên, nở một nụ
cười, đứng dậy. Chú bước vội
đến bên mẹ. Hai mẹ con ôm nhau. Bà mẹ khóc òa lên,
chẳng nói được lời nào. Chú thì ôm mẹ một
cách ngượng ngập tuy nhiên nỗi thương cảm
của chú lại dâng trào mãnh liệt. Chú thấy
thương, thấy tội nghiệp cho mẹ quá. Chú không
ngờ chú đã bỏ mẹ đi tu bảy năm rồi,
mà giờ đây, trước tình huống này, bao nhiêu tình cảm
thế tục lại quay về dào dạt như thể
chú vẫn cứ là một đứa con lâu nay khắn khít
chưa rời mẹ nửa bước. Một sơn
tăng ẩn cư trên núi cao, quyết chí đạt đạo
thì không có những xung động tình cảm ủy mị
như vậy. Lâu nay chú tưởng rằng lòng mình đã
nguội lạnh với tình trần, ngay cả tình huynh
đệ, phụ tử, hay mẫu tử. Nay, trước
cái chết thảm thương của đứa em trai và
nỗi sầu thảm đơn chiếc của người
mẹ già, chú nhận thức thật rõ rằng bảy
năm xuất gia học đạo của mình vẫn
chưa đạt được kết quả gì đáng
kể. Kẻ ôm chí xuất trần trước tiên phải
ý thức tính cách vô thường, mong manh, giả tạo của
thế gian. Nhờ ý thức đó mà vượt thoát cái
đau khổ thường tình của biệt ly chia cách. Nhờ
ý thức đó mà vươn lên khỏi cuộc đời.
Nhưng hôm nay, đứng bên người mẹ già đau
khổ, chú thấy mình chìm lỉm trong nỗi thống khổ
vô vàn của thế nhân. Chú đứng im, ôm mẹ, không nói
gì. Bà mẹ thì chỉ khóc nức nở. Lâu lâu bà lại gào
lên, gọi tên đứa con trai đã chết. Giọng bà
nghe thật bi thảm khiến chú không khỏi bùi ngùi, quặn
đau trong lòng.
"Nín
đi mẹ, con đưa mẹ vào trong nhé!"
Rồi
chú dìu bà mẹ vào nhà. Ngồi trên chiếc chõng tre, bà mẹ
vẫn cứ sụt sùi khóc. Chú ngồi kế bên bà, chẳng
biết nói gì. Lâu nay, cứ mỗi lần về thăm mẹ,
chú có thể giảng cho bà nghe đạo lý vô thường,
nhân quả, v.v.. nhưng bây giờ chú chẳng biết nói
gì. Chú không hiểu sao mình lại có thể thụ động,
cứng nhắc và vô dụng trong những trường hợp
đặc biệt mà sự khổ đau được
biểu lộ rõ rệt như vầy. Không phải chú
đã từng quán sát về khổ đau, quán sát về tính
hư huyễn, tạm bợ của thế gian đó sao!
Công phu thiền quán lâu nay, coi như không kết quả gì
trước thực tế đau thương đang diễn
ra trước mắt.
Rồi
cũng từ đau thương này, chú biết mình đang
đứng trước một hoàn cảnh mới, hoàn cảnh
khó xử cho một người đã từ bỏ gia
đình xuất gia. Trước kia, người em trai của
chú hãy còn, chú có thể yên tâm rời nhà xuất gia, tìm
nơi ẩn tu để đạt đạo giải
thoát. Nay đứa em đã mất, chú không thể để
mẹ mình phải sống đơn côi quạnh quẽ
trong tuổi già, không người phụng dưỡng dâng
cơm dâng nước. Huống chi, từ ngày chồng mất,
mẹ chú tuy không nói ra nhưng hẳn nhiên là trong lòng
cũng mong đợi hai anh em sẽ làm tròn chức năng
của những đứa con trai, không để cho dòng họ
phải tuyệt tự. Nghĩ đến đó, chú không khỏi
rùng mình và đau xót cho chí nguyện xuất gia của mình.
Chú không ngờ cuối cùng rồi chú cũng phải
đương đầu với nghịch cảnh ghê rợn
nhất đối với một người xuất gia:
lập gia đình. Rõ ràng như vậy. Chú phải lập
gia đình để có con nối dõi tông đường.
Không bao lâu đâu, mẹ chú sẽ mở lời yêu cầu
về chuyện đó. ở làng này, và ở trong tộc họ
nhà chú, chuyện nối dõi tông đường là một bổn
phận thiêng liêng mà không người trai nào có thể và có
quyền từ chối, trừ phi kẻ ấy xuất
gia. Nhưng nếu là đứa con trai độc nhất
trong gia đình thì chuyện xuất gia hầu như không
bao giờ được chấp nhận như là một
chọn lựa hợp lý. Trong làng, người ta rất
quí mến những người xuất gia; nhưng quan niệm
về sự nối dõi vẫn mạnh mẽ, thâm căn,
lâu đời hơn, khiến người làng không thể
chấp nhận một đứa con trai làm ngơ trước
sự tuyệt tự của một gia tộc. Mọi
người đều có thể chọn lựa một
cách nhanh chóng thay cho chú, rằng chú phải trở về phụng
dưỡng mẹ già và lập gia đình, có con cái để
giữ giống. Nhưng chú, dù gì đi nữa, cũng
đã xuất gia một thời gian, chú thấy khó xử.
Chú đau lòng nếu phải từ bỏ cuộc sống ẩn
tu để trở về với thế tục, và nhất
là phải cưới vợ. ở tuổi của chú, trai
trong làng đã có vợ có con cả rồi. Còn chú, đi tu
đã lâu, cho dù đến tuổi trưởng thành, cơ
thể nẩy nở, sinh lý phát triển tự nhiên, chú
cũng không và hầu như chưa hề có ý niệm gì về
chuyện yêu thương ai nói chi chuyện cưới vợ.
Mỗi khi vào làng, chú cứ theo luật chùa dạy, nhìn
dưới đất ngay trước mặt, cách mình ba
bước, cứ vậy mà đi thẳng, không liếc
ngó hai bên. Cho nên, có vào làng chú cũng chẳng bắt gặp
ai. Giới luật bảo vệ chú, tránh cho chú những
rung động về ái và dục. Giờ này đây, chú biết
là chú sắp mở cái rào cản giới luật ra để
chạm trán, đối diện với cuộc đời
tục lụy. Chú không biết rõ lắm là khi cưới vợ
chú sẽ làm gì để mà có con nối dõi. Chú chỉ hiểu
rất đại khái rằng khi người nam người
nữ (không phải là anh chị em ruột của nhau) mà sống
chung với nhau thì .. một ngày nào đó, người nữ
tức là cái người mà người ta gọi là vợ,
sẽ mang thai và cuối cùng đẻ ra con. Thực là chán
ngán. Chú thầm nghĩ như vậy. Khó lòng mà chấp nhận
một cuộc sống chung với một người khác
phái để rồi có con cái nheo nhóc, đủ thứ rối
rắm của cuộc đời. Hình ảnh những cặp
vợ chồng già, trẻ ở trong làng không hề gây chút
hứng cảm gì nơi chú. Đôi lúc nhìn thấy họ,
chú chỉ thấy tội nghiệp dùm.
Mấy
năm đầu mới xuất gia, chưa lên núi ẩn
tu, chú được thầy dạy cho rằng muốn
đạt đạo giải thoát thì điều tiên quyết
là phải xa lìa ái dục. Chú khát khao giải thoát đến
độ một đêm nọ, chú quyết định lạy
thầy mà xin lên núi ẩn tu. Thầy ngăn cản, nói rằng
chú chưa được chín chắn và chưa đủ bản
lãnh để sống cuộc sống độc cư.
Nhưng chú vẫn không nghe lời thầy, lặng lẽ bỏ
đi. Năm đó chú mới mười ba tuổi, còn bé
xíu mà đã dám một mình độc cư trên núi. Mấy
năm trên núi, trồng rau hái quả, đêm ngày ngồi thiền,
tụng kinh, chú nào biết ái dục là cái gì. Từ ngoại
cảnh cho đến nội tâm, chẳng có gì quấy nhiễu
chú cả. Chú nghĩ vậy là đã giải thoát rồi còn
gì! Vậy đó, mà nay đứng trước gia cảnh
bi thương, chú mới ý thức được rằng
giải thoát không phải chỉ đơn giản như
là chú từng quan niệm. Không phải chỉ bỏ mặc
thế gian ngoài tai là đã giải thoát.
Chú
nhìn mẹ, thấy mắt bà đã ráo lệ nhưng nỗi
đau khổ vẫn cứ còn hiện rõ trên khuôn mặt
nhăn nheo và sạm nắng. Chú thương mẹ lắm.
Chưa bao giờ chú thấy thương mẹ như lúc
này. Chú biết chú nên ở lại bên bà để phụng
dưỡng, không thể bỏ đi được nữa.
Việc này, chú dễ dàng chấp nhận cho dù từ bỏ
cuộc sống xuất gia là một điều thật
đau xót đối với chú. Tuy nhiên, nếu về nhà phụng
dưỡng mẹ rồi lại lo cưới vợ
để nối dõi tông đường thì chú thấy tâm
lý mình chưa thích nghi để đồng ý một cách thoải
mái được. Nối dõi tông đường, theo chú
nghĩ, chỉ là hành động kéo dài cái giây oan nghiệt
sầu não của cuộc đời ra mà thôi. Nhưng bây giờ,
chú đang được khuyến khích, được yêu
cầu đi vào con đường đó. Chú có cảm giác
mình như một con bò bị kéo vào lò sát sinh. Cuộc đời,
với những phiền toái của nhân tình thế thái, với
những tham muốn, những sân hận, si mê v.v .. là một
cái gì rất kinh khiếp đối với chú thì giờ
này chú buộc lòng phải bước vào đó!
Chú
đi quanh trong nhà mấy vòng để suy nghiệm về
hoàn cảnh của mình, rồi chú lại đến ngồi
bên mẹ. Người mẹ im lặng không nói gì. Bà
cũng đã hết thút thít than vãn. Bà quay nhìn chú một
thoáng rồi cúi mặt nhìn xuống đất. Có lẽ bà
đang do dự là có nên mở lời yêu cầu con mình, một
tu sĩ, trở về sống bên mình không. Bà thấy khó
lòng để nói ra cái điều mong mỏi đó, dù rằng
đó là nhu cầu tự nhiên. Bà đã quen nhìn con như một
tu sĩ rồi, giờ này kêu gọi người tu sĩ
đó hãy làm tròn bổn phận làm con, bà thấy thật khó
xử. Bà cứ ngồi đó, im lặng.
Chú
cũng ngồi im, chưa biết nói gì. Một chặp lâu,
chú mới yêu cầu mẹ đưa đi ra thăm mộ
đứa em. Người mẹ vội vàng đứng dậy
dẫn chú đi ngay. Bà có vẻ như tin rằng đứa
con tu sĩ của mình sẽ tự nguyện quay về khi
chính anh ta đòi đi thăm mộ em trai. Trước nấm
mồ của đứa em trai đã chết hẳn, không
thể nào anh ta quên được rằng mẹ anh bây giờ
chỉ còn có một mình.
Bước
ra khỏi nhà, hai mẹ con thấy gần như cả xóm
tụ họp lại trước nhà mình. Ai cũng trố mắt
nhìn chú, như thể họ đang chờ cái kết quả,
cái quyết định quan trọng từ nơi chú vậy.
Hình như ai trong làng cũng đoán biết rằng cái chết
của em trai chú sẽ làm thay đổi cuộc đời
tu hành của chú. Mẹ chú chào mọi người. Chú chỉ
cúi đầu, không nói gì, lẳng lặng đi theo mẹ
ra mộ địa. Một vài người hiếu kỳ
bước theo sau hai mẹ con.
Chú
thắp hương cho đứa em trai nhỏ hơn mình
ba tuổi - thằng em ngoan ngoãn, thật thà, cần cù, siêng
năng mà trong xóm ai cũng mến. Nếu người em
không chết thì có lẽ chỉ trong vòng một hai năm nữa
đã có thể làm cha rồi, có thể làm tròn bổn phận
nối dõi rồi, đâu có cần người anh tu sĩ
này phải trở về! Chú cắm nhang vào cái lọ nhỏ
trước bia mộ của em thì bỗng dưng nước
mắt trào ra. Khuôn mặt hiền hậu của đứa
em nhập nhòa trong làn nước mắt của chú. Bà mẹ
chú thì khỏi nói rồi, bà đã khóc ngay từ khi mới
bước đến cổng nghĩa trang, nhác thấy mộ
con từ xa. Bây giờ thấy đứa con tu sĩ chảy
nước mắt, bà càng khóc nhiều hơn. Chú nuốt
nghẹn, vội vàng lau nước mắt, lúng túng che giấu,
không muốn cho người khác biết.
Bà
mẹ vừa khóc vừa than oán:
"Con
ơi là con .. Con đành bỏ mẹ ở lại một
mình sao con!"
Nghe
mẹ than mà như thầm nhắc chú cái thực trạng
hiu quạnh của bà, chú cúi xuống đỡ mẹ dậy,
nói liền để mẹ yên tâm:
"Thôi,
nghiệp của em con vậy cũng không tránh được.
Mẹ đừng đau buồn nữa. Lo cầu nguyện
cho nó là được rồi. Không có nó thì còn có con. Con sẽ
về với mẹ."
Bà
mẹ ngước lên, lau nước mắt. Bà đã nghe
được những lời bà mong đợi. Những
lời đó đối với bà đáng ra là một lẽ
tự nhiên thì bây giờ, như là đặc ân mà bà tưởng
là khó có thể được hưởng. Bà níu lấy
cánh tay rắn chắc của thằng con tu sĩ để
đứng lên.
Chú
dìu mẹ bước ra khỏi nghĩa địa. Vài
người hàng xóm lẽo đẽo theo sau, chẳng biết
theo làm gì, chú tự hỏi như vậy. Dọc đường
về nhà, bà mẹ bỗng ngước lên hỏi lại
chú lần nữa cho chắc ăn:
"Con
nói con sẽ về với mẹ hở?"
"Dạ,
con phải về chứ. Mẹ chỉ còn một mình."
Bà
mẹ cười vui trong lòng, cho dù bà cũng vừa mất
một đứa con trai cách đây không lâu. Điều mà
bà cần lo nghĩ tính toán lúc này đây là làm sao để
thằng con trai duy nhất còn lại của giòng họ chấp
nhận sứ mệnh nối dõi tông đường (từ
lúc đứa con bị rắn cắn chết, bà như giật
mình thấy rằng vấn đề nối dõi của nhà
chồng là điều cần kíp chứ không nên chậm trễ
nữa). Chỉ cần anh ta bằng lòng thôi, chứ chuyện
kiếm vợ cho anh ta thì chẳng khó khăn gì. Người
con tu sĩ của bà vừa to cao, vừa đẹp trai, vừa
có học, vừa hiền đức, chỉ cần thay chiếc
áo ca-sa thành thường phục là trở thành thần
tượng của gái trong làng cho mà xem. Thậm chí, ngay khi
anh ta còn là tu sĩ mà nhiều cô còn nhìn trộm liếc lén mỗi
khi anh từ trên núi về thăm nhà nữa kia. Bà nhớ tới
Liên, cô gái mồ côi ở cạnh nhà, cứ qua nhà hỏi
thăm chừng nào chú về hoài. Con Hoa con bà Thuận
cũng chẳng vừa gì, có lúc nó đã nói với bà rằng
"chú đi tu uổng quá bác à!" Dĩ nhiên bà biết
con bà đẹp trai, đẹp mà thánh thiện lắm,
nhưng vì anh ta tu, bà không dám nghĩ tầm bậy. Bây giờ,
anh ta về rồi, anh ta tự nguyện về, bà có quyền
nghĩ. Phải nghĩ, phải tính cái chuyện lấy vợ
cho anh ta. Vừa đi bà vừa đo lường, cân nhắc
giữa mấy đứa con gái trong làng mà bà biết. Làm
sao thì làm chứ chọn dâu tương lai bà phải kỹ
lưỡng. Nhất là Tuấn con bà, lâu nay đi tu chỉ
biết tụng kinh niệm Phật, ăn chay nằm đất,
lại ẩn cư trên núi, nào có biết cái chuyện đời
ra sao. Nếu chẳng may cưới về cho anh ta người
vợ dữ như chằng thì khổ cho anh cả đời.
Anh ta tu nên hiền và khờ khạo biết bao! Không cưới
được con vợ nhu mì, đức hạnh thì chắc
chắn anh sẽ bị ăn hiếp. Bà không an lòng chút nào.
Thằng Tú em của anh ta cũng hiền khô như thầy
tu, nhưng dù sao cũng có va chạm với đời,
cũng hiểu được đời chút chút. Đằng
này, Tuấn tuy là anh, lớn hơn thằng Tú ba tuổi,
trông đạo mạo uy nghi khi khoác áo tăng sĩ,
nhưng khi thay đổi thường phục thì chỉ
còn là một cậu bé ngờ nghệch, vụng dại mà
thôi.
Khi
hai mẹ con vào nhà, chú Tuấn đóng cửa lại thì nhìn
thấy mấy người hàng xóm nãy giờ đi theo hai mẹ
con ra nghĩa trang, bây giờ cũng theo về đến
nơi, đứng ở ngoài nhìn vào, xầm xì. Trong số
những người đó, có một thiếu nữ trạc
tuổi chú. Chỉ trong một thoáng nhìn thấy cô ta, chú
như bắt gặp một cái gì quen thuộc nhưng lại
mông lung không hiểu nổi. Thiếu nữ thấy chú nhìn
ra thì e thẹn ngó lơ chỗ khác, miệng hơi mỉm
cười. Chú thấy run lên, hoảng sợ. Chú từng
nghe thầy dạy rất nhiều về những cám dỗ
mà một tu sĩ cần phải tránh để tiến tu
trong sự nghiệp giải thoát giác ngộ, trong đó tiền
tài và sắc đẹp đứng hàng đầu. Nhưng
đối với vấn đề tiền tài, những
người xuất gia không mấy hãi sợ. Hoàn cảnh của
họ ở chùa, ở vùng quê hẻo lánh, ở rừng sâu
hay núi cao, vấn đề tiền tài không phải là đối
tượng nguy hiểm. Nguy hiểm nhất cho mọi hoàn
cảnh vẫn là nữ sắc mà thôi. Chú vội đóng
nhanh cánh cửa rồi cài then lại. Mặt chú ửng
đỏ lên rồi lại tái mét như một kẻ vừa
được thoát hiểm. Mẹ chú thấy vậy liền
hỏi:
"Gì
vậy? Gì mà .. con giật mình hoảng sợ vậy?"
"Đâu
có gì đâu mẹ," chú đáp.
Bà
mẹ bước đến cửa, kéo tấm liếp nhỏ
ở trên nhìn ra ngoài thì thấy những người hàng xóm
vừa tan hàng, chỉ có Liên ở nhà kế bên là còn tần
ngần đứng lại như chưa muốn về. Bà
âm thầm ngắm nhìn cô gái mà bà vẫn thường gặp
hàng ngày. Bà thấy cô ấy đẹp lạ. Hình như
chính lúc này bà mới nhận ra được cái vẻ mặn
mà duyên dáng của Liên. Quần áo đơn sơ xoàng
xĩnh của một cô gái quê nghèo không lấp nổi cái
nét sắc sảo mà nghiêm trang toát ra từ đôi mắt
sáng và sóng mũi thanh cao của cô. Đôi môi hồng, nhỏ,
với môi dưới hơi trề ra như nũng nịu
càng làm tăng thêm vẻ quyến rũ của nàng. Bà gật
gù hiểu ra được nguyên do vì sao con bà thất sắc.
Và bà thầm nghĩ: "Tại sao phải tìm kiếm ở
đâu cho xa! Chính cô ta là dâu tương lai của ta đây rồi."
Bà
đóng nhẹ liếp cửa, quay trở lại thì thấy
con mình đang ngồi nơi bàn, có vẻ đăm chiêu
nghĩ ngợi chuyện gì quan trọng. Bà e dè hỏi:
"Con
tính sao? Con nghĩ là con có thể trở về đây sống
với mẹ được không?"
Chú
Tuấn ngước lên trả lời ngay:
"Dạ
được chứ mẹ, đâu có gì trở ngại
đâu. Dù gì thì con vẫn là con của mẹ mà."
Nghe
vậy bà cảm động lắm. Nhưng cái điều
bà muốn hỏi, bà vẫn chưa biết làm sao để
mở lời. Mà không nói bây giờ thì chờ lúc nào nữa.
Trước sau gì cũng phải cho con mình biết hoặc
ít nhất cũng có trước chút ý niệm gì về những
gì mà bà mong đợi nơi anh ta. Ngưng một lúc, bà nói:
"Tội
nghiệp thằng Tú, và cũng tội nghiệp cho con. Nếu
nó không .. thì con đâu phải bỏ tu như vầy. Mẹ
thấy trong lòng xót xa lắm
vì không để cho con đi trọn con đường của
con. Nhưng mẹ biết làm sao hơn .. Giòng họ nhà mình
.. chỉ còn có con thôi .."
Bà
nói vậy, không rõ ràng lắm, nhưng chú Tuấn cũng nhận
ra được ngay cái ý chính của bà. Cái chuyện nối
dõi tông đường. Chú thở dài rồi nói:
"Con
biết, con biết con phải gánh cái trách nhiệm mà nếu
Tú còn sống nó phải gánh."
Bà
mẹ lắng nghe, thích ý lắm, nhưng cũng chưa dám
chắc là con mình đã hiểu mình. Bà không biết là đứa
con tu sĩ khờ khạo của bà nghĩ gì về trách
nhiệm của thằng Tú. Trách nhiệm đó không phải
chỉ là đi kiếm củi, mang củi ra chợ bán
để phụng dưỡng mẹ già mà chỗ chính yếu
nhất của trách nhiệm làm con (trai) ở làng này, ở
trong giòng họ nhà này là sinh đẻ con cái kia. Bà lại dợm
lời nói tiếp:
"Thực
ra chuyện sinh nhai độ nhật không phải là điều
khó khăn cho mẹ. Mẹ có thể bắt chước cô
Liên bên cạnh nhà nuôi tằm dệt lụa cũng sống
được. Cái khó là .. cái mà mẹ không thể làm
được, chỉ có con với thằng Tú làm
được mà thôi .."
"Dạ,
con biết. Tụi con là thanh niên trai tráng mà, khác với mẹ
chứ!"
Bà
gật gù rồi làm thinh, suy nghĩ. Anh ta nói vậy là
đã biết trách nhiệm thiêng liêng của anh ta chưa nhỉ?
Cái trách nhiệm đó đâu phải là chuyện mạnh khỏe,
làm việc giỏi giang của trai tráng! Bà kiên nhẫn gợi
ý tiếp:
"Ý
mẹ muốn nói là .. gia đình ta cần phải lấy lại
sinh khí, làm đẹp mặt tổ tông nơi chín suối
.."
"Dạ,
con biết. Mẹ muốn nói đến chuyện nối dõi
đó mà."
Bà
mẹ sáng mắt lên. Bà không ngờ đứa con tu sĩ của
bà cũng tự biết được cái trách nhiệm thế
tục này chứ không cần bà phải giải thích, kêu gọi
dông dài. Vậy mà bà cứ tưởng anh ta khờ khạo
không hay biết gì! Bây giờ anh đã tự nói ra, khỏe
cho bà biết bao. Bà sung sướng nắm lấy cánh tay
con, nói với giọng phấn khởi:
"Ở
làng mình, người ta để tang cha mẹ ba năm mới
tính đến chuyện cưới hỏi. Nhưng anh chị
em thì không cần phải để tang lâu. Hơn nữa,
cái chuyện nối dõi đối với gia đình này là vấn
đề cần kíp. Cho nên .."
Chú
nghe đến đó liền cắt ngang:
"Thưa
mẹ, con đã biết. Nhưng con .."
"Khỏi
lo. Mẹ lo hết. Mẹ sẽ lo tới nơi tới chốn
mọi chuyện. Chỉ cần con đồng ý là
được rồi, đừng có lo là không có."
"Không
phải, ý con muốn nói là con cần phải lên chùa lạy
thầy và xin xả giới."
"Nghĩa
là sao, mẹ không hiểu?"
"Con
đã thệ nguyện giữ mười giới trọn
đời. Nay không giữ nữa thì phải lên lạy thầy
xin xả giới, tức là xin bỏ lời thệ nguyện
đó, khi nào cảm thấy có thể giữ được
thì xin giữ lại."
Bà
mẹ tỏ vẻ ái ngại. Bà sợ con bà đến
chùa, gặp thầy, gặp bạn, thấy lại cảnh
chùa rồi đổi ý không chịu về nhà nữa.
"Không
lên chùa xả giới được không con?"
"Thực
ra chuyện thệ nguyện giữ giới thì cần có giới
sư truyền trao, nhưng khi xả bỏ thì chỉ cần
đứng trước bàn thờ Phật mà xin xả
cũng được rồi. Tuy nhiên, con muốn nhân dịp
này, trở về chùa để thăm thầy bạn luôn
thể. Chỉ hoàn cảnh đặc biệt lắm thì mới
tự xả giới, còn bây giờ có chùa, có thầy thì nên
về chùa để xả giới."
"Có
phải không xả giới thì con sẽ có mặc cảm
mang tội mỗi khi làm bất cứ điều gì không
đúng với giới luật, dù rằng con hoàn tục?"
"Dạ
phải, thưa mẹ. Chính vì vậy luật Phật mới
đặt ra vấn đề xả giới."
"Vậy
con nhất quyết phải đi lên chùa?"
"Dạ,
con cần phải đi. Nhưng con e ngại là để
mẹ ở nhà một mình."
Bà
mẹ thở dài rồi nói:
"Nếu
phải vậy thì mẹ cũng không cản con làm gì. Có
điều, mẹ muốn con hứa với mẹ."
"Mẹ
à, mẹ sợ con đi luôn sao? ở chùa thì quét lá đa, về
nhà thì phụng dưỡng mẹ. Lúc con ở chùa, con
đã một lòng siêng năng tinh tấn tu học thì nay về
nhà con cũng đem cả lòng mình để làm tròn bổn
phận đứa con. Làm sao con có thể bỏ mẹ mà
đi luôn được!"
"Không,
không phải mẹ bảo con hứa chuyện đó. Mà chỉ
muốn con hứa với mẹ là dù thế nào đi nữa,
con cũng không để cho giòng họ nhà này phải bị
tuyệt tự."
Chú
Tuấn im lặng một lúc. Chú đã biết không thể
tránh cái chuyện đó được nhưng giờ này
nghe mẹ nói chú vẫn cứ nghe trong lòng như đau nhói
và hãi sợ. Chú cúi mặt xuống một lúc rồi ngẩng
lên ngay:
"Con
hứa với mẹ. Đó là bổn phận mà con, đứa
con trai duy nhất của giòng họ phải gánh lấy. Xin
mẹ yên tâm."
"Vậy
thì tốt rồi. Con có thể lên đường ngày mai. Mẹ
ở nhà không sao đâu. Có cô Liên bên cạnh nhà cũng
thường qua lại giúp đỡ mẹ. Những ngày
thằng Tú mới chết, con chưa xuống núi, cô ấy
chăm sóc mẹ đó."
"Vậy
hả mẹ. Nếu có người giúp đỡ, chăm
sóc mẹ thì con đỡ lo."
"Cô
ấy mồ côi cha mẹ, ở sát bên cạnh nhà mình. Tánh
tình cô ấy hiền dịu mà lại đảm đang việc
nhà nên mẹ thích cô ấy lắm. Để chiều nay mẹ
gọi cô ấy qua chơi giới thiệu cho con biết
trước khi con lên đường."
"Thôi,
khỏi cần mẹ ạ."
"Đừng
có sợ mà, trước sau gì cô ấy và con cũng thành vợ
thành chồng mà. Biết trước cũng là hay hơn chứ."
"Cái
gì? Mẹ đã chọn cô ấy cho con rồi sao? Con đâu
biết cô ấy là ai, mặt mũi thế nào đâu!"
"Bởi
vậy mới nói là để gọi cô ấy qua cho con biết
mặt," bà vừa nói vừa cười sung sướng
như thể chuyện thành thân của con bà và Liên đã là
chuyện ăn chắc rồi vậy.
Mà
bà tin như vậy cũng phải. Liên có cảm tình với
con bà ngay từ khi anh ta còn tu, nay biết anh ta hoàn tục,
cô ta hẳn là phải thích ý rồi. Ngoài ra, nàng còn cảm
thấy vinh dự khi được sánh duyên với chú rể
là một người tu có đạo đức nổi
danh trong làng ai cũng biết. Bà mở lời thì nàng sẽ
nhận lời ngay, làm sao mà từ chối cho cam. Bà tính là
trong vòng chiều hay tối nay bà sẽ gợi ý trước
với Liên. Sau khi con bà từ chùa về, sẽ tiến
đến việc tổ chức đám cưới. Chuyện
hãy còn trong dự tính mà đã vui mừng khấp khởi,
đến độ hầu như quên luôn cái chết
đau thương của đứa con trai khác của mình
cách đây chưa đầy một tháng.
Chú
Tuấn cũng vậy, chú đã không khỏi nghe một nỗi
xao xuyến lạ kỳ đong đưa trong tâm hồn
mình. Chú không ngờ lâu nay tĩnh tu trên núi cao, cắt đứt
những tham luyến thường tình của thế gian, vậy
mà nghe mẹ khen ngợi một thiếu nữ và nói rằng
sẽ cưới nàng về làm vợ mình, lòng chú đã thấy
rung động, bâng khuâng khôn tả được. Chú
như nhìn thấy được những chồi non của
ái dục cùng một lúc trỗi dậy, vươn lên khỏi
mặt đất phẳng lặng của tâm mình. Chú không
hiểu sao chú lại có thể bị đánh bại một
cách dễ dàng trước dục vọng, đối thủ
hàng đầu của người xuất gia học đạo.
Chú
đang băn khoăn với những rạo rực, những
đổi thay rõ rệt của lòng mình thì nghe có tiếng gõ
cửa. Chú giật mình đứng dậy, nhưng mẹ
chú đã xua tay, nói:
"Con
cứ ngồi đi, để mẹ ra mở cửa xem
thử ai."
Khi
mẹ chú đến nơi cửa, lòng chú bỗng hồi hộp,
run bấn lên, như thể bà đang mở ra cho chú cánh cửa
của một kho tàng bí mật. Chú bỗng linh cảm rằng
người gõ cửa sẽ là thiếu nữ mà mẹ
thường nhắc đến tên, và thiếu nữ
đó sẽ là thiếu nữ mà chính chú đã bắt gặp
lúc nãy khi chú đóng cửa. Chú nhìn theo mẹ, dán mắt vào
cánh cửa, chờ đợi.