Chiếc khăn
Nhà ông Phán Lại
có cô con gái xinh người đẹp nết, mười bảy
tuổi, cái tuổi đầy mơ mộng pha chút lo sợ
thầm kín rất đặc trưng cho lứa tuổi ấy.
Cô đang yêu, hay cũng gần như thế.
Ông làm thông
phán ở thành phố mới dọn về làng, do vậy
người ta mới gọi là Phán Lại. Ông vốn
người bộc trực, liêm khiết (chắc v́ thế
mà thành buồn chán rồi từ quan), hồ hởi chào
đón cách mạng và sự ra đời của chế
độ mới. Dù chẳng c̣n trẻ, những ngày ấy
người ta thấy ông hăng hái tham gia các hoạt động
đoàn thể, và là một trong những người đi
đầu trong đoàn biểu t́nh cướp phá Đồn
Thủy rồi kéo về Nhà Hát Lớn cuối tháng Tám
năm 1945. Khi Pháp trở lại, để tỏ thái độ
bất hợp tác, ông đưa con gái, cô Nguyệt Tú, về
sống ở làng này, vốn là quê tổ của ông, cách Hà Nội
tám mươi cây số về phía Tây, và được xem
là khu an toàn kháng chiến.
Cô Nguyệt
Tú đă học hết lớp chót trường nữ sinh
trung học, khá giỏi tiếng Pháp, bằng chứng là chiều
chiều cô ngồi bên cửa sổ đọc tiểu thuyết
của các nhà văn t́nh cảm phương Tây rồi thút
thít khóc một ḿnh. Thậm chí cô c̣n theo học cả
đàn piano như nhiều tiểu thư thị thành thời
ấy, nhưng sau do gia đ́nh sa sút đành bỏ. Cô là
người nhút nhát hiếm thấy, lại mau nước
mắt, và mỗi lần phải nói chuyện trực tiếp
với ai, nhất là đàn ông, khuôn mặt xinh đẹp,
trắng nhợt của cô lại đỏ rực, đỏ
đến cả hai tai. Cô sống khép ḿnh, không có chủ kiến
mà dường như cũng chẳng muốn có. Rơ ràng cô
sinh ra để được che chở chứ chẳng
phải che chở người khác. Cô thực sự sợ
hăi khi thấy các cô gái làng thắt quần móng lợn suốt
ngày lăn lê ḅ toài trên sườn đồi, ḥ hét đâm
chém các h́nh nộm, lại cười rất to và nói những
lời cô bịt tai không dám nghe. Các cô kia th́ tất nhiên chẳng
coi cô ra ǵ, một con bé tiểu thư thành phố thuộc "giai
cấp ăn bám", một phần tử "vô tích sự"
không đáng cho họ mời tham gia hội họp và luyện
tập.
Thế mà
không ai ngờ, không ai biết chính cái cô ăn bám, vô tích sự
ấy và đội trưởng đội du kích của họ
đang yêu nhau, mà không chỉ mới hôm qua hay tuần
trước.
Họ quen
nhau v́ anh đội trưởng du kích rất cách mạng ấy
là thanh niên duy nhất có học trong làng, học xong trường
huyện, con một gia đ́nh phú nông có những ba người
đang là bộ đội kháng chiến và trước
đấy nhiều năm nuôi giấu cán bộ, có người
bây giờ đang làm to. Thỉnh thoảng anh sang nhà ông Phán
mượn sách. Cũng là điều dễ hiểu. Buồn
v́ không có người nói chuyện sách vở, hai người
thân nhau, có hôm ngồi rất lâu. Ông thấy mến anh chàng
này v́ mặt mày sáng sủa, có văn hóa và ăn nói lễ
phép chứ không như mấy ông bà cách mạng trẻ nông
dân ông không dám khinh nhưng thực bụng chẳng mấy
thích thú. Khi tủ sách của ḿnh cạn, chính ông giới thiệu
anh hỏi mượn sách của cô con, là người luôn lỉnh
vào pḥng đóng chặt cửa mỗi lần anh đến.
Một hôm,
nhận lại cuốn sách anh trả, thờ thẫn cầm
nó trên tay như ve vuốt, là việc cô thường làm một
cách vô thức chẳng hiểu v́ sao, cô chợt thấy ở
ngay trang đầu có mảnh giấy nhỏ ghi ba chữ rất
nắn nót "Anh yêu em!". Dấu chấm than được
tô đậm đến mức suưt thủng tờ giấy
pơ-luya mỏng.
Không khó h́nh
dung đôi má cô lúc ấy đỏ lên như thế nào. Cô lặng
người một lát, lồng ngực nhô lên hạ xuống
v́ thở gấp, rồi chạy ù vào giường, nằm
ngửa mặt, trân trân nh́n lên trần nhà. Không thể nói
lâu nay cô không cảm t́nh với anh, nhưng để nhận
tờ giấy này th́ quả cô không ngờ và chưa sẵn
sàng đón nhận nó. Cô không biết bây giờ phải làm
ǵ, phải nghĩ ǵ và nhất là phải có thái độ
thế nào đối với anh ấy. Đặt cuốn
sách lên ngực, cô mân mê tờ giấy, đọc đến
hàng chục lần mấy chữ ngắn gọn,
đơn giản mà kỳ diệu ấy. Trước mặt
cô hiện lên khuôn mặt sáng sủa của anh với
đôi mắt nghiêm nghị, làn da cháy rám v́ suốt ngày giang
nắng ngoài trời. Cô thấy hơi sợ đôi nghiêm
nghị ấy, bây giờ cũng như những lần ít ỏi
anh nói chuyện với cô, hầu như chỉ ḿnh anh nói,
c̣n cô th́ bẽn lẽn cúi đầu. Anh nói hay, cô thích nghe
anh, thích anh đến mượn sách, dù vẫn luôn tự
trách và cười diễu ḿnh v́ sự thích ấy. Thích mà vẫn
sợ, như sợ một cái ǵ đấy xa lạ
chưa lư giải nổi. Anh ấy là người mạnh
mẽ, là cộng sản, cách mạng, c̣n ḿnh th́ ..
Buổi tối,
cô cáo ốm không ăn cơm, rồi thiếp đi với
cuốn sách cùng mảnh giấy vẫn trên ngực và môi khẽ
th́ thầm hai tiếng anh ấy cùng nụ cười nửa
hạnh phúc nửa lo sợ mơ hồ.
Mấy ngày
sau anh gửi trả một cuốn sách khác, lại kèm tờ
giấy trắng với ba chữ "Anh yêu em" như
trước, nhưng lần này, rất sâu phía dưới
có viết thêm là nếu cô không dửng dưng với anh th́
hăy để một tờ giấy trắng vào cuốn sách
anh sẽ đến mượn ngày mai. Hôm sau đến
nhà ông Phán mượn sách, anh không thấy tờ giấy nào
kẹp trong đó. Cuốn sách cũng không được
cô đưa tận tay như mọi lần, mà qua ông bố,
c̣n cô th́ được bảo khó ở đang nằm trong
pḥng.
Cuốn sách
này, và thêm một cuốn nữa khi nhận lại, cô chợt
buồn khi không thấy có tờ giấy với ḍng chữ
quen thuộc mà cô mong đợi. Nhưng cuối cùng, dẫu
nhút nhát và rất sợ, cô cũng nói được anh ấy
biết t́nh cảm của ḿnh. T́nh yêu c̣n lớn hơn cả
nỗi sợ và nghi ngại. Một lần, ngồi bên cửa
sổ thấy anh đang đến, cô nhanh nhẹn bước
ra, dúi vào tay anh một bức thư dài viết sẵn rồi
bỏ chạy.
C̣n tối
nay th́ cô đă nhận lời ra gặp anh ngoài bờ đê
sau làng. Chả là chỉ ít hôm nữa anh sẽ lên đường
đi bộ đội tận chiến khu Việt Bắc,
có thể một thời gian dài như anh nói.
Cô đă mất
những ba ngày để khâu tặng anh một chiếc
khăn mùi-soa. Nó được cắt từ thân trước,
chỗ che ngực, chiếc áo dài màu trắng cô mặc thời
c̣n ở trường nữ sinh. Cô thẹn thùng với ư
định kỳ cục ấy, mấy lần định
thay bằng miếng vải lụa mới tinh, nhưng cuối
cùng vẫn không thay. Vốn được dạy nhiều
về nữ công gia chánh, cô có thể thêu rất nhiều
h́nh đẹp trên đó, nhưng suy đi nghĩ lại, rốt
cục cô chỉ thêu chữ cái tên hai người, T và H
đan lồng nhau, bằng chỉ hồng, rất tinh tế
và rất đẹp. Bây giờ chắc ít người tặng
nhau những kỷ vật t́nh yêu kiểu này, nhưng thời
đó là mốt của các cô gái trẻ mơ mộng tỉnh
lẻ. Nhiều lần cô đă khóc khi thêu chiếc khăn
đó, cũng nhiều giọt nước mắt đă
rơi xuống nó, nhưng nghe nói nước mắt con gái
mới lớn không mặn nên không để lại vết
ố nào. Có thể v́ thế mà anh ấy sẽ chẳng bao
giờ biết được nó đă từng thấm
nước mắt người yêu. Không biết rằng nó
cũng từng nhận nhiều, rất nhiều những
cái hôn của cô.
Trên đê lộng
gió, hơi se lạnh. Trăng cuối tháng mảnh như
chiếc lá cỏ voi bị uốn cong, nhưng trời sáng
v́ rất nhiều sao, những ngôi sao to, đẫm nước.
Chếch phía Tây là dăy núi thấp mờ đen có h́nh con chó nằm
phủ phục, đầu hơi ghếch lên, lơ
đăng lắng nghe những lời yêu đương của
đôi trai gái sắp xa nhau.
Nhưng họ
nói với nhau ít lắm. Anh nói:
"Anh
đi ít năm rồi về. Chờ anh nhé!"
"Vâng, em
chờ", cô đáp.
Rồi anh với
tay định cầm tay cô. Theo bản năng, cô né tránh, và
tới lần thứ ba anh mới có được bàn tay
bé nhỏ, nóng hổi của cô trong tay ḿnh. Bàn tay run run
như con chim nhỏ thảng thốt.
Bằng bàn
tay kia, cô móc túi lấy ra chiếc khăn.
"Tặng
đấy. Hăy giữ và nhớ đến em".
Con chim - bàn
tay càng run rẩy, thảng thốt hơn.
"Cảm
ơn em", anh nói đơn giản rồi nhét vào túi trên
ngực.
Cô chạnh
buồn v́ anh không mở ra xem hoặc không nói thêm đôi câu
nữa về nó. Xem ǵ, nói ǵ, chính cô cũng không biết, chỉ
thấy hơi buồn.
Họ im lặng
khá lâu, tay vẫn trong tay. Trăng đă chếch ngang đầu,
trời sao như sà xuống thấp hơn. Ngoài đê,
trong bụi duối rậm không xa chỗ họ đứng
có con ǵ cứ tỉ tê đơn điệu.
"Em sợ
lắm .."
"Em sợ
ǵ cơ ?"
"Không biết,
nhưng em thấy sợ, nhất là khi không có anh ở
đây".
"Em nói lạ
thật đấy".
"Không, thật
mà. Em sợ .. Em sợ cộng sản, sợ cách mạng
.."
Anh phá lên
cười:
"Thế
th́ lại càng lạ. Anh là cộng sản, là cách mạng
đây. Em thấy anh có đáng sợ không?"
"Anh th́
không, nhưng người khác th́ em sợ. Họ không thích
những người như em. Em nghĩ có thể tốt
hơn nếu em và bố quay lại vùng tạm chiếm".
"Em hiểu
nhầm rồi, - anh lại cười - Tại em không chịu
tham gia các cuộc họp của bọn anh đó thôi. Cộng
sản, cách mạng mang lại hạnh phúc cho mọi
người. Em hiểu chứ? Mọi người! Cách mạng
sẽ .."
Rồi anh
nói một thôi, gần như nguyên xi những ǵ ông cán bộ
tỉnh mới thuyết giảng tối qua về chủ
nghĩa cộng sản, về cách mạng và những
điều tốt đẹp của nó.
"Em yên
tâm. Cách mạng sẽ bảo vệ em, che chở cho em! Cho
gia đ́nh em! Cho toàn dân!"
"Anh
nghĩ như thế thật à?"
"Tất
nhiên, nếu không anh đă chẳng chịu xa em lên
đường bảo vệ cách mạng".
Cô gái khẽ
gật đầu, và lần đầu tiên nắm chặt
tay anh.
*
Sáu tháng sau, tức
là cuối năm 1952, trong phong trào "Phát động quần
chúng đấu tranh chống phản động" ông
Phán Lại bị ṭa án cách mạng xử bắn v́ tội
làm gián điệp cho Pháp. Cô Nguyệt Tú con ông bị đem
đấu tố về tội ăn bám, rồi cô treo cổ
tự tử v́ không chịu để một ông cán bộ
cộng sản cưỡng hiếp. Khi chết, cô đă nhắc
tên anh, một chiến sĩ cộng sản khác đang chiến
đấu bảo vệ cách mạng và chế độ cộng
sản tốt đẹp anh đă nói với cô.
Cái tin này măi
về sau anh mới biết, v́ lúc đó bản thân anh
đang bận chỉ đạo thực hiện phong trào ấy
ở một nơi xa. Cũng như trong cuộc cải
cách ruộng đất sau này, anh luôn tận tụy với
công việc được giao, và không chút nghi ngờ sứ
mạng cao đẹp của nó. Anh thực sự tin vào sự
lănh đạo của Đảng, vào tính đúng đắn
của con đường đă chọn, tin một cách tuyệt
đối pha chút ngây thơ và mù quáng, nên không nghĩ tới
sự cần thiết phải xem xét, kiểm chứng hoặc
chiêm nghiệm lại. Anh là mẫu người cách mạng
lư tưởng. Khi lư tưởng cộng sản chui vào
đầu anh, một lư tưởng tuyệt đẹp
như mọi lư tưởng khác trên đời, anh choáng ngợp
trước cái đẹp cao cả của nó và háo hức
vươn tới mục đích mà ít chú ư tới
phương tiện. Mục đích chi phối
phương tiện, người ta dạy anh thế, và một
khi mục đích đă cao đẹp th́ không có
phương tiện nào là xấu, tức là bất kỳ
hành động nào cũng có thể biện minh được,
cả khi những hành động ấy là tàn bạo và phi
lư. Con đường cách mạng không bao giờ bằng phẳng
và không thể tránh khỏi một số sai lầm do nhận
thức. Cái chết bi thảm đầy oan trái của hai
bố con người yêu anh cũng được nh́n nhận
dưới góc độ ấy. Và thật lạ, dẫu rất
đau xót và căm phẫn, anh thấy ḷng ḿnh thanh thản
hoặc cũng gần như thế, cả khi nghĩ về
những việc anh đă làm trong cuộc vận động
ấy. Sai lầm. Sai th́ sửa. Chính lănh tụ cao nhất
của Đảng đă nói lời xin lỗi, mắt
rưng rưng. Mắt anh cũng rưng rưng khi chứng
kiến việc này. Có điều cả anh và lănh tụ
không đả động ǵ đến việc v́ sao và do
ai mà những sai lầm tầm cỡ ấy có thể xảy
ra, và liệu một lời xin lỗi như thế có thỏa
đáng không trước hàng chục ngh́n sinh mạng bị
giết oan.
Tuy nhiên, anh vẫn
bị day dứt bởi một nỗi ám ảnh, nhỏ
thôi nhưng dai dẳng và thật bất tiện, rằng
chính anh đă gây nên cái chết của Nguyệt Tú và bố
cô. Dẫu không chủ ư, nhưng anh đă nói dối họ
về việc họ sẽ được cách mạng bảo
vệ. Không có anh, chắc họ đă trở lại thành
phố và do vậy tránh được bi kịch. Thoạt
đầu anh nghĩ đây chỉ thuộc phạm trù
đạo đức. Một lời khuyên sai, hay thậm
chí một lời nói dối, suy cho cùng cũng chỉ là lời
nói dối, tức là ở cấp thấp hơn nhiều
so với cả một hệ tư tưởng, và rằng
cùng với thời gian nó sẽ nguôi ngoai rồi đi vào
quên lăng. Nhưng ác thay, thực tế diễn ra trái ngược
hẳn. Như con vi rút chết người, chấm đen
mặc cảm tội lỗi ấy không mất đi mà
ngày mỗi lớn trong anh. Nó bắt đầu tấn công
các tế bào cách mạng đỏ. Nó biến tướng,
từ vi rút đạo đức thành vi rút tư tưởng,
và vết thương cứ to dần, to dần ..
Năm tháng
trôi qua, đến nay, anh đă là một ông già. Hơn thế,
một ông già cô đơn và bệnh tật. Cùng với vết
thương ấy trong ḷng, ông đi tiếp con đường
cách mạng của ḿnh, qua những năm tháng sĩ quan thời
chiến, đến chức vụ trưởng, thứ
trưởng một bộ quan trọng rồi chức uỷ
viên trung ương Đảng. Tiếc rằng đến
đây th́ bệnh quá nặng và nó đă bộc phát ra ngoài.
Ba lần ông viết tâm thư lên trung ương của
ông, thật thà tŕnh bày quan điểm của ḿnh cùng những
đề nghị thay đổi. Chừng ấy lần
ông bị kỷ luật nội bộ, bị cách chức
và quản thúc tại gia. Một lần ông nhảy lầu
tự tử nhưng không chết, nay có muốn nhảy tiếp
cũng không thể v́ chân què không c̣n có thể leo gác. Rồi
bệnh đau mắt từ nhỏ tái phát, cộng với
nỗi buồn bực, đă biến ông thành người
mù.
Cuối cùng,
các đồng chí của ông đă để ông yên v́ ông chẳng
thể làm ǵ được nữa. Một ông lăo què chân, mù
mắt, sống một ḿnh (v́ ông chẳng bao giờ lấy
vợ nên không con cháu) trong ngôi nhà cấp bốn hai pḥng ngay
sát Hồ Tây, sống với một bà lăo giúp việc (do
trung ương chi tiền thuê) hơi giở người
nhưng được cái sạch sẽ và chưa một
lần quên nấu ăn để ông phải đói. Lúc này
trong đầu ông chỉ toàn màu đên, tịnh không sót lại
một chút nào màu đỏ hừng hực của thời
trẻ.
Ngày nào ông
cũng ngồi trên chiếc ghế được làm bằng
hai thanh gỗ thô ráp, nh́n ra mặt nước Hồ Tây vô cảm.
Ngồi lặng lẽ suốt từ mờ sáng đến
tối mịt, ấy là theo lời báo cáo lên trung
ương của bà lăo giúp việc, chứ ông th́ không biết
và không thèm để ư đến khái niệm thời gian
trong ngày. Ông c̣n minh mẫn, thậm chí minh mẫn hơn cả
những ngày trai trẻ, và nếu không mù và c̣n giấy mực,
hoặc chí ít có người viết hộ th́ ông c̣n gửi
nhiều tâm thư nữa cho Đảng yêu quí của ông.
Thời kỳ đầu ông c̣n lẩm bẩm một ḿnh,
có khi gào to với Hồ Tây, nay th́ ông im lặng, suốt
ngày im lặng, và, cũng theo lời bà già chỉ điểm
kia, "lúc nào cũng luôn tay mân mê một chiếc khăn
mù-soa bẩn thỉu bị thủng một lỗ bằng
ngón tay ở góc". (Đó là vết đạn xuyên trúng phổi
ông cuối chiến dịch Điện Biên). May người
ta cho đó là dấu hiệu lẩm cẩm của một
ông già lẩn thẩn nên nó không bị tịch thu.
KHÔNG BIẾT TÁC GIẢ
(Huôn
Trinh sưu tầm và
chuyển)