ĐÊM GIAO THỪA
đầu tiên trên đất Mỹ
(Trần Trung Đạo)
Tôi xuống máy
bay ở phi trường Logan, Boston khoảng 10 giờ tối,
một ngày cuối tháng 11, 1981 trong cái lạnh se người. Tôi và T., một người tỵ nạn
cùng chuyến và nhỏ hơn tôi vài tuổi, nh́n quanh không thấy
ai. Chờ khoảng mười
phút, chúng tôi tự động lần ṃ theo lối đi có
chữ Exit để ra ngoài.
Bác Tôn Thất Ân làm việc cho Viện Quốc
Tế (International Institute of Boston) có nhiệm vụ đón
chúng tôi ở phi trường. Ngày đó, người đi
đón có thể vào tận cửa nhưng bác ngồi chờ
ở trạm lấy hành lư v́ nghĩ thế nào chúng tôi cũng
ra đó trước.
Tôi không có hành lư ǵ cả ngoài một túi nhỏ
cầm trên tay, trong đó chứa vài bộ áo quần và những
giấy tờ cần thiết. T. cũng thế. Bác thấy
chúng tôi nên rời khỏi ghế bước lại gần.
Bác Ân không lạnh lùng nhưng cũng không quá niềm nở. Bác làm việc
đón đưa mỗi ngày theo phận sự một nhân
viên có lương chứ không phải đón mừng một
thân nhân từ bên kia trái địa cầu vừa đến.
T. có bà con ở Boston c̣n tôi đến một
ḿnh. Lát nữa, bác Ân sẽ đưa T. đến nhà bà con
của chú ấy, và sau đó sẽ mang tôi đến
nơi tạm trú đầu tiên trong hành tŕnh tỵ nạn
c̣n mờ mịt và chông gai của ḿnh. Sau này gần gũi
bác nhiều hơn, tôi biết bác Ân rất bao dung, rộng
lượng và đầy t́nh nhân ái nhưng tính t́nh hơi
nghiêm nghị. Tôi gặp lại bác Ân nhiều lần khi bác
c̣n ở Boston và luôn nghĩ đến bác như một
người ơn lớn của ḿnh.
Cuối tháng 11, trời Boston khá lạnh. Với
một người đến từ vùng nhiệt đới
và cô đơn như tôi càng cảm thấy lạnh hơn
nhiều.
Nhớ lại vài giờ trước
đó, người đón chúng tôi ở phi trường
Chicago là một cô gái Việt làm cho cơ quan thiện nguyện.
Người con gái Huế có đôi mắt đẹp và giọng
nói ngọt ngào, phát cho mỗi người trong đoàn chúng
tôi một chiếc áo ấm. Tôi nhỏ con nên muốn một
chiếc áo cỡ nhỏ. Người đẹp nh́n tôi
như thương hại cho thân h́nh ốm yếu nhưng
lắc đầu và chỉ vào thùng áo cùng một cỡ
như nhau.
Nếu ở trường Luật Sài G̣n,
tôi đă cám ơn đôi mắt ấy một bài thơ tả
t́nh đầy sáo ngữ nhưng ở Chicago hồn thơ
cũng đă lạnh cóng như mặt hồ Michigan gần
đó. Từ Chicago, đoàn tỵ nạn từ Philippine
chia tay nhau lên máy bay nội địa đi về nhiều
ngả. Bầy chim xa mẹ vốn lẻ loi lại càng lẻ
loi hơn.
Bác Ân lái xe đưa chúng tôi ra khỏi phi
trường nhưng không đến thẳng khu nhà chúng tôi
ở. Bác bảo phải ghé lại Viện Quốc Tế
trên đường Commonwealth trước cho biết chỗ
v́ kể từ ngày mai chúng tôi sẽ phải đến
đó nhận tiền ăn cho đến khi được
cấp welfare (một loại tiền trợ cấp của
chính phủ dành cho người nghèo khó), và cũng luôn tiện
lấy thêm đồ dùng. Bác lấy một chiếc nệm
mỏng và bảo đó sẽ là của tôi.
Bác đưa T. về với bà con của
chú ấy trước sau đó đưa tôi đến khu
nhà số 15 đường Park Vale ở Allston, cách Boston chừng
10 dặm. Khi đó căn nhà đă có nhiều người ở
trước. Tôi nhập chung với một số người
ở tầng hai. Tầng
ba cũng có vài gia đ́nh người Việt trong đó có
gia đ́nh anh chị Liêm mà tôi vừa gặp lại ở
Atlanta đầu năm nay sau hơn ba mươi năm xa
cách. Tôi rất mừng khi gặp lai anh chị. Ngày xưa
chúng tôi ở chung một khu nhà nhưng ít có dịp chuyện
tṛ v́ đời sống quá tất bật khó khăn. Bây giờ
khi bước qua rồi và nh́n lại chúng tôi mới thấy
quư khoảng không gian và thời gian chung sống.
Tôi đến sau và được xếp
nằm gần cửa sổ nhưng chắc không phải
là một ưu tiên. Nằm gần cửa kính thường
lạnh hơn và gió lọt vào. Sau
này mới có giường nhưng mấy tháng đầu ai
cũng nằm dưới sàn gỗ. Cảm giác bất an
tràn ngập kín trong ḷng. Tất cả đều xa lạ.
Từ những người chung quanh đến cảnh vật
mùa đông, không ai và không có một ngoại cảnh nào có thể
gọi là cảm thông, chia sẻ với ḿnh.
Đúng như lời cô gái Việt ở
Chicago cảnh cáo, Boston chào đón tôi bằng những
cơn băo tuyết triền miên suốt mùa đông đầu
rét buốt. Đêm giao thừa của ngày Tết Việt
Nam đầu tiên trên nước Mỹ không có bánh chưng
xanh, không có rượu nồng pháo nổ, không một lời
chúc tụng ngoại trừ âm hưởng của những
bông tuyết trắng bị gió đùa vào cửa sổ.
Tôi đă băng
qua nhiều ngọn núi trong đời ḿnh nhưng những
năm đầu trên đất Mỹ là ngọn núi cao nhất.
Tôi phải vượt qua, nếu không, tất cả các
thành tựu trong quá khứ sẽ trở thành vô nghĩa.
Đúng giao thừa, người anh lớn
tuổi nhất trong nhà đang cặm cụi sửa soạn
một bàn thờ nhỏ trong pḥng khách để cúng ông bà.
Bàn thờ đơn giản, chỉ một lon
hương, hai cây đèn, một nải chuối và một
b́nh hoa.
Thấy anh chuẩn bị cúng, tôi và những
người ở cùng nhà ra khỏi pḥng, nghiêm trang đứng
sau lưng anh. Anh khấn vái xong, chúng tôi, những kẻ
không họ hàng, thân thuộc ǵ với nhau, cũng lần
lượt mỗi người thắp một cây
hương, cúi đầu vái ba vái. Không biết vái về đâu
và cũng không biết từ phương Đông xa xôi, tổ
tiên ông bà có nghe được lời cầu nguyện của
những đứa con đang lạc loài trên đất
khách. Không có tiếng khóc trong đêm giao thừa đầu
tiên nhưng ḷng ai cũng nặng trĩu ngậm ngùi.
Không nói ra, nhưng h́nh như người
nào cũng sợ phải đối diện với nỗi
cô đơn, lạc lơng trong đêm giao thừa. Chúng tôi, thay v́ về lại
pḥng ḿnh, ngồi quây quần nhau chung quanh chiếc bàn dài.
Vài đĩa cánh gà chiên. Vài lon bia. Một b́nh trà. Những bầu
tâm sự. Mẹ già. Người yêu. Bè bạn. Những câu
chuyện vượt biên hồi hộp và gian khổ.
Có một điều không ai trong chúng tôi
đă hối tiếc việc ra đi. Chúng tôi kể lại cho nhau
nghe chặng đường nguy hiểm của ḿnh một
cách hănh diện. Thành quả dù lớn hay nhỏ cũng
đều có giá và tự do thường phải trả giá
đắt nhất, đôi khi bằng chính mạng sống
của con người.
Năm 2010, nhân ngày 30 tháng 4 đài VOA có phỏng
vấn tôi lư do ra đi và tôi trả lời, bởi v́ "Quê hương Việt Nam
sau 30-4-1975 là quê hương để nhớ để
thương chứ không phải để sống".
Và như thế, tôi đón cái Tết đầu
tiên với những người xa lạ nhưng vô cùng cần
thiết trong đời sống mới, những người
đă gọi nhau là đồng hương và tôi cũng
được hưởng thêm một t́nh cảm mới
mà chúng tôi gọi là t́nh đồng hương. Giống
như một gia đ́nh, lắm khi vui và cũng có khi buồn
nhưng từ những bước đầu khó khăn,
nhỏ nhoi và vui buồn đó, cộng đồng Việt
Nam đă được sinh ra và lớn lên vững mạnh
đến hôm nay.
TRẦN TRUNG ĐẠO
(Nguyễn N.S. sưu tầm, Trần N.P. chuyển)