LỄ GIA TIÊN NGÀY TẾT
(Ngô Nhân Dụng / NV)
Hiện nay dù theo tôn giáo nào, người Việt
Nam cũng có thể thắp nén nhang, lạy trước bàn
thờ tổ tiên vào ngày giỗ, tết. Đối với
người Việt ở xa quê hương lễ gia tiên
c̣n quan trọng hơn khi ở quê nhà. V́ đó là một
cơ hội cho chúng ta nối quá khứ với hiện tại,
hướng thế hệ trẻ về tương lai với
một niềm tin vào truyền thống.
Ngày Tết là cơ hội mọi gia
đ́nh nhắc nhở con cháu biết lịch sử của
ông bà, tạo cơ hội giải thích với con cháu tại
sao phải lễ lạy trước bàn thờ. Chúng ta có
thể tạo cho các thế hệ trẻ về niềm tự
hào truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó có phong
tục làm giỗ, làm lễ và tưởng nhớ tổ
tiên.
Người Việt Nam có phong tục thờ
cúng tổ tiên từ nhiều thế kỷ trước khi
bị các quan thái thú đời Hán ép sống theo văn hóa
Trung Hoa, trong các cuốn sách về lịch sử Giáo Sư
Lê Mạnh Thát đă nêu nhiều chứng cớ. Những
ngôi mộ cổ từ hàng ngàn năm trước Tây lịch
cho thấy nhiều vật tùy táng chôn theo trong mộ. Hiện
tượng này chứng tỏ người Việt đă
coi những người đă chết như c̣n vẫn tiếp
tục sống ở một thế giới khác. Trong Tiền
Hán Thư đă kể chuyện một người Việt
tŕnh bày cho Hán Vũ đế nghe về phong tục thờ
vong và gọi hồn người chết. Thời Tiền
Hán kéo dài trong hai thế kỷ trước Công Nguyên (206 TCN
- 9 CN).
Lê Mạnh Thát (Tuệ Sỹ) thấy trong
Lục Độ Tập Kinh đă tŕnh bày quan niệm về
đạo Hiếu. Kinh này
được thiền sư Khương Tăng Hội,
sống ở nước ta vào thế kỷ thứ ba, dịch
sang chữ Hán. Thân phụ nhà sư di cư từ bán đảo
Ấn Độ sang nước ta, thân mẫu ngài chắc là người
Việt. Kinh Lục Độ Tập hiện nằm trong bộ
đại tạng chứ Hán, nhưng được dịch
từ ngôn ngữ nào ? Lê Mạnh
Thát biện luận rằng bản gốc không viết bằng
chữ Phạn mà có thể bằng tiếng Việt, v́
trong kinh có nhiều từ ngữ và khái niệm mà các kinh
văn chữ Phạn không bao giờ nói tới. Thí dụ, kinh nói đến tục chôn
người chết, tục bỏ tiền vào miệng thi
hài, những tục đó không thông dụng ở Ấn Độ
cũng như Trung Hoa, c̣n người Việt đă theo từ
lâu. Những luận giải trong kinh này về
Hiếu, Hạnh, không thấy trong văn học chữ Phạn
mà cũng không giống quan niệm Nho giáo ở Trung Hoa trong
các thế kỷ đầu công nguyên. Ngoài ra, cấu trúc
ngôn ngữ nhiều chỗ lại viết theo văn pháp tiếng
Việt, ngược với văn pháp chữ Hán. Thí dụ,
trong kinh viết Tượng Phật theo văn pháp tiếng
Việt, người Hán phải viết Phật Tượng;
có hàng chục trường hợp tương tự, đặt
tĩnh từ sau danh từ. Lê Mạnh Thát kết luận rằng
Kinh Lục Độ Tập đă thông dụng với tổ
tiên người Việt chúng ta trong mấy thế kỷ
trước và sau Công Nguyên. Trong kinh đó đă bàn đến
đạo Hiếu, chứng tỏ các quan niệm này đă
phổ thông với người Việt từ rất lâu. Sau một ngàn năm bị người
Trung Hoa cai trị, người Việt Nam đă hấp thụ
Nho giáo, ḥa lẫn tư tưởng đạo Nho với
phong tục thờ cúng tổ tiên có sẵn. Nhưng so sánh với
người Trung Hoa người Việt không quá chú trọng
đến h́nh thức như họ. Từ đời Hán
người Trung Hoa coi chữ Hiếu là đứng đầu
các tính tốt, họ theo đạo Hiếu với một
thái độ "giáo
điều". Con có hiếu
là "vững lập trường", có đủ mọi đức hạnh,
ai không giữ hiếu là vứt đi! Trong khi đó đối
với người Việt, như Lê Mạnh Thát thuật
lại theo Kinh Lục Độ Tập, th́ chữ Hiếu
không có vai tṛ độc tôn. Giá trị của chữ Hiếu c̣n ở dưới
ḷng thương người, thương muôn vật, t́nh thương
này là quan trọng
nhất.
Ngày nay chúng ta làm lễ tổ tiên như thế
nào ? Bàn về việc hành lễ, đức Khổng
Tử nói:"Tế
như tại" (Luận
Ngữ, Thiên Bát Dật, câu 12). Theo tinh thần đó, khi làm
lễ tổ tiên chúng ta cung kính như thể tổ tiên
đang ở trước mặt ḿnh.
Nghi lễ đặt ra không phải chỉ
v́ người ta muốn làm bổn phận với Trời,
Phật, Tiên Tổ, mà c̣n một mục đích quan trọng
khác là tác dụng trên ḷng người, giúp con người
hướng đến điều lành, ghi khắc trong ḷng
các giá trị trong truyền thống. Việc thờ cúng ông
bà chỉ có tác dụng nếu người hành lễ chú tâm
tưởng niệm. Những lời khấn mời ông bà
về họp mặt cùng con cháu nhân ngày giỗ, ngày Tết,
chỉ cần nói một cách chân thành, giản dị,
như thể có dịp tṛ chuyện với tổ tiên, tất
cả hiện diện trước mặt ḿnh. Điều mà
các bậc phụ huynh chúng ta cần giải thích cho con em
là, tổ tiên lúc nào cũng có mặt ở bên ta, nói đúng
ra, ở ngay trong mỗi con người chúng ta.
Điều các em có thể hiểu, nói một
cách khoa học, là trong mỗi cá nhân đều có những hạt
giống, có ḍng máu di truyền của ông bà, cha mẹ. Những
hạt giống di truyền đó nằm ở trong ḿnh, ở
với chúng ta suốt cuộc đời. Mỗi người sẽ truyền lại
hạt giống di truyền cho các thế hệ sau. Có thể nói mỗi người đều
mang trong ḿnh một phần những tế bào sống và những
kinh nghiệm đạo lư, tâm linh mà tổ tiên đă thu nhận,
đă nuôi dưỡng. Di sản của tổ tiên c̣n gồm
cả những việc làm, những lời nói của
người đă khuất. Khi c̣n sống, tổ tiên đều
ư thức các hành động của ḿnh sẽ ảnh hưởng
tới con, cháu, nhiều thế hệ. Tổ tiên người
Việt lúc nào cũng ước ao, cũng mong mỏi những
việc ḿnh làm sẽ đem kết quả tốt lành cho
các thế hệ sau. Quan niệm
đó, người Việt gọi là Phước Đức Ông Bà. Khi một
người Việt làm điều thiện, tránh điều
ác, hành động đó không phải chỉ cốt tạo
ra những hậu quả tốt cho chính ḿnh, mà c̣n muốn,
có khi chỉ làm với mục đích "để dành phước đức", truyền lại cho con cháu. Người Việt Nam tin vào Phước
Đức. Đây cũng là một niềm tin đặc biệt
Việt Nam, người Trung Hoa hay Ấn Độ không đề
cao niềm tin vào Phước Đức như vậy. Người Việt nghĩ rằng mỗi
cá nhân có một "kho" các điều lành, gọi là "Phước Đức". Cái kho đó do ḿnh tạo ra, do các hành
động của chính ḿnh; nhưng kho Phước Đức
cũng thu nhận hậu quả các hành động do cha mẹ,
ông bà đă làm. Niềm tin đó nối liền các thế hệ.
Nó khiến mỗi cá nhân cố gắng làm điều lành,
tránh điều ác, không những để ḿnh nhận
được hậu quả tốt lành mà c̣n "góp vốn" cho con
cháu đời sau được hưởng phước.
Hoặc ít nhất con cháu "không phải
trả nợ" những
lỗi lầm v́ những việc mà ông cha đă làm. Cũng
vậy, mỗi thế hệ cũng nghĩ rằng trong
đời ḿnh có khi gặp được điều t́nh
cờ may mắn không hiểu được tại sao, th́
sẽ giải thích may mắn đó một phần là do
Phước Đức ông bà để lại. Với niềm tin tưởng vào Phước
Đức, mỗi thế hệ đều biết ơn tổ
tiên v́ những phước đức tích lũy từ
đời trước. Rồi đến lượt chính
ḿnh cũng muốn làm điều thiện để cất
đầy trong kho phước đức chung, cho con cháu
đời sau được hưởng.
Tổ tiên chúng ta đều chia sẻ niềm
tin vào Phước Đức, từ bao nhiêu thế kỷ nay vẫn
giữ niềm tin nàỵ Trong giống dân nào cũng vậy,
ông bà cha mẹ đều cầu mong con cháu gặp mọi
sự tốt lành, muốn để lại cho con cháu những
di sản có giá trị. Nhưng đặc biệt trong truyền
thống của chúng ta, niềm tin vào Phước Đức
khiến tổ tiên chúng ta không phải chỉ dùng lời
nói để cầu khẩn, ước mong. V́ tin vào
Phước Đức, tổ tiên chúng ta cầu chúc cho con cháu
bằng các hành động lương hảo, nhân từ,
bác ái. Tổ tiên đă dùng chính bản thân, chính
cuộc đời của ḿnh để chúc lành cho con cháu. Khi hiểu như vậy, chúng ta sẽ cảm
thấy một sợi dây thiêng liêng nối liền các thế
hệ, sẽ nhớ tới tổ tiên với một niềm
biết ơn sâu xa. Và chúng
ta hiểu chính ḿnh cũng phải làm bổn phận như
vậy cho các thế hệ sắp tới.
Thế hệ trẻ có thể hiểu dễ
dàng rằng trong mỗi người chúng ta mang các hạt giống
di truyền của tổ theo sinh học. Quan niệm
Phước Đức giúp họ thấy ḿnh cũng mang theo hạt
giống của các điều thiện mà tổ tiên để
lại. Các bạn trẻ có thể cảm thấy
sự hiện diện của tổ tiên rơ ràng hơn. Tổ
tiên đang hiện diện thật sự trong bản thân họ.
Khi đó việc cử hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên
có một ư nghĩa sâu xa hơn; châm ngôn "Tế như tại" được thể hiện.
Nghi lễ cúng bái tổ tiên không cần phải
phức tạp hay sang trọng. Đức Khổng Tử cũng
nói "Lễ, dữ ḱ xa dă, ninh kiệm", nghĩa là việc hành lễ mà xa xỉ
th́ nên kiệm ước c̣n hơn. (Luận Ngữ, Bát Dật,
4.) Để cho thế hệ trẻ tham dự nghi lễ thờ
cúng ông bà một cách tự nhiên, thoải mái, chúng ta cần
hành lễ theo cách nào đơn giản hơn cả, chú ư
đến nội dung hơn là h́nh thức. Như lời
Khổng Tử nói về tang lễ, trong cùng đoạn
trên, "Tang, dữ ḱ dị dă, ninh thích" (Tang lễ mà quá chú trọng nghi tiết th́
chỉ bày tỏ ḷng thương xót c̣n hơn.) Nhưng giản
dị không có nghĩa là vội vàng, cẩu thả. Ḷng thành
kính phải được thể hiện ra với h́nh thức
bên ngoài, trong y phục và cử chỉ người lễ.
Hành lễ với khung cảnh, thái độ
cung kính và trang nghiêm sẽ tạo được tác dụng
sâu xa trong ḷng các bạn trẻ, giúp họ tham dự vào
phong tục thờ cúng ông bà. Giữ phong tục thờ cúng
tổ tiên sẽ truyền lại cho các thế hệ sau một
di sản văn hóa quư báu của Dân tộc Việt Nam.
NGÔ NHÂN DỤNG
(NNS sưu tầm, TNP chuyển)