GỞI MỸ
(Cam Li NGUYỄN THỊ MỸ THANH)
Trước 1975, tác giả viết cho bán
nguyệt san Tuổi Hoa, có truyện dài xuất bản bởi
Tủ Sách Tuổi Hoa. Định cư tại San Jose từ
2003, sáu năm sau cô góp cho "Viết Về Nước Mỹ"
nhiều bài viết giá trị và đã nhận giải vinh
danh "Tác Phẩm Xuất Sắc, Viết Về Nước
Mỹ 2010". Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Bính
Thân 2016.
1
Vườn xưa xóm cũ, tôi trở về
sau hơn bốn mươi năm.
Tôi không nghĩ rằng mình sẽ trở về.
Tôi chẳng đã được gọi là "ông cứng
đầu" hay sao? Mà tôi cứng đầu thiệt! Tôi
đã ra đi và hứa không trở lại trừ khi
"có thay đổi". Tôi sẵn sàng "nổi
dóa" khi có ông bạn nào bảo "về đi, bây giờ
Việt Nam phát triển lắm, đẹp lắm, giàu lắm
v.v.. và v.v .."
Vậy mà tôi đã về! Sau ngày mẹ tôi
mất, tôi bỗng dưng có một ý muốn mãnh liệt
là phải về thăm lại nơi mẹ tôi đã từng
sống với các em của mẹ. Bố tôi là "Bắc
kỳ di cư" nhưng mẹ là người miền
Nam. Ông bà ngoại tôi đều mất sớm, mẹ tôi
chăn dắt các em. Khi các em đủ lớn, mẹ lập
gia đình và lên Sài Gòn sống. Cuộc chiến chấm dứt,
mẹ dắt hai anh em tôi lên một chiếc tàu và trôi dạt
đến xứ Mỹ này. Chuyện kể nghe đơn
giản như chuyện của nhiều gia đình khác.
Nhưng là đứa con của mẹ, ngồi suy ngẫm
lại là thấy cả một cuộc đời đầy
nỗi gian truân. Không ai ép buộc, nhưng tự đáy lòng
tôi, một cái gì thôi thúc tôi hãy trở về thăm lại
chốn quê nghèo của mẹ một lần.
Và thế là, lặng lẽ, tôi xách gói về.
Tới Sài Gòn, trú lại một đêm, tôi xách gói tiếp
đi về quê, cái nơi mà tôi chỉ thỉnh thoảng về
thăm trong thời đi học, rồi sau bận bịu
quá tôi như quên luôn.
Quê nghèo vẫn nghèo.
Các dì, cậu của tôi đã mất, tôi chỉ
còn người mợ, vợ của cậu út. Mợ chỉ
có một người con trai. Ngày tôi rời Việt Nam,
người em cô cậu của tôi chưa ra đời. Vậy
mà bây giờ, người em này đã hơn bốn
mươi tuổi, cái tuổi khá dài của một quãng
đời đất nước. Cái "quãng đời"
đó, tôi chưa hề tham dự vào. Ngày tôi rời Việt
Nam, tôi thấy mẹ tôi khóc nghẹn ngào khi bỏ lại
các cậu các dì ở quê nghèo. Mẹ nói thương nhất
là mợ, vì mợ trở nên góa bụa khi đang mang đứa
con trong bụng. Cậu út ngã xuống trong những ngày cuối
của cuộc chiến.
Vườn xưa, xóm cũ, tôi đã trở
về.
Và kia rồi, người phụ nữ góa
bụa ngay trong tuổi thanh xuân, hiện ra trước mắt
tôi. Mợ ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở:
"Trời ơi! Mợ trông thấy con,
lại nhớ đến chị."
Và mợ rối rít gọi con của mợ.
Anh em tôi gặp nhau lần đầu, nhưng hồ
như không hề thấy xa lạ, bởi mỗi người
đều mang nét thân thuộc của mẹ tôi và của cậu.
Trái với dáng vẻ "thư sinh trắng trẻo" của
tôi, em tôi trông rắn rỏi, già dặn hơn nhiều. Màu
da rám nắng, kết quả của sự dãi dầu trên
vườn ruộng. Lại còn điếu thuốc trên
tay, điểm này thì không hề giống tôi chút nào rồi!
"Làm không đủ ăn anh à!" Em nói
vậy bằng một vẻ e dè khi tôi hỏi về cuộc
sống.
Mà thật, sao đủ ăn cho được,
khi gia tài là mảnh vườn còm cõi, là chút ruộng nhuộm
phèn! Vất vả quanh năm cũng không chắp vá
được cái mái dột, cái vách nhà xiêu vẹo.
Em tôi đưa tôi ra thăm mảnh vườn,
phải đi một con đường mòn, băng qua một
cái mương nhỏ mới đến. Vài gốc cam,
dăm gốc ổi, một giàn bầu, một vạt rau
muống. Tôi sững sờ. Cái này thì chỉ đủ cho bữa
cơm nhà nghèo chứ bán buôn gì? Còn mảnh ruộng ông bà
để lại cho mợ và em thì nhìn thấy là lắc
đầu thôi. Ruộng nhiễm phèn thì cấy cày
được bao nhiêu! Khó tưởng tượng bên sông
mẹ Cửu Long mà có thể khô mặn đến thế.
Tôi biết với tâm lý thông thường của
con người thì ai nhìn thấy cảnh nghèo cũng sẽ
hỏi hoặc tự hỏi "có thể dọn đi
nơi khác không?" Nhưng đừng! Vì tôi biết, còn
giữ được một mảnh đất dù khô cằn
cho gia đình mình cũng đã là một điều phi
thường. Nó đúng trong trường hợp ở xứ
này.
2
Khi hai anh em về đến nhà thì trong nhà
đã có thêm hai người nữa. Em tôi giới thiệu
ngay:
"Đây là vợ và con của em."
Em dâu chào tôi. Cô có vẻ mộc mạc,
đằm thắm. Còn đứa con gái tuổi khoảng
lên sáu, khoanh tay cúi đầu như đã được dạy
dỗ từ lâu như thế. Em tôi nói:
"Con à, bác Hai của con ở Mỹ mới
về đó!"
Con bé xinh xắn, tóc xõa ngang vai, đôi mắt
to tròn chợt nhướng lên to tròn hơn nữa. Như
có một điều gì rất bất ngờ đến với
nó, nó thốt lên:
"Hả? Ở Mỹ???"
Vù một cái, con bé vụt bỏ chạy
vào trong. Cả nhà hết hồn theo. Tôi nhìn em tôi, nhìn em dâu,
nhìn mợ. Không ai hiểu gì. Mẹ bé lắc đầu, trấn
an mọi người:
"Con nhỏ thường như vậy
đó, chắc nó nghe lạ."
Mợ tôi nói:
"Nhưng sao nó hoảng hồn như vậy?
Hay là trong lớp cô giáo nói gì về nước Mỹ?"
Câu nói này thì đáng giật mình lắm
đây! Phải chăng cô giáo giảng rằng nước
Mỹ xấu xa, nước Mỹ ác độc, người
Mỹ đáng bị xa lánh? Tôi chưng hửng. Con bé trốn
luôn ở buồng trong. Mợ tôi bảo em dâu tôi vào coi. Em
dâu nói không sao, cứ để tự nhiên, chốc nữa
nó sẽ ra thôi.
Và con bé ra thật, chỉ sau năm mười
phút. Bây giờ nét mặt nó hết căng thẳng,
nhưng hướng tia mắt lấm lét nhìn cha mẹ, rồi
nó đến trước mặt tôi, chìa ra một tờ giấy.
Nó nói bằng giọng thánh thót:
"Bác Hai ở Mỹ? Bác Hai .. gởi cái
này cho Mỹ giùm con."
Tôi lấy lại sự tự nhiên, cười:
"Con gởi Mỹ hả? Hay là gởi
bác?"
"Con gởi Mỹ, bác Hai đưa Mỹ
giùm con."
Mọi người cứ trố mắt
lên nhìn con bé. Nhưng liếc nhìn thấy trang giấy có ghi
chữ, tôi hỏi:
"Bác đọc được
không?"
"Dạ được. Ai đọc cũng
được, nhưng mà .. phải gởi Mỹ."
"Bác hứa, bác sẽ gởi Mỹ."
Tôi thấy vui với hai chữ "gởi
Mỹ" này. Dòng chữ viết nắn nót:
"Gởi Mỹ,
Bé muốn xin Mỹ một bộ tách có in
hình Minnie Mouse. Bé là con gái, chỉ thích Minnie Mouse thôi. Bé cám
ơn Mỹ rất nhiều."
Tôi nhẩm đọc xong, chuyền cho mợ
tôi và hai em. Mẹ bé "à" lên, nói:
"Em hiểu rồi! Tại nó qua nhà hàng
xóm coi "vô tuyến", thấy con chuột Minnie, nó
thích, muốn em mua đồ chơi có in hình con chuột
này. Em nói cái này không có ở đây, mà .. chỉ có ở Mỹ.
Vậy là nó in trong đầu luôn."
Cả nhà thở ra. Đơn giản chỉ
vậy. Tôi nói:
"Bác sẽ .. nói Mỹ tặng cho con
đồ chơi có in hình Minnie Mouse."
Con bé cười rạng rỡ:
"Dạ con cám ơn bác."
3
Con bé nghĩ đến Mỹ không như một
nước, một nơi, mà là một người bạn,
hay một người thân. Tôi thấy lạ lùng nhưng
thú vị.
Cả đêm ở lại quê nghèo tôi khó ngủ,
không vì lạ chỗ mà vì suy nghĩ lan man. Thế nhưng
khi nghe tiếng gà gáy lác đác xa xa, tôi cũng choàng dậy.
Tôi chỉ còn buổi sáng nay thôi, rồi phải trở lại
thành phố lo tiếp một số việc.
Mợ tôi đã dậy rất sớm. Mợ
mang cho tôi một tô trà còn bốc khói, nói chè lá này từ cây
chè ông ngoại tôi trồng ngày xưa. Vậy mà cả nhà vẫn
chăm sóc cây chè này, cho nó luôn xanh tốt đến nay ở
mảnh đất vùng nhiệt đới.
Rồi hai mợ cháu ra thăm mộ. Khu
đất nhỏ sau nhà là nơi chôn cất những
người thân trong gia đình. Tục lệ ở thôn quê
miền Nam là vậy. Ông bà cha mẹ quá vãng vẫn gần gụi
con cháu. Tuy không phù hợp với "văn minh thành phố",
nhưng xem ra lại có không khí ấm cúng, đỡ buồn
tủi cho người ở lại. Mợ đưa tôi
đến mộ ông ngoại. Tôi thay mẹ đốt hết
nén nhang mang theo, thầm khấn thay mặt tất cả
các con cháu của mẹ, trang trọng cắm từng cây
nhang trên mộ cúng ông ngoại rồi lần lượt
thăm các ngôi mộ. Không thấy mộ của cậu út.
Mợ xúc động nói:
"Cậu út không có mộ ở đây.
Ngày cậu tử trận hồi Tháng Tư năm 75, mợ
không biết nhờ cậy ai. Khắp nơi xao xác, hỗn
loạn. Mợ thì sắp sinh thằng em con. Sau này mợ dò
hỏi mãi mới tìm ra nơi người dân chôn giùm cậu
con. Mợ đã cải táng và đem tro của cậu con về
gởi trong chùa."
Tôi theo mợ đến thăm ngôi chùa ở
cuối xóm, một ngôi chùa nghèo. Chỉ có một vị
sư cô già nua coi chùa và lo kinh kệ. Mợ nói hàng xóm ai có
lòng thì thỉnh thoảng đến giúp sư cô dọn dẹp,
nấu nướng.
Giọng tụng kinh của sư cô nghe ấm
lòng. Tôi đến thắp nhang trước hũ tro cốt
của cậu út. Trên hũ không có gắn hình. Nhưng tôi
đã nhìn thấy hình cậu út trên bàn thờ trong nhà mợ;
và hơn thế nữa, một cậu út bằng
xương bằng thịt khi còn sống. Người lính
chiến một thời từng là hình ảnh mà tôi rất
ngưỡng mộ.
Tôi về thu xếp hành lý để lên
đường. Tôi phải đi.
Gió sớm thổi nhẹ, mấy sợi
tóc hoa râm của mợ tôi bay lòa xòa trước trán. Mái tóc của
mợ được bới gọn sau gáy. Mái tóc của một
thời xuân sắc. Mái tóc của người giáo viên hoa
khôi của quận nghèo. Cô giáo trẻ bơi xuồng đi
về hai bận mỗi ngày đến trường và từ
trường về nhà. Tôi, thằng trai nhỏ hồi
đó tính tình khô khan, cũng biết công nhận mợ tôi
đẹp thật. Cậu đi trận thỉnh thoảng
mới về nhà. Mợ gồng gánh mọi việc, phụ
giúp các cậu dì của tôi. Quê nghèo vẫn nghèo, nhưng tình
thương ấm áp.
Con bé cháu đến trước mặt mợ
tôi, khoanh tay chào:
"Thưa bà nội con đi học."
Rồi quay sang tôi:
"Thưa bác con đi học."
Tôi vuốt tóc con bé:
"Bác "bye" con (tôi quen miệng). Con
học cho giỏi, bác sẽ .."
"Bác sẽ gởi Mỹ cái thơ của
con há bác!"
"Ừ. Bác không quên đâu."
"Dạ con cám ơn bác."
Con bé móc hai quai cái cặp nhỏ vào hai vai,
rồi xắn quần lên cao. Vợ chồng em tôi
đưa con đến trường bằng chiếc xuồng
nhỏ, đưa tôi ra bến xe, sau đó sẽ ra ruộng
như mọi ngày. Mọi người cùng lên chiếc xuồng
con. Nắng lên đầy xóm thôn. Nơi đây tĩnh mịch,
không có tiếng "máy đuôi tôm" trên ghe ồn ào
như ở vùng ngoài. Không có xe gắn máy. Không có tiếng
người gọi nhau ơi ới. Chỉ có những chú
chim trên cây cao thỉnh thoảng cất tiếng hót thật
lành.
Mợ tôi đứng lại trên bờ,
nhìn theo chiếc xuồng đưa con cháu rời bến.
Mái tóc hoa râm, đôi mắt buồn, vóc dáng thon gọn
như thời là hoa khôi trường quận. Người
vợ lính. Người góa phụ xuân xanh. Cái bóng mợ tôi
nhỏ dần .. Cảnh nhà lùi lại rồi biến mất
sau khúc quanh con rạch.
4
Hơn bốn mươi năm, hệt
như một khoảnh khắc thấp thoáng trong mơ.
Mà sao nhiều ngày sau khi đã mang cái thư
"Gởi Mỹ" của đứa cháu về Mỹ,
khu xóm nghèo quê mẹ vẫn như hiển hiện trước
mắt tôi. Mái nhà đơn sơ. Mảnh vườn còm
cõi. Những nấm mộ. Ngôi chùa hiu quạnh. Nắm tro cốt
cậu út .. Tất cả có lúc bỗng nhòa nhạt, rưng
rưng.
Trở lại thực tế, đã nói tôi
là "ông cứng đầu", sẵn sàng "nổi
dóa" khi có ông bạn nào bảo về Việt Nam đi ..
Lẽ ra tôi đã chẳng về, nếu không là vì mẹ.
Những ngày cuối đời trên giường bệnh, mẹ
hai ba lần nói điều mẹ bận tâm nhất là không
thể về quê thắp nén nhang trên mộ ông ngoại. Nghe
mẹ than, tôi chỉ biết dỗ dành bà cho qua, nhưng
khi đưa đám mẹ, tôi đã thầm hứa là tôi sẽ
thay bà về đốt nhang cúng ông ngoại. Nơi đến
chỉ là một xóm quê. Thế thôi. Tôi không thắc mắc
về thành phố. Chốn thủ đô xưa của tôi
giờ đâu còn là thủ đô! Nhưng rồi trước
ngày ra phi trường về Mỹ, tôi cũng đi một
vòng. "Phải đi cho biết chứ!" Người
bạn ở Sài Gòn bảo tôi. Linh hồn thành đô cũ vẫn
sống động đâu đó nhưng đường phố
thì xô bồ, ngộp thở. Tôi đã thấy đủ cái
xa hoa. Ông bạn cùng đi nói, "Ở đây, có tiền
là có tất cả ông ạ!" Vào một siêu thị,
đúng là "cái gì cũng có". Và kia, chuột Mickey, chuột
Minnie, Siêu Nhân, Người Nhện, Vua Sư Tử .. tất
tất mọi thứ. Tôi nhớ đứa cháu viết cái
thư "gởi Mỹ", nhưng không mua gì ở Việt
Nam. Thứ mà cháu muốn, dù có ở đó, cũng không phải
dành cho đám trẻ của quê nghèo như cháu. Tôi muốn
trân quý chuyển bức thư "Gởi Mỹ" của
cháu cho "Mỹ".
Khi đã về lại Mỹ, chính tôi tự
tay vẽ Minnie Mouse và đặt làm bộ tách riêng cho cháu.
Tôi gói hộp quà bằng giấy hoa, cột một cái
nơ to đẹp như cái nơ trên tóc của Minnie. Chà!
Con bé sẽ mừng lắm. Chắc bé sẽ nhón ngón tay nhẹ
nhàng tháo chiếc nơ, cẩn thận mở giấy gói,
vâng, rất cẩn thận để không làm rách giấy vì
bé còn muốn cất giữ cho việc khác, chứ không xé
toẹt giấy gói và vất vào thùng rác. Rồi thì Bé sẽ
thấy món quà của bé: bộ tách có in hình Minnie Mouse.
Đôi mắt to tròn sẽ càng tròn to hơn. Đó là người
bạn thân mà bé từng mơ ước, không phải thứ
để mua bán, mà là cái gì đó, qua sự tưởng
tượng của bé, có thể thấu cảm được
bé.
Tôi có mơ mộng không với gói quà và bức
thư gởi Mỹ của đứa cháu? Đúng là có
mơ. Tôi nhớ "giấc mơ Mỹ" của chính
mình. Như biết bao người, tôi từng tin vào giấc
mơ Mỹ và giấc mơ thành thật, đâu khác gì cháu
bé. Vì vậy tôi lập một trang web mang tên
"GoiMy.com", phải viết hoa chữ G và chữ M
để khỏi bị hiểu lầm. Đây là nơi mà
mọi người ở Mỹ, và cả trên thế giới,
qua internet, đều có thể đến tâm tình và hiến
tặng chút quà cho các em bé nghèo Việt Nam.
Cảm tác từ tâm tình của
anh chị Thể Tân.
Xuân Bính Thân 2016.
Cam Li NGUYỄN THỊ MỸ THANH
(Diễm Kiều sưu tầm và chuyển)