SÓNG GIÓ TRÙNG DƯƠNG
(Nhật
Quang Phi Hồ)
* Bài viết
nêu ra vài nét sinh hoạt của đời ngư phủ,
đầy rủi ro, hiểm nguy, gian nan trên biển cả,
thời điểm cuối năm 1975 tại Vietnam.
(HP).
Sau một ngày kéo lưới dã, vật lộn
với sóng biển, thuyền của Hữu quay lại Bến
Đá, Vũng Tàu, bán được nửa giỏ cần
xé tôm thẻ lớn. Cơm nước trên thuyền xong, trời
cũng đã tối hẳn. Đêm trăng 14 tháng Chạp
năm Ất Mão (1975), mây phủ âm u, gió thổi đụng
dãy núi trên bến, kêu vi vút từng hồi. Thuyền lắc
lư như nôi ru giấc ngủ. Nằm xuôi trong khoang lái,
chân tay, mình mẩy nhức mỏi, như không thể cử
động nữa. Hữu ngủ mê man bất tỉnh.
Đến quá nửa đêm, Hữu thấy khó chịu vì bị
chùi xuống một góc. Nhưng Hữu vẫn mê ngủ,
trong tư thế nửa nằm, nửa đứng. Hữu
nhận ra thuyền đã quá nghiêng thấp về phía lái.
Ban chiều mũi thuyền bị buộc sát vào trụ bến,
nên thuyền không theo mực nước để lùi ra
được. Đến khuya, thủy triều rút xuống
để thuyền dựng nghiêng trên bờ đá lởm
chởm.
Trời sáng rõ, Hữu thức giấc, bò về
phía mũi và nhảy lên bến. Quay nhìn lại, Hữu thấy
thuyền mình đang bu trên đống đá đen gồ
ghề, mỗi hòn to bằng cái thúng lớn. Hữu xót xa,
lo lắng vô hạn. Chiếc thuyền gỗ này bây giờ
là vật sản quý hơn cả cao ốc ở Saigon, nó
quyết định sự sống chết, nguồn hy vọng
của cả nhà Hữu. Nếu vỏ thuyền rạn nứt
hoặc thương tổn, nước có thể
phá thuyền và chìm
xuống đáy biển. Còn việc vào ụ sửa chữa
cũng tốn kém và lắm nhiêu khê, phải làm đơn
qua nhiều cấp chính quyền, từ liên gia, khóm, công an
phường .. đến
ty Công An tỉnh.
Hữu là một chủ thuyền bất
đắc dĩ, thời thế tạo con người.
Trước đó, Hữu không hề biết gì về chài
lưới hay thuyền bè, sông biển. Hồi còn ở
quê, mỗi lần qua đò ngang nước lớn, Hữu
đã sợ rồi. Ngán cảnh mưa bão, lụt lội,
dân tình cằn cựa khó khăn, chém giết, anh em xâu xé,
nghèo khổ, đói ăn, thiếu thốn đủ mọi
thứ, nên chờ đến sau ngày đình chiến 1954, Hữu
đã tìm mọi cách vào Saigon, học hỏi, và kiếm sống,
mong thoát cảnh lầm than nơi quê cũ Miền
Trung. Từ tay không, dần dần
có vài chỗ nhà cửa, xe cộ, và cửa hàng buôn sỉ
hàng vải ở Chợ Lớn, theo kiểu người
Hoa. Hai mươi năm tưởng đã thoát cảnh khốn
cùng, không ngờ tai trời, ách nước đã trở lại
trên khắp xứ. Chiêm bao hoàn ác mộng, lại tái ngộ
mấy Ổng. Hữu vội
phá bảng hiệu, dẹp cửa hàng, dứt dây điện
thoại, bôi bảng số xe đẩy bỏ ngoài
đường, nhà cửa tiện nghi thu nhỏ lại.
Thừa chính sách mấy ổng dãn dân, đuổi dân Sàigòn
đi về quê, Hữu xin di chuyển ra Phước
Tuy. Cán bộ mới làm việc
không biết Phước Tuy bao gồm cả Vũng Tàu, nên
chứng thuận ngay. Muốn thoát ách, cần phải công
phu và kiên trì trở lại. Hữu cho vợ con mua một
căn nhà nhỏ ở Vũng Tàu sát mé nước. Nhờ
giấy di chuyển đã thay tên đổi tuổi, Hữu
khai vào hộ khẩu ở đó. Có hộ khẩu làm dân
địa phương mới được phép mua thuyền
và làm nghề chài lưới. Lái thuyền trên biển cũng
chẳng khó, nhưng làm nghề ngư phủ, bắt tôm cá
dưới đáy biển, để bán cho Hợp Tác Xã với
giá rẻ, để được mua dầu và mọi thứ,
tránh bị nghi ngờ vượt biên là một điều
rất khó khăn và khéo léo. Hữu làm việc, phơi nắng
cho đen đủi, thế mà có người trong bến với
giọng Quảng Nam, còn ác miệng nói: "Lão ấy tướng ông Thi(ệ)u mà làm biển
cái chi". Nghe thoáng lời
ấy, Hữu càng lo, giống như Lưu Bị khi nghe
Tào Tháo luận anh hùng. Người trong phường thường
hay hỏi nhau, "thuyền
VT0180 đến nay đã bị bắt chưa?"
Hữu đang nóng lòng chờ thủy triều
lên, cho thuyền nổi, để biết thuyền có bị
hư hại không. Tình cờ, Hữu nhìn thấy một ông
già đầu bạc phơ, mặc bộ đồ bà ba
trắng, đang ngồi trên bến nhìn ra, như đang chờ
thuyền ai đi ngang ra cảng. Hữu lịch sự chào
hỏi:
- Bác đang chờ ai vậy?
- Tôi chờ tụi Tư Đỏ, hẹn
sáng nay đi câu, nhưng chưa thấy thuyền nó ra.
Nghe giọng nói Bình Định của ông,
cũng là những kẻ tha phương cầu thực
như mình, Hữu thấy như thân quen và cảm tình ngay.
- Ủa bác cũng làm ngư phủ sao?
- Tôi làm nghề này lâu rồi, còn chú làm gì
đây?
- Tôi làm biển, đi dã tôm.
- Ghe chú đây à, sao lại đậu trên
đống đá, nhiều ghe đã bị hư hại vì
chỗ này.
- Bác ơi, tôi mới làm có mấy tháng,
đâu đã biết. Có vài thằng nhỏ, gốc ở
đây làm với tôi, mà chúng chểnh mãng không biết gì hết,
thiệt là quá tệ.
- Ghe này đi câu khơi được, sao
chú lại đi dã tôm?
Hữu đã có ý định muốn đi
câu xa để thám sát biển khơi. Hữu có người
bà con cô cậu, từ rừng về làm Giám Đốc ở
thành phố Hồ Chí Minh, hắn khoe rằng: "Hải Quân Giải Phóng bố trí dày đặc
ngoài hải phận, ngăn chặn và trừng trị bọn
phản động cố tình vượt biên theo giặc.
Thuyền chúng xâm nhập hay trốn chạy đều bị
bắt, hay bị bắn chìm tất cả. Chỉ có cá mới
bơi lọt mà thôi". Nên Hữu
có ý muốn kiểm chứng thực hư. Nay nghe ông già
đề nghị đi câu khơi, Hữu đồng ý
ngay:
- Tôi cũng muốn đi lắm. Tháng
trước, tôi đã đi một lần, nhưng sóng lớn
quá, ai cũng ói mửa cả.
Thuyền lại ít người không làm nổi. Nửa chừng,
ra chưa đến Côn Sơn, đã phải quay về.
- Chú yên chí, tôi sẽ sắp đặt cho
chú có đủ tài công và ngư phủ. Chú muốn làm thì
đi theo tôi.
Hữu theo ông già đầu bạc này, lên
xóm nhà nơi triền núi ngay Bến Đá, vào một căn
nhà nhỏ trống trơn, chỉ có một cái giường
cũ, trải chiếc chiếu nhựa rách nát. Ông già giới
thiệu người ở đó là tài công Năm Lạc.
Năm Lạc cao gầy đen đủi, môi thâm thuốc
lá, lối ngoài 50 tuổi, nói giọng Quảng Nam. Hỏi
ra, Năm Lạc đã từng lái thuyền đánh cá nhiều
năm ở Đà Nẵng, sau lưu lạc vào Vũng Tàu.
Năm Lạc có vẻ trầm buồn khắc khổ. Hữu
thấy ông già giới thiệu, nên cũng yên lòng. Hữu cũng
đang do dự có nên dùng những ngư phủ sắp
được giới thiệu, làm việc trên thuyền
không? Vì mướn vào làm thì dễ, nhưng sợ lúc cho họ
thôi việc có thể bị rắc rối.
Khi xưa, Cộng Sản thường xúi
quẩy và vuốt ve người nghèo. Hữu sợ mướn
người làm sẽ có thể bị tố là bóc lột,
theo kiểu như địa chủ đã bị đấu
tố khốn đốn, đến bị giết chóc dã
man lúc trước. Nên Hữu vội nói trước cho ra vẻ
ta cũng thông hiểu chuyện cách mạng:
- Như hai bác đã biết, cách mạng hiện
giờ chấm dứt mọi hình thức bóc lột. Có thuyền
mướn người làm là bóc lột. Mọi người
đều phải tự lao động sản xuất.
Tôi sắm thuyền cho gia đình tôi có phương tiện
tự làm ăn, sản xuất, chứ không có ý thuê người
khác làm mà chia phần. Nếu giờ đây các bác muốn
làm với tôi, là chỉ tạm thời, theo qua mỗi chuyến
câu thôi. Chúng ta sẽ chia phần theo tục lệ hiện
hành, ai sao tôi vậy, nghĩa là sau khi trừ mọi chi phí,
dầu nhớt, ăn uống, phần còn lại sẽ
chia chủ 4, thợ 6. Sau mỗi chuyến là chấm dứt,
không ai ràng buộc nhau thêm điều gì nữa.
Ông già và Năm Lạc đều đồng
ý và nói:
- Chú đừng lo, tụi tui biết
điều mà.
Thế là đôi bên thỏa thuận và hẹn
nhau chuẩn bị phần việc của mình.
Hữu trở về
bến, mực thủy triều đã lại cao, chiếc
thuyền nổi lên bình an, không có dấu vết bị
thương tổn hay hư hại, như con vật khổng
lồ đang nằm chết, lại vừa đứng dậy
khỏe mạnh. Hữu vô cùng mừng rỡ.
Chiều hôm đó, ông già và Năm Lạc dẫn
theo 4 thợ câu nữa lên thuyền: Trí, Long, Mường,
Được, đều là những ngư phủ đứng
tuổi. Long lại có dẫn theo một viên Công An biên phòng,
áo vàng với quân hàm đỏ vàng trên cổ áo, làm Hữu
hơi lo. Nghe nói là viên Công An này trú đóng trong nhà Long, theo
lên thuyền chơi. Nhưng có lẽ Công An đã được
thông báo, nên ra thăm dò xem thuyền Hữu thật sự
làm trò gì.
Nhân công có sẵn trên thuyền Hữu lúc bấy
giờ gồm vợ chồng Hữu, hai con trai lớn là
Ngà 20 tuổi, Hiển 17 và hai ngư dân trẻ địa
phương là An và Thái đều khoảng 20.
Sau sự giới thiệu của Năm Lạc,
Hữu nói rõ về điều kiện làm việc với tất
cả, như đã nói với hai người lúc sáng, rành rẽ.
Mọi người, có cả viên Công An, đều nghe và
yên lặng. Ông già Đầu Bạc phát biểu đồng
ý, hứa sẽ không làm khó dễ gì, và xin Hữu cứ yên
tâm.
Rồi tất cả bắt tay vào việc.
Chia nhau đi mua thực phẩm, dự trù thức ăn 10
ngày, lấy thêm nước, dầu, nhớt, và đá lạnh.
Người thì ngồi cột lưỡi câu hoặc mang
thêm ngư cụ đến. Long và Ngà lập danh sách ngư
phủ, đến liên gia, khóm, phường và Ty Công An Vũng
Tàu xin phép ra biển. Nhờ có Long và Mường móc nối
nên giấy phép và danh sách ngư phủ được ký thuận
trong ngày. Một sổ chi tiêu cũng được lập
ra. Tên của Mai, vợ Hữu cũng đã được
ghi vào. Hữu thấy vui vui, vì có đông người làm việc
với mình, nhưng hơi lo vì thấy trời mù, gió lạnh
Đông Bắc đang thổi nhiều và radio loan báo sóng cấp
4 cấp 5.
Năm Lạc chỉ định An làm tài cải,
tức là thợ máy, lo việc hầm máy, coi máy chạy,
bơm nước trong khoang và xem xét dầu nhớt. Chuyên
môn của An cũng chỉ giới hạn. Nếu máy không
nổ, hộp số trục trặc như đã từng
xảy ra chỉ còn có nước cầu trời. Đến
phút chót, Thái khai vướng lưỡi câu bị
thương, chảy máu, không đi. Về sau hỏi ra, mới
biết Thái thấy vợ Hữu cùng đi, sợ thuyền
sẽ không trở lại, nên kiếm cớ thoái thác. Hữu cũng mừng để
Thái nghỉ việc luôn. Thái là một thanh niên Công Giáo di
cư, nhưng khi Cộng Sản vào Vũng Tàu, Thái cũng
nhảy ra làm Công An 30, chỉ chọt này nọ một thời
gian. Sau gặp An rủ đến làm trên thuyền của
Hữu. Biết được, Hữu lo ngại Thái là kẻ
trắc trở, lòng dạ đổi thay .. Hữu đem vợ và hai con lớn tham dự
chuyến câu khơi này cốt luyện tập cho quen khó
khăn, học hỏi thêm về biển cả, để
sau này gia đình có thể tự làm lấy, không cần
mướn người ngoài.
Khi mọi chuẩn bị đã hoàn tất,
thuyền trình giấy tại trạm gác nổi Công An Biên
Phòng và rời bến lúc 1 giờ chiều ngày 16 tháng Chạp
âm lịch như đã dự tính. Năm Lạc tăng tốc
máy tối đa trong mức quay (RPM) an toàn, hướng mũi
về Nam, ra khơi. Biển động cấp 4. Mai phải
uống thuốc chống say sóng cho bớt ói mửa. Ngà và
Hiển nằm ngây ngất trong khoang. Cả nhà Hữu không
ai biết bơi, nên Hữu đã lo sẵn phao jacket của
Hải Quân lúc trước, cho mọi người mặc,
phòng khi té xuống biển khỏi bị chìm ngay.
Cùng đi với một đám ngư phủ
biết nghề, Hữu thấy có phần yên tâm hơn, tuy
biết rằng nếu sóng lớn, thuyền hở ván, vào
nước, máy móc trục trặc, thì dù có tài giỏi kinh
nghiệm gì cũng phải chết thôi. Hữu thấy nhóm
ngư phủ này như đám mù, nghèo túng quá, phải liều
thân ra khơi, khi đang còn mùa biển động. Người
nọ tin tưởng, ỷ dựa vào người kia mà dạn
dĩ. Hữu hỏi:
- Sóng gió như thế này, các ông thấy
sao?
Có người đáp:
- Có khi sóng còn cao hơn thế này nữa.
Quá mệt mỏi, sau mấy lần nôn ói,
Hữu nằm nửa tỉnh, nửa mê nơi khoang lái, chẳng
ăn uống gì chiều hôm đó.
Ngọn hải đăng nhấp nháy trên
núi Vũng Tàu dần dần thấp xuống và chìm khuất
dưới chân trời phía Bắc. Đến nửa
đêm, Năm Lạc bảo An tắt máy, thả neo, và mọi
người tìm chỗ ngủ trong khoang. Mũi thuyền
cao, chĩa thẳng vào chiều sóng gió, nên cũng dễ bề
chịu đựng.
Trời sáng tỏ, mọi người thức
dậy, ăn xôi, uống cà phê và tiếp tục cuộc hải
trình. Vài giờ sau, Hữu đã thấy ngọn núi Côn
Sơn lờ mờ nơi chân trời Tây Nam. Đến quá
4 giờ chiều, ngọn núi Côn Sơn đã mờ dần
và chìm khuất dưới hoàng hôn Tây Bắc. Nhờ kín
đáo thâu thập dữ kiện, Hữu ước tính
thuyền này, máy Diesel Yanmar, 3-block, với vận tốc máy
1400 RPM đã chạy từ Vũng Tàu đến mức
ngang Côn Sơn mất 16 giờ, tính ra tốc độ sẽ
khoảng 12km/giờ trong điều kiện sóng gió nầy,
và như vậy nếu đi Singapore phải mất 5 ngày
đêm liên tục.
Đến đây, Năm Lạc nhả số,
ngừng lại, cho máy nổ tối thiểu để
bơm nước ra. Tay lái trở thành vô hiệu, thuyền
tròng trành, nghiêng ngửa trôi theo sóng gió. Thợ câu ra khỏi
khoang và bắt đầu thả câu. Mỗi người
dùng 1 đến 3 dây cước. Ở cuối mỗi
đầu sợi cước lại được buộc
vài ba nhánh cước nhỏ hơn có buộc lưỡi
câu. Nơi đầu mỗi lưỡi câu lại có gắn
một tụm chỉ polyesters pha kim tuyến màu sắc lấp
lánh giả làm mồi. Dây câu với mồi giả, lại
có gắn chì, thả sâu xuống lòng biển. Họ câu
được những con cá trắng, vàng nho nhỏ bằng
vài ngón tay. Có khi họ lôi lên được ba bốn con một
lúc. Hữu tò mò hỏi và được biết đây chỉ
là câu mồi. Vì những con cá nhỏ này sẽ được
cắt làm đôi làm mồi câu cá lớn sau này.
Thấy thế, Hữu nói đùa với thợ
câu:
- Cá nhỏ ngu thật, tham ăn đớp
càn mồi giả đầy màu sắc, đã mất mạng
mà còn hại những cá lớn về sau, nhưng nghĩ
cho cùng con người chưa phải đã khôn hơn bao
nhiêu.
Nói thế, vì Hữu đang nghĩ đến
biết bao người bị câu toàn bằng bánh vẽ, tin
lời tuyên truyền, hứa hẹn hão huyền. Họ bồng
bột, dù là trí thức hay ngu dân, cứ cuồng tín vào những
điều giả dối, học thuyết vô nghĩa, hoặc
không tưởng mà hy sinh uổng cả cuộc đời,
chẳng được gì, lại còn mang hại đến
cho cả nước. Hữu không giải thích gì thêm, tuy
nhiên ông già đầu bạc cũng hiểu được
ngay, liền nhìn Hữu, mỉm cười biểu lộ
ý tán đồng.
Long và Trí ngừng câu, ra sau lái, làm thịt
con vịt và con gà trống mang theo để sửa soạn
cho lễ cúng Bà Thần Biển. Mai say sóng, nằm vùi chẳng
giúp được gì. Đến chiều, nhang đèn, giấy
ngũ sắc, tiền mã, bông hoa, xôi, chuối, gà, vịt,
cơm, cháo được dọn ra phía trước gần
mũi thuyền. Ông già đầu bạc, cao niên trong
đám, quỳ xuống lâm râm cúng vái thủy thần phù hộ.
Nghi lễ trang trọng, nhưng không kéo dài được.
Ông khấn vừa xong, chưa kịp bái tạ, một
đợt sóng bổ mạnh, tung tóe nước lên thuyền,
nhang đèn đều tắt, gà vịt xôi cháo văng đổ
tứ tung. Mấy người phải thu lượm và chận
giữ cho khỏi vung vãi trong những đợt sóng kế
tiếp. Tiếp đó, bông hoa, nhang đèn, giấy tiền
đều vất xuống biển. Các thức ăn
được mang ra sau lái, soạn lại làm bữa
cơm chiều. Thịt gà vịt quá ít, mỗi người
vài gắp là hết sạch. Già Đầu Bạc cầm
hai chân gà lên đoán quẻ, lật qua lại và nói:
- Chuyến câu này sẽ khá, mỗi người
có phần chia.
Cả ngày hôm ấy gió lạnh, biển trời
u ám. Thỉnh thoảng có mưa nhỏ rải rác. Càng về
chiều gió Đông Bắc thổi mạnh hơn. Hữu
nhìn chung quanh, biển vắng hoàn toàn. Trong vòm tròn mênh mông trời
nước mịt mù, không một chiếc thuyền chài,
không một tàu bè nào được trông thấy. Chỉ mây
mù, sóng nước, với nỗi buồn vô hạn trong
lòng Hữu. Lát nhìn xa về chân trời Đông, Hữu thấy
một chiếc tàu hàng lớn, lờ mờ với hai dàn
trục, như hai thánh giá bên trên đang lướt sóng
đi về hướng Bắc. Ngoài ấy là đường
hàng hải quốc tế, là thế giới tự do của
mọi công dân. Còn nơi Hữu đây, vẫn là vùng quá nhiều
tự do chỉ riêng cho những kẻ cướp
được chính quyền.
Năm Lạc yêu cầu mở radio nghe. Hữu
hỏi các ông muốn mở đài nào. Một số yên lặng.
Một số nói, đây ngoài biển xa, chỉ có chúng mình,
cứ mở BBC hay VOA nghe chơi. Hữu cẩn thận:
- Các ông đòi mở. Vậy các ông có chắc
là không ai về tố cáo rằng thuyền đã nghe đài
phản động?
Có vài người nói:
- Cứ mở đi, tụi tui không ai báo
cáo đâu.
Hữu lo lắng từng chi tiết, vì
thuyền và người có thể bị Công An bắt bất
cứ lúc nào với một lý do rất vô cớ.
Ăn tối vừa xong, mỗi thợ câu
sửa soạn hai đường dây cước lớn.
Cá nhỏ câu được lúc chiều được cắt
đôi, móc vào lưỡi câu lớn thả xuống biển.
Đầu dây bên trên được cuốn vào một khúc
cây nhỏ hay một miếng ván nhỏ trước khi
được cột vào cọc trụ trên thuyền. Năm Lạc tắt máy tàu, lấy
dây buộc cứng tay lái không cho bánh lái đong đưa.
Xong mọi người tìm chỗ ngủ, rải rác từ
trong khoang máy và hai khoang phía trước. Hữu tuy không làm
gì nặng nhọc, nhưng thấy mệt mỏi và
xương cốt như rã rời vì sóng nhồi. Ba cái bình
điện ghép song song cũng không còn cung cấp ánh sáng nữa,
vì máy phát điện trong khoang máy bị nước biển
làm hỏng, không đem điện vào bình điện
được. Chiếc thuyền tăm tối như một
vật đen nổi trôi theo hướng gió. Sóng đập
vào mạn thuyền từng hồi, gây nên một tiếng "ành" hay "ạch" thật
lớn, làm nước tung tóe vào thuyền, như muốn
đập nát thuyền ra từng mảnh. Hữu lo lắng hỏi:
- Chúng ta đang làm gì đây? Sao lại tắt
máy? Sao không thả neo giữ thuyền lại? Để
sóng đập ngang hông thế này, thuyền sẽ lật
hay vỡ tan đi mất.
Năm Lạc không buồn trả lời.
Già Đầu Bạc nói nhỏ đủ để Hữu
nghe:
- Chúng ta đang bắt rạng.
Hữu chẳng hiểu bắt rạng là
nghĩa gì, nhưng thôi không hỏi nữa. Dần về
sau, Hữu hiểu rằng: Thuyền tắt máy để
trôi ngang theo sóng, với những đường dây câu thả
dò bên dưới, cũng như cái lược chải ngang. Nếu thuyền trôi ngang qua
một rặng núi đá ngầm hay vùng san hô, bên dưới
có địa thế che chở cho bầy cá ở. Cá sẽ
cắn câu, lôi dây câu, làm khua động khúc cây gài trên thuyền.
Thợ câu sẽ hay biết, thức dậy, thả neo dừng
thuyền lại và sẽ xúm nhau thả câu bắt cá. Rạng
do chữ Rặng (rặng núi đá ngầm). Nếu dò
được rạng, tức tìm được
được chỗ bầy cá ở.
Đêm 17 tháng Chạp âm lịch, nhưng biển
tăm tối vì mây mù, gió Đông lạnh lẽo, biển
sóng gồ ghề, từng đợt sóng cao vỗ mạnh
vào ngang mạn thuyền. Hữu thấy quá buồn bã và
đau khổ, không biết cả thuyền có sống sót
qua chuyến đi này không. Do liên tưởng, Hữu nhớ
đến bài thơ Ocean O'nox
(Đêm trùng dương) của Victor Hugo, lúc trẻ đã
đọc và đã xúc động nhiều. Hữu tự hỏi,
không biết thi hào này đã có từng đi biển, hay chỉ
tưởng tượng mà viết ra những lời
thơ bi thương thống thiết về thực cảnh
buồn thảm của những người đi biển
trong tăm tối cô đơn, chẳng trở về. Hữu
chẳng bao giờ nghĩ mình có thể thuộc vào những
cảnh huống như thế, mà giờ đây không những
chỉ đến với mình, mà còn xảy ra với cả
vợ con mình nữa. Một đợt sóng mạnh trong
đêm nay có thể lật thuyền hay làm ván thuyền long
ra, nước sẽ túa vào, thuyền sẽ chìm sâu vào lòng
biển. Chuyện kể tàu chìm Titanic và phim Con Tàu Vĩnh Biệt
Poséiden lại hiện ra trong tâm trí.
Sự chết mất tích ngoài biển khơi có thể
xảy đến trong bất cứ giây phút nào trong đêm
nay vì sóng gió quá mạnh.
Thấy Hữu lo sợ, Năm Lạc trấn
an:
- Không sao, trời sinh, trời dưỡng,
sống chết có số.
Châm điếu thuốc, lão buồn bã tiếp:
- Lúc tới số, nằm ngủ ở nhà
cũng ngủ luôn không dậy nữa mà. À, mà ước gì
tôi được vậy, cho mãn kiếp này.
Nghe Năm Lạc nói, Hữu hiểu rằng
lão đã quá đói khổ muốn chết, đâu có sợ
chìm, nên đã đặt thuyền vào hoàn cảnh hiểm
nguy này. Hữu cũng đã từng chứng kiến cảnh
người bà con vì gia đình đói rách phải tự treo
cổ chết. Nghèo khổ trở nên liều lĩnh và nói
những lời thất vọng là thường. Tên Năm
Lạc mà không có lạc. Lạc nghĩa là vui sướng
nhưng đây lại là buồn khổ, nổi trôi lưu
lạc. Tuy nhiên, trên cả thuyền không ai dám nói gì đến
thời cuộc một tiếng. Nhưng chính thời cuộc
lúc bấy giờ là nguyên nhân làm mọi người từ
nghèo đến đói khổ thêm hơn.
Hữu ra phía sau, nằm ngang trong khoang lái,
bên cạnh Mai. Mỗi đợt sóng đập ngang vào hông
thuyền, nước tung tóe, tạo nên một tiếng
động "ành" lớn, như thể đập thuyền
vỡ tung. Sau mỗi tiếng "ành", thấy thuyền chưa chìm, biết mình
còn sống, lại lo sợ những đợt sóng kế
tiếp. Quá mệt mỏi, một lát Hữu lại thiếp
đi trong giấc ngủ chập chờn. Không biết bấy
giờ Mai đang nghĩ gì. Hữu cũng chẳng nói gì với
Mai, vì sợ gây thêm sự lo sợ cho nhau. Hữu thấy
mình và Mai khi gần như đứng nghiêng, khi gần
như chổng đầu. Hữu đã lấy dây thừng
cuốn giữ mỗi cánh tay hai người vào thuyền
để phòng khỏi văng xuống biển. Hữu chuẩn
bị tinh thần đón nhận cái chết sẽ xảy
ra bất cứ giây phút nào trong đợt sóng kế đến.
Ngoài rủi ro lật thuyền, ván hở,
nước tràn, còn thêm việc tài-cải An, giờ này trong
khoang máy, cũng mệt nhiều, rủi ngủ mê không
thăm chừng để nước ngập khoang cũng
chết cả đám. Bình thường nước vẫn
rò theo trục chân vịt, phải luôn trông chừng, lo
bơm ra. Nhớ có lần, sáng thức dậy trong bến,
Hữu thấy thuyền lớn neo bên cạnh bị chìm vì
ngư phủ ngủ mê, để nước rò vào ngập
phòng máy, đến lúc hay ra thì đã muộn, phải nhảy
bơi lên bờ thoát thân. Đó là trong bến cảng, còn
đây giữa biển khơi, bốn bề vắng vẻ,
chỉ có một đường xuống đáy biển.
Đêm này là đêm dài, nguy nan nhất trong đời đối
với Hữu và vợ con. Mọi
người trong thuyền đều im lặng. Không hiểu
mỗi người có lo lắng, suy nghĩ gì, hay tất cả
đã quá mệt mỏi nằm ngủ bất tỉnh. Không
ai biết thuyền đã trôi dạt bao xa trong đêm ấy
hoặc lênh đênh giữa nơi nào trên lộ trình hàng hải
biển Đông. Chuyện rủi ro bị tàu lớn đi
ngang đụng vào cũng từng đã xảy ra cho một
vài ghe câu trên biển vào những năm về trước
mà Hữu đã nghe kể. Nhưng tất cả bao nhiêu hiểm
nguy vừa kể đều uổng công, vì suốt đêm
tuyệt nhiên không một con cá lớn nhỏ nào cắn câu.
Phước thay, đêm đông dài nguy hiểm
này rồi cũng qua. Hữu cũng không hiểu vì sóng to
chưa đến độ đủ lật thuyền,
hay nhờ phước đức ông bà và bề trên linh thiêng
che chở, hay nhờ cấu trúc của thuyền này, máy
diesel bằng sắt thép đặt nặng dưới
đáy, biến nó thành như một con lật đật
trẻ con chơi, dù xô đẩy thế nào nó vẫn lại
đứng lên, không lật. Trời sáng rõ, mọi người
thức giấc. An cho nổ
máy bơm nước trong khoang ra. Năm Lạc nhìn hải
bàn cho thuyền chạy về hướng Tây Bắc. Đến
12 giờ trưa, ngọn Côn Sơn đã hiện ra mờ
mờ nơi chân trời phía trước. Hữu đứng
cạnh bên, lén liếc nhìn hải bàn để xác định
vị trí của thuyền trên biển. Hữu không dám để
lộ cho Năm Lạc thấy sự quan tâm của mình về
phương hướng hay có ý học hỏi. Năm Lạc
ngừng thuyền cho mọi người thả câu. Cả
bọn chỉ bắt được vài chục con cá nhỏ,
chỉ đủ dùng cho một bữa ăn trưa. Sau
đó Năm Lạc hướng thuyền vào Côn Sơn
để sửa chửa máy phát điện và núp gió nghỉ
ngơi.
Trước kia, Hữu đã nghe tiếng
nhà tù Côn Lôn, nơi giam giữ, đày ải những kẻ
trọng tội. Từng thuộc thơ Vịnh Côn Lôn của
cụ Phan Chu Trinh và hát bài ca Côn Đảo của Đỗ
Nhuận, giờ đây Hữu mới có dịp ghé thuyền
vào danh đảo này. Côn Sơn là một quần đảo
nhỏ nằm cách Vũng Tàu hơn 200km về phía Bắc,
cách mũi Cà Mau khoảng 150km về phía Tây. Thời Pháp quần
đảo này được gọi là Poulo Condores hay Côn
Lôn. Thời VNCH gọi là Quận Côn Sơn. Ngay sau tháng 4
năm 1975, Cộng Sản liền đổi ra tỉnh Côn
Đảo. Côn Sơn gồm một nhóm đảo lớn
nhỏ nằm gần nhau như những quả núi, cây cối
xanh cao, sừng sững giữa biển:
Bài thơ 8 câu của cụ Phan Châu Trinh lúc
ở tù Côn Đảo, nay Hữu chỉ còn nhớ có 4
câu: .. .. ..
Cỏ hoa đá nẩy cây trăm thước,
Rồng cá trời mây biển một vùng.
Nước biếc, non xanh, thiêng chẳng nhẽ,
Gian nan xin hộ khách anh hùng.
Đảo chính lớn nhất là một ngọn
núi cao 1933 feet. (600m). Trên đỉnh phía Đông Nam có một
hải đăng. Đảo này có hình gần giống bánh
croissant, vịnh lõm về phía Đông và đó cũng là lối
thuyền vào. Vịnh này cạn đến nỗi thuyền
Hữu vào Côn Sơn lúc xế trưa phải ngừng đợi
đến chiều, nước triều lên mới cặp
được cầu tàu bê tông tại bến. Nước
tại cảng trong vắt, có thể nhìn thấy những
bầy cá nhỏ bơi dưới đáy. Thật là một
cảnh đẹp thiên nhiên, núi cao hùng vĩ và trời biển
trong lành. Hữu vào trạm Công An trình sổ thuyền và xin
dấu khán cho phép đậu bến để sửa chữa.
Trạm Công An giữ sổ thuyền lại và chỉ
đến một xưởng nhỏ gần đó. Nơi
đây là một căn nhà đen đủi và hầu
như trống không. Chỉ có một thanh niên túc trực. Cậu
ấy nói chỉ sửa chữa cho chính quyền mà thôi,
không nhận làm cho tư nhân. Hữu nài nỉ, nhỏ nhẹ
yêu cầu giúp đỡ đặc biệt và hứa trả
công xứng đáng. Cậu này xuống thuyền xem qua và
cho biết nước biển đã làm hư alternator (máy
phát điện), không sửa được. Cậu đề
nghị đổi một cái khác còn tốt, với giá 20
đồng CS giải phóng (tương đương
10,000 đồng VNCH cũ). Không biết từ đâu, cậu
lôi ra một cái alternator xe jeep đổi vào thuyền Hữu.
Viên Công An đến xét thuyền và truyền
lệnh không ai được lên bờ hay lại giếng
lấy nước uống. Hữu lại nài nỉ, xin
đến giếng cạnh đó tắm ít phút cho bớt
ngứa vì nước biển đầy người.
Điều Hữu ngạc nhiên là giếng đá ong này cạn,
nằm gần cầu tàu, cách mé nước biển chưa
đầy 5m, mà nước lại trong và ngọt mát
như nước mưa chứ không hề có vị lợ
chát như nước ở Vũng Tàu hay ở các vùng bờ
biển khác. Trên bãi cát gần đó có nhiều vỏ đồi
mồi thật lớn mà chẳng ai thèm thu nhặt. Nhiều
tù nhân còn ở lại đây. Mặt mày họ đen nám vì
nắng gió. Gặp một người tù cùng tắm ở
giếng, nói giọng Quảng Nam, Hữu hỏi:
- Quê hương đã đổi chủ,
sao anh chưa được về với gia đình?
Anh ấy đáp:
- Tôi tình nguyện ở lại đây vài
năm nữa để phục vụ cách mạng.
Hữu tự nghĩ: Ở tù mà sao gọi
là phục vụ, người đã vào tù, mà sao cũng dùng
chữ và vẫn nói cho ngon. Hỏi
tại sao bị đưa ra đây, anh ấy kể rằng
lúc trước đi địa phương quân, say rượu, sơ ý nổ súng
làm chết người.
Hữu tắm xong, ra dấu cho con trai là
Ngà và Hiển lẻn đến tắm vội và mang hai
thùng nước uống lên thuyền. Trở lại trạm
Công An để xin lại sổ thuyền và giấy tờ,
Hữu được bảo là ngày mai đồn trưởng
mới ký. Sẵn tiện Hữu xin phép đi vào chợ.
Viên Công An đồng ý và dặn không được đi
quá sau chợ và chỉ trong vòng nửa giờ. Trí lẻn
lên bờ theo Hữu. Trên đảo có vài ba con đường
nhỏ tráng nhựa với một ít nhà gạch trệt thấp,
lợp ngói rêu phong cũ kỹ, từ thời Pháp. Một
đường đi về phía Bắc ra phi đạo nhỏ.
Hữu để ý nhìn mà không thấy nhà lao chỗ nào. Theo
đường này, Hữu rẽ trái vào chợ. Thấy một
số bộ đội đang chơi bóng chuyền gần
đấy. Các bờ tường cũng được
sơn đỏ và vẽ các khẩu hiệu chữ vàng
như trong đất liền. Cờ đỏ sao vàng phất
phơ trên trụ cờ. Hình họ Hồ choàng áo, môi đỏ
như ăn trầu, Hữu nhìn có cảm giác rờn rợn,
ra ngoài biển xa vẫn còn gặp Bác. Chợ là một bãi
đất bằng, cỏ mọc thưa thớt. Không biết
chợ đông vào lúc nào, nhưng chiều hôm đó, Hữu
thấy chỉ vỏn vẹn có một người đàn
bà ngồi trên một cái kệ gỗ giữa trời, bày
bán vài gói thuốc điếu, vài cục xà phòng, một ống
aspirine, một trái mướp và hai bó rau. Trông quá nghèo nàn.
Ngoài ra không thấy có một quán xá gì khác. Sau chợ là một
khoảng rừng thấp, rồi tiếp đến núi cao
xanh thẳm. Hữu mua rau và mướp rồi trở về
thuyền.
Một chiếc trực thăng từ
đất liền bay ra, đáp xuống cầu tàu. Ba sĩ
quan Cộng Sản mang súng ngắn, quân hàm đỏ vàng
trên cổ áo, bước xuống đứng chỉ chỏ,
nói gì một lát rồi lại lên bay đi. Đời sống
ở Côn Sơn thầm lặng, quê mùa thiếu thốn
hơn ở thôn quê trong đất liền rất nhiều.
Hữu thấy trên đảo chẳng có mấy người,
mấy nhà cửa mà sao lại đặt là quận hay tỉnh
được. Như vậy quan sẽ phải nhiều
hơn dân. Khí hậu Côn Sơn ấm áp, mát mẻ rất
thích thú. Nơi này nếu được khai thác làm chốn
nghỉ hè, du lịch, hoặc giải trí thật là thích hợp
và lý tưởng.
Sau bữa cơm chiều trên thuyền,
trong cảng êm đềm với đám thợ câu, Hữu
lân la trò chuyện với mấy người trên thuyền
đậu bên cạnh. Hữu được biết thuyền
mang bảng số PQ (Phú Quốc) bên trái đã bị giữ
cả người lẫn thuyền tại đây hơn 6
tháng và bị dùng vào việc đi lại tiếp tế từ
đất liền. Chiếc kề bên phải mang bảng
số NT (Nha Trang) cũng đã bị giữ từ trước
và dùng đánh cá cho giới cầm quyền tỉnh Côn Đảo.
Hai chiếc này bị bắt cùng một lý do là đánh cá vi
phạm hải phận Côn Sơn. Còn chiếc thứ ba
trông cũ kỹ, mang bảng số CD (Côn Đảo) do
Công An tịch thu của tư nhân để tù nhân đánh
cá cho nhà tù. Hữu nghe nói cũng ớn sợ.
Tối hôm đó, thuyền Hữu
được ngủ một đêm dưới trăng mờ,
bình an bên cầu tàu hải đảo. Bình minh hôm sau, tiếng
kiểng vang lên trên đảo khiến mọi người
thức giấc. Thấy triều bắt đầu hạ,
Năm Lạc cho thuyền lui ra để khỏi mắc cạn
và chờ lấy sổ thuyền để rời cảng.
Trời chưa sáng hẳn, nhưng nhìn vào trong đảo,
Hữu thấy đông đảo tù nhân, hàng một nối
đuôi nhau, dụng cụ vác trên vai, đi về phía Nam vào
núi để bắt đầu một ngày làm việc. Côn
Sơn qua bao nhiêu đổi thay triều đại, vẫn
cứ là một nhà tù khổ sai lớn. Người đã
bị tù, nay ghe thuyền cũng bị đặt cớ
để bị giam giữ, làm khổ dịch không công,
không biết ngày mãn hạn.
Sau 8 giờ sáng, đồn Công An mở cửa,
Long chèo phao vào bờ, xin lại sổ thuyền và các giấy
tờ cá nhân. Sổ thuyền được đóng dấu
ký tên, cho phép đánh cá cách Côn Sơn 20 hải lý. Hữu mừng
rỡ vì nếu mấy ông Công An hứng chí, kiếm cớ
giữ thuyền và người ở lại đây làm việc
như mấy thuyền kia, chắc đời tàn trên biển
cả.
Thuyền di chuyển về Đông Nam, trời
mây mù, gió lạnh, từng lớp sóng bổ bạc đầu.
Đến trưa, thuyền ngừng cho đám ngư phủ
buông câu, nhưng cả buổi không bắt được
con cá nào đáng kể. Nhiều đợt sóng tung tóe nước
lên thuyền làm Hữu thấy rét lạnh
trở lại. Bây giờ Hữu mới
để ý thấy ông già Đầu Bạc, bên ngoài mặc
một bộ quần áo bằng vải poncho nhà binh cũ,
nên vẫn ngồi câu tự nhiên. Ngà và Hiển lại say
sóng nằm biệt trong khoang, sau khi đã ói khá nhiều. Bọn
thợ câu chỉ bắt được năm ba con cá nhỏ.
Sau đó cả bọn tụ tập sau lái
để ăn trưa. Nồi cơm và xoong cá được
ôm chặt cho khỏi
lật đổ. Mai ngồi gần lò nấu bên hông thuyền,
đang bới cơm. Một cơn sóng bổ ào, khiến ấm
nước đang sôi nhảy văng vào người làm
nàng phỏng cả tay chân và vài chỗ. Hữu tạm dùng dầu
ăn đem theo bôi vào các chỗ phỏng.
Chiều đến, Hữu bảo Năm
Lạc đem thuyền vào cạnh các đảo nhỏ Côn
Sơn núp gió vì biết đang lúc sóng cả gió to này, chính
quyền trên Côn Sơn không có phương tiện tuần
tra quanh đảo. Thuyền buông neo ở gần bờ Tây
Nam của một đảo nhỏ. Vách bờ đảo
màu đỏ gạch thẳng đứng cao cả chục
mét. Hữu nghĩ nếu thuyền chìm ở đây cũng
không ai có thể bám leo vào đảo được. Điều
lạ, theo như địa chất học, hiện tượng
xâm thực hay xoi mòn (corrosion) của gió, nước, sóng và
thủy triều đã làm thay đổi mọi địa
hình trên địa cầu rất hiển nhiên và dễ nhìn
thấy. Nhưng trái lại ở đây, Hữu không hiểu
tại sao một hòn đảo nhỏ đất đỏ,
bên trên có cây cối mọc đầy, vách bờ lại dựng
thẳng đứng, chịu bao gió thổi, sóng vỗ liên
tục, thủy triều lên xuống, hải lưu chảy
mạnh triền miên, hằng bao triệu năm mà vẫn
không thấy dấu vết bị xoi mòn, trài xuống hay sụp
đổ. Thuyền núp chỗ này chỉ câu được
vài cá nhỏ và một con mực nang lớn. Qua đêm, thuyền
được đảo che gió, tương đối dễ
chịu.
Chuyến câu này kể như thất bại. Sáng hôm sau An đề nghị
đưa thuyền đến sở cá thu. Hữu nghĩ
bụng, chỗ nào cũng biển mênh mông như nhau mà sao lại
có sở cá thu. Năm Lạc yên lặng đưa thuyền
về phía Tây Bắc, cách Côn Sơn khoảng 20km. Lão nhìn vào
hải bàn, nhìn đỉnh Côn Sơn ngưng máy và ra lệnh
thả neo. Đám ngư phủ lại cắt cá nhỏ làm
mồi và bắt đầu câu. Vừa buông dây câu xuống
thì cá giựt, thợ câu lôi lên, một hay hai con cá lớn
màu đỏ, mỗi con nặng có thể 5-7 kg, bề ngang
to bằng bàn tay xòe. Cá vừa lôi lên khỏi mặt nước
có màu sắc thắm tươi đẹp đẽ, kêu lẹt
khẹt, dẫy dụa. Thợ câu dùng một khúc tre nhọn
đâm sâu vào miệng cá xoay một cái, lấy lưỡi
câu ra và liệng cá vào khoang có chứa nước đá. Cứ
thế mà câu, bắt cá lên liên tục trong mấy giờ liền.
Vì dây neo cột ở mũi thuyền, nên mũi
chong vào hướng sóng gió, khiến thuyền nhấp nhô
theo chiều dài. Ngồi trên đó, Hữu có cảm giác
như đang lái xe hơi qua một con đường dốc,
lên lên, xuống xuống. Dễ chịu và đỡ nguy hiểm
hơn để sóng bổ ngang hông như đêm thả
thuyền tự trôi nghiêng ngã theo gió sóng. Ngồi sau lái, nhìn
ra, Hữu thấy những đợt sóng đùn lên dưới
đáy thuyền và chạy lan ra về phía Tây Nam. Thỉnh
thoảng gặp một con cá đuối màu đen mắc
câu, dẫy dụa khá mạnh, kéo tới thả lui một
lúc, rồi tuột câu đi mất. Có lúc lôi cá gần đến,
thợ câu phải dùng móc sắt nhọn, móc vào cá, mới
lôi được cá lên thuyền.
Đến một lúc, không thấy cá cắn
câu nữa, mọi người nghỉ ăn trưa, rồi
tiếp tục câu lai rai. Có lúc cá ăn liền liền, vừa
thả câu xuống là bắt được cá ngay. Có khi bằng
một đường dây chính, thợ câu có thể lôi lên một
lúc ba bốn con cá bự. Trông rất ham. Có lúc lâu lắm mới
được một hai con.
Ngồi câu bên cạnh ông già đầu bạc,
những lúc cá chậm ăn, Hữu mới rù rì gợi chuyện,
hỏi thăm nhau. Nhờ đó Hữu được biết
ông quê ở Bình Định, đã từng đi lính sang Pháp
tham dự Thế Chiến Thứ Hai. Sau 1945, theo lời kêu
gọi của Hồ Chí Minh, ông trở về quê tham gia bộ
đội, làm đến Tiểu Đoàn Trưởng,
đã từng đánh đồn Komplong, Mang Đăng và
các trận mạc ở Tây Nguyên. Ông bị sa thải vì
không vào đảng và lại hay nói thẳng, đã phát biểu
lạc điệu trong việc lập nghĩa trang liệt
sĩ. Cấp trên bảo chỉ cần làm có hình thức,
chỉ đắp đất làm mộ giả thôi, không cần
phải mang xác bộ đội tử trận vào chôn thật.
Thấy việc giả dối, nên ông phát biểu không thích
hợp nên bị nhiều rắc rối và sa thải. Qua thời
Đệ Nhất Cộng Hòa, đạo Công Giáo được
phát triển mạnh. Chính quyền địa phương
hội họp dân chúng để lôi kéo thêm đạo hữu,
ông lại không theo đạo, còn phát biểu móc họng, hỏi
khó mấy cha cố, như hỏi Linh Mục trẻ tuổi
sao lại bảo người già cả gọi là cha, trái với
đạo lý thường tình Đông Á. Nên ông bị nghi là
Cộng Sản nằm vùng và bị Quận Trưởng
quê ông bắt bỏ tù. Qua thời Đệ Nhị Cộng
Hòa, được thả ra, ông đem gia quyến vào
Saigon, chạy xích lô máy. Đêm nọ, ông chở một
người đàn bà khá giả từ Phú Lâm vào Saigon, bà này
đã bị hai tên cướp đi xe gắn máy theo dõi.
Đến đường vắng, chúng chận xe tấn
công giật tư trang. Ông dùng
võ Bình Định đánh chúng và bắt được một
tên giao cảnh sát. Sau đó
cướp tìm ông trả thù.
Đêm đó ông bị bệnh, một người bạn
lại chạy xe ông, bị đám du đãng vây đánh lầm,
chém bị thương gần chết tại Ngã Tư Bảy
Hiền. Tiếp sau đó, một hôm ông chở một cô
bán bar trên xa lộ Biên Hòa, vì đau bụng, ông ngừng xe
đi tiện, để xe tạm đậu bên lề. Cô
gái ngồi chờ một mình. Chẳng may bị một
quân xa Mỹ lủi vào đụng nát xe, cô gái chết. Từ
đó ông giải nghệ xích lô, theo người bạn ra Vũng
Tàu học làm ngư phủ.
Đầu ông bạc
trắng, nên người ta quen gọi ông là Năm Đầu
Bạc. Giờ ông đã biết sợ, chẳng còn dám phát
biểu linh tinh nữa, chỉ biết lắc đầu
trước thời cuộc. Lão buồn bã than với Hữu
rằng:
- Đời
người chẳng bao lâu, mà ông đã phải chịu
đến hai lần nghịch cảnh non sông.
Qua chuyện trò, Hữu cũng được
biết tài công Năm Lạc thời cũ cũng đã
đi bộ đội Việt Minh và bây giờ cũng chẳng
còn liên hệ gì. Long là lính địa phương quân quốc
gia cũ. Trí là cựu cảnh sát Quốc Gia mới đi cải
tạo về, ốm yếu vì thiếu ăn. Một mình núp trong khoang, lén ăn
hết cả 2 buồng chuối mốc lớn dự trữ
làm thức tráng miệng cho mọi người, nên bị gọi
chế diễu là Đạo Chuối. Mường và
Được đều gốc Nghệ Tĩnh, cộc cằn
và giọng nói nặng khó nghe. Trước 1975 đã móc nối
hoạt động cho Việt Cộng, nay thấy không
được quyền lợi hay chức vụ gì thiết
thực mà còn thấy đời sống khốn khổ
hơn, lòng hăng hái của hai người gần như
đã nguội lạnh.
Một chiếc thuyền khác từ hướng
Bắc mới vào, thấy thuyền Hữu đang câu có cá,
nên neo lại cách hơn trăm thước và buông câu. Nhìn
sang, Hữu thấy họ câu được nhiều cá
xanh và trắng, khác với thuyền Hữu được
nhiều cá hồng đỏ.
Gió cuối tháng Chạp thổi theo chiều
Đông Bắc đến Tây Nam khá mạnh và giòng nước
biển tây Côn Sơn cũng chảy theo chiều này khá
nhanh. Hữu thử ném một miếng củi vụn, thấy
củi ấy trôi nhanh như đang trôi trên một giòng sông
chảy siết. Già Đầu Bạc kể rằng có lần
thuyền ông câu bị hỏng máy, trôi tận Mã Lai và
được bên ấy giúp sửa chữa để trở
về. Kiểm nghiệm với sức gió và giòng nước
biển quan sát được, Hữu thấy điều
này có thể là sự thật. Đêm đó, thuyền có
đèn từ bình điện nên cả bọn câu đến
khuya mới đi nghỉ. Đêm đó sóng cũng khá lớn,
nhưng thuyền được neo, sóng không bổ ngang
hông, nên đỡ sợ. Chỉ hơi lo An mệt quá, ngủ
mê quên bơm nước ra mà thôi.
Ngày hôm sau, cả thuyền dậy sớm
câu tiếp, cá hết ăn thì ngừng. Thành ra lúc câu lúc nghỉ,
mãi đến 5 giờ chiều. Những chỗ phỏng
trên tay chân Mai bọng nước phồng to. Mai nhức nhối
rên rỉ, bôi thêm dầu ăn lên cũng chẳng công hiệu
gì.
Bầu trời thêm u ám, sóng mạnh hơn.
Đài phát thanh Giải Phóng Việt Cộng từ Sàigon loan
tin Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh bàn giao cho
Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng, rồi loan báo thời tiết,
gió cấp 5 cấp 6, biển động đến động
mạnh. Sau 6 ngày say sóng ói mửa,
Hữu thấy cả hàm răng mình lung lay, như có thể
lấy tay nhổ ra từng cái. Nếu ở lâu thêm,
răng cũng có thể tự rụng ra. Chuyến câu này
đối với Hữu là quá mệt rồi. Hữu chỉ
trông về, nhưng không dám nói ra, vì sợ đám ngư phủ
quy trách nhiệm cho mình về kết quả nhiều ít và
có thể tố là mình không thực sự làm biển, hay có
ý định học kinh nghiệm để vượt biển.
Lời tố cáo của họ còn đáng sợ hơn trùng
dương sóng cả. Theo đó thuyền có thể bị
tịch thu và người bị bắt giam vô hạn định
như đã từng bị (Lúc trước đó, Hữu bị
bắt hụt nên ở bên ngoài chạy chọt, thuyền
và người đều được thả ra với
điều kiện).
Bỗng Long và Trí cũng thấm mệt
đòi về. Hữu nghe mừng
như chết đi sống lại. Năm Lạc cũng
đồng ý và nói:
- Ngày mai 23 tháng Chạp sẽ có gió lớn
tiễn ông Táo về trời, cũng là ngày gió Ba Càng.
Hữu hỏi Ba Càng là gió gì. Năm Lạc
giải thích:
- Gió này đánh chìm thuyền của bạn
lão tên Ba Càng đêm này mấy năm trước.
Tất cả đều đồng ý ra về.
Trời về chiều, thuyền nhổ
neo. Ngư phủ Được nhảy lên nắm tay lái,
mở tốc lực nhắm hướng Bắc, ngược
chiều sóng gió mà chạy, nước biển tung tóe vào
thuyền. Thấy thuyền Hữu ra về, chiếc thuyền
câu gần đó cũng nhổ neo chạy theo, nhưng hai
thuyền không hề liên lạc hay có ý tương trợ lẫn
nhau trong trường hợp trục trặc kỹ thuật.
Trên đường về, Hữu nhìn thấy 3 pháo hạm
màu xám, giờ thuộc Hải Quân Việt Cộng đang nối
nhau di chuyển ngược chiều, xa mờ về phía
Tây.
Quá nửa đêm, Hữu đã bắt
đầu nhìn thấy ánh đèn từ hải đăng
núi Vũng Tàu chớp tắt nơi chân trời phía Bắc.
Ngoài Được đang nắm tay lái, tất cả
đều ngủ vùi, la liệt trong khoang.
Trời chưa sáng, thuyền đã về
đến Vũng Tàu .. Đêm tháng Chạp, trời gió lạnh,
nhóm Công An Biên Phòng trên trạm nổi Bến Đá đóng
kín cửa ngủ yên. Được, ỷ mình có gốc Việt
Cộng, bỏ qua thủ tục trình vào, chạy thẳng
vào bến, buông neo. Hữu muốn ngủ thêm, nhưng không
được. Bến Đá đã bắt đầu náo
nhiệt. Những chiếc dã tôm nổ máy ồn ào, lần
lượt chạy ra trạm Công An trình giấy để
rời bến cho một ngày làm việc mới.
Trời sáng rõ, kiểm điểm số
cá câu được, nếu đem cân bán cho Hợp Tác Xã,
may ra cũng đủ thâu lại số tiền đã bỏ
ra mua thực phẩm và dầu nhớt. Theo thông lệ, Hữu
có thể bán hết, trừ chi phí, rồi mới chia tiền
cho thợ câu. Nếu làm đúng như thế, tất cả
thợ câu, không ai sẽ còn có gì. Tết nhất đến
nơi, cả đám họ đều nghèo quá. Họ
đâm ra liều mạng mà xúm nhau đi câu khơi, khi mùa
còn biển động. Hữu nghĩ, nếu làm để
kiếm tiền, một chuyến đi như vậy dù kiếm
cả chục triệu, Hữu cũng không làm vì rất dễ
bỏ mạng, dù có bình an trở về, cân não cũng suy giảm
nhiều. Hữu thấy những con cá đó thật vô giá,
không thể so sánh với tiền bạc được,
nên không muốn bán để đổi ra tiền. Hữu
nghĩ thương những ngư phủ này vô cùng, chẳng
có lòng nào để họ về tay không. Vợ con họ
đang chờ đợi một cái gì để ăn Tết.
Hữu quyết định đem tất cả số cá
đếm chia phần cho mọi người. Riêng tài công và tài cải đều
được thêm nửa phần. Cả gia đình Hữu
cũng chỉ lấy một phần đem về cho những
người có liên hệ ơn nghĩa với chiếc thuyền
và bà con ở Sàigòn. Hữu đưa Mai về Sàigòn chửa
những vết phỏng.
Chuyến đi câu khơi này là một cuộc
khảo sát và tập luyện sự chịu đựng. Hữu
đã học được nhiều điều về biển
cả: sóng gió, hải lưu, phương hướng, khả
năng của chiếc thuyền và sự tuần hành của
Hải Quân Cộng Sản. Hữu biết thêm về mức
độ ba hoa, bố láo, hù dọa của người bà
con cán bộ Cộng Sản. Nhờ chuyến đi này, Hữu
đã câu được con cá lớn nhất, đó chính là "Ông già Đầu Bạc". Trong chuyện thần tiên cổ tích,
người nhân đức hiền lương, lúc lâm vào
đường cùng tuyệt vọng, thường
được tiên ông phù phép cứu nạn. Đời thực
không có tiên ông, Hữu đã nhờ ông già Đầu Bạc
đóng vai tiên ông. Với đủ tín cẩn và khả
năng, ba tháng sau, già Đầu Bạc lái chiếc đò
nhỏ, có mui che, đã chở (taxi) từ Sàigòn ra biển,
gồm 2 người lớn, 2 cậu nhỏ canh me và đủ
8 bé gái, tuổi cách đều nhau từ thôi nôi đến
15 tuổi, giao cho Hữu giữa biển cả trong đêm
tối. Bốc xong, thuyền
Hữu đã đưa tất cả 18 người lớn
bé thẳng đường qua Singapore rồi Nam
Dương, ghé cảng Jakarta, tìm vào một quê hương
êm đẹp mới. Ác mộng đã tàn qua. Phải
chăng có định mệnh hay phù hợp vô tình: Thuyền
mang bảng có số 18 lại chở đúng 18 người.
Già Đầu Bạc đã quay về trong đêm, mênh mông trời
biển, thời gian trôi nhanh, vật đổi sao dời,
đời người phôi pha, ngàn năm không tái ngộ, Hữu
thương nhớ ông nầy mãi không nguôi.
NHẬT QUANG PHI HỒ