Thơ Nguyễn Bính viết ở Huế
(HỒNG DIỆU)
Vâng. Thơ của nhà thơ
Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có
thơ viết về Huế và thơ viết về những
nơi khác.
Tôi chưa được biết,
lâu nay, trên sách báo ở Huế và các địa phương
từ bắc đến nam đă có ai đề cập
chuyện này chưa. Nếu chưa th́ thật tiếc, và
tôi sẽ là người đầu tiên được làm
việc này. C̣n nếu đă có ai viết rồi th́ tôi vẫn
cứ viết, v́ như thế chứng tỏ chúng tôi
đă đồng cảm, đă tâm đắc về cùng một
hiện tượng, và chắc chắn là chúng tôi viết
khác nhau.
Cho đến nay, không có tư
liệu nào cho biết thật đích xác Nguyễn Bính
đă đến Huế mấy lần.Theo một số
nhà văn kể lại, và căn cứ vào năm tháng ghi
dưới một số bài thơ, th́ thấy Nguyễn
Bính có thể mới đến Huế một lần, vào
cuối năm 1941 và ở đó đến năm 1942. Nguyễn
Bính từ Hà Nội đến đây cùng hai nhà văn Tô
Hoài và Vũ Trọng Can. Sau đó, Tô Hoài trở về Hà Nội,
Vũ Trọng Can viết thư mời nhà thơ Yến
Lan đến Huế diễn kịch với ông và Nguyễn
Bính.
Nhà văn Tô Hoài kể:
"Quăng những năm 1940 (đúng ra phải viết những
năm 40- H.D), đói rách cả rồi, ở lại Hà Nội
ăn bám anh em măi không c̣n được, đành phải kéo
nhau đi kiếm ăn nơi xa xôi. Lúc đầu đi ba
người: Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can và tôi .. Ghé xuống
Thanh Hóa trước tiên .. Vào Huế cũng sống vật
vờ như ở Thanh .. Chúng tôi ở yên chùa Trúc Lâm( Huế)
có đến hàng tháng". Nhà thơ Yến Lan th́ viết:
"Một hôm tôi nhận được thư của Vũ
Trọng Can .. Thư này viết từ Huế .. Tôi đến
Huế vào khoảng hơn 8 giờ tối. Cả "ban kịch"
đều ra đón, gồm có Nguyễn Bính, Vũ Trọng
Can và một chàng thanh niên .. Nguyễn Bính tả và kể ra
những em Đào, em Lư, cô Mừng, cô Thương với
khá nhiều thiếu nữ, thiếu phụ mà anh gặp và
quen trên các nẻo đường phố của Huế
..".
C̣n những tháng năm Nguyễn
Bính ghi dưới các bài thơ viết ở Huế là 1941,
8-1941, 29-9-1941, tháng Chạp năm Ngọ (1942). Như vậy
có thể Nguyễn Bính ở Huế đến hơn một
năm. Không biết trong thời gian đó ông có đi
nơi nào, rồi trở lại, hay là liên tục ở Huế.
Dẫu sao, có điều chắc là Nguyễn Bính ở Huế
khá lâu, lâu đến có lúc ông phải than thở, trong bài Giời
mưa ở Huế:
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi
đây!
Và, nếu tôi không lầm, trong
những ngày sống ở Huế ấy, Nguyễn Bính
đă viết mười ba bài thơ, gửi đăng
các báo, về sau in trong tập Mười hai bến nước
(1942) mười hai bài (trừ bài Oan nghiệt), cùng với
hai bài viết ở nơi khác nữa.
Không biết, có phải người
nhận định sớm nhất đối với những
bài thơ viết về Huế là nhà phê b́nh Hoài Thanh (và Hoài
Chân) không? Trong quyển Thi nhân Việt (1932- 1941), Hoài Thanh viết:
"Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế?
Ai chẳng thấy thế? Nhưng sao h́nh ảnh Huế
trong thi ca lại tầm thường thế? Có lẽ cảnh
Huế quá huyền diệu, quá mơ màng không biết tả
thế nào cho thoát sáo. Cũng có lẽ ngắm cảnh Huế,
người ta khó tránh được cái buồn vơ vẩn,
nó là khí vị riêng của xứ này và ḷng người ta
không đủ thản nhiên để ghi lấy h́nh sắc
riêng của mỗi vật. Kể có ít câu của Thu Hồng
và hai câu này của Quỳnh Dao cũng được:
Một
hôm tôn nữ cười trong nón
Sông
mở ḷng ra đón bóng yêu.
Nhưng tả cảnh Huế
chưa ai bằng Trân .. lần thứ nhất những vẻ
đẹp xứ này được diễn ra thơ".
Đoạn văn trên, Hoài
Thanh viết vào tháng 10-1941, lúc ấy ông chưa đọc
những bài thơ viết về Huế của Nguyễn
Bính. Nếu đă đọc, tôi tin là ông sẽ viết
khác.
Ấn tượng từ những
bài thơ viết về Huế của Nguyễn Bính cho tôi
thấy: "h́nh ảnh Huế trong thi ca" không hề
"tầm thường", không hề "sáo" một
tí nào, và chưa nhà thơ nào có nhiều thơ viết về
Huế hay và hiện đại như Nguyễn Bính, cho dù
đó là cái hay mà tâm trạng buồn đóng vai tṛ chủ
đạo.
Thật vậy. Nếu như
yếu tố cơ bản của thơ là t́nh cảm, và
t́nh cảm ấy phải đi được từ trái
tim nhà thơ đến trái tim người đọc, th́
thơ viết về Huế và không chỉ riêng thơ viết
về Huế của Nguyễn Bính đă làm được
như vậy. Đành rằng thơ tả cảnh Huế
của Nam Trân chẳng hạn, cũng như thơ tả
cảnh thôn quê Bắc Bộ của Đoàn Văn Cừ,
Anh Thơ, Bàng Bá Lân chẳng hạn, có cái hay riêng của nó,
nhưng nếu như những cảnh ấy được
gắn bó chặt chẽ, hài ḥa với t́nh, th́ cái hay của
thơ sẽ tăng lên nhiều lắm. Cùng nh́n cầu
Trường Tiền, nhà thơ Nam Trân viết:
Ba nhịp cầu Trường Tiền
Đứng dày người hóng mát
Ngọn gió Thuận An lên
Áo quần kêu sột soạt
Những câu thơ thuần túy
tả (hay kể).
C̣n Nguyễn Bính th́:
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ
Đôi bờ đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất t́nh.
Viết như thế, phải
nói là độc đáo, cảnh và t́nh đă ḥa vào nhau, và
người viết phải có một óc tưởng tượng
kỳ lạ mới thấy được cây cầu
như chiếc lược (cong), mới thấy được
hai bờ sông như đôi cánh tay (vua), và mới thấy
được ḍng sông như mái tóc dài của người
con gái (cung nữ) đang nằm úp mặt!
Ḍng sông Hương c̣n hấp
dẫn Nguyễn Bính nhiều lần nữa. Có khi, nhà
thơ gọi nó là Một con sông lạnh (tên một bài
thơ), mà cái đêm trên sông uống rượu nghe đàn ấy
là một đêm buồn, buồn đến năo ruột:
Đêm tàn chẳng có chiêm bao
Đêm tàn có mấy cḥm sao cũng tàn
Chén sầu đổ ướt tràng giang
Canh gà bên nớ giằng sang bên này.
Lại có khi, dưới con mắt
nhà thơ, sông Hương ch́m trong một không gian đen tối,
ảm đạm:
Suốt giời không một điểm sao
Suốt giời mực ở nơi nào loang
ra
Ḍng sông ấy có Con đ̣ không
chở những người chính chuyên và Lửa đ̣ chong
cái trăng hoa đúng là một "đặc điểm"
của sông Hương thời bấy giờ (và không chỉ
riêng thời bấy giờ)
Đọc đoạn thơ
này, vốn ở đầu bài Một chiều say, về
sau Nguyễn Bính tách ra để nhập với mấy
đoạn khác thành bài Vài nét Huế:
Ở đây có nước sông Hương
Có cây núi Ngự, có đường Nam Giao
Bồng bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh
Thâm u một dải hoàng thành
Đ́nh suông con én không đành bay đi ..
ta thấy có thể nói về
hai điều. Một là, thơ viết về một
địa phương đă ghi được một ít
địa danh tiêu biểu của địa phương ấy,
làm cho những người chưa từng đến đấy
cũng nhớ được (mà thơ th́ rất dễ nhớ),
ấy là sông Hương, núi Ngự, đường Nam
Giao, cầu Trường Tiền sáu nhịp (nhà thơ Nam
Trân coi như ba nhịp). Hai là, cái buồn ở đây,
trong tâm trạng của nhà thơ, đă đi đến tận
chỗ sâu thẳm, từ cảnh vật: mọi nơi
đều có màu xanh (của cây cối) nhưng là thứ
màu xanh vô hồn mà bóng mát của nó rất thờ ơ,
không dành cho ai cả, hoàng thành th́ vắng lặng, con chim én
đậu trong cái đ́nh trống như sợ nếu ḿnh
bay mất th́ sự sống ở đây không c̣n nữa, nên
cảm cảnh mà không đành bay đi.
Cùng với cảnh Huế là
người Huế. Nếu ở thơ Nam Trân, ta thấy
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo chiếc Thuyền nan
đủng đỉnh sau hàng phượng, hay người
bán quà: Hai tay xách hai vịm - Một vài mụ le te - Tiếng
non rao lảnh lói - Chốc chốc: "Ai ăn chè?" ..
th́ thơ Nguyễn Bính có:
Những nàng thiếu nữ sông Hương
Da thơm là phấn, môi hường là son
Tựu trường, san sát chân thon
Lao xao nón mới màu sơn sáng ngời
Gió thu cứ măi trêu ngươi
Đôi thân áo mỏng tơi bời bay lên
Dịu dàng đôi ngón tay tiên
Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường
Nguyễn Bính c̣n có bài thơ
Xóm Ngự Viên mà ở đó sự hoài cổ lại trở
về với những đức vua, hoàng hậu và công
chúa, với những cung tần, mỹ nữ và quan trạng,
như là một ám ảnh vốn thấy rất rơ trong nhiều
bài thơ của ông. Sự ám ảnh rơ đến mức
trở thành một đặc điểm nghệ thuật
của thơ Nguyễn Bính nhất là lúc này (lúc tác giả
viết bài thơ) cái nơi cổ kính ấy không c̣n chút dấu
tích ǵ của một thời được coi là êm đẹp,
yên ả, thanh b́nh và sang trọng - cho dù nhà thơ đă cẩn
thận đặt một nghi vấn: "Có phải ngày
xưa vườn Ngự Uyển - Là đây? "..
Nhưng, sẽ là một thiếu
sót lớn, nếu nói đến thơ Nguyễn Bính viết
về Huế mà không nói đến thơ viết về
mưa. Người viết những ḍng này đă có dịp
chứng kiến một trận mưa mịt mù, dai dẳng
ở đây. Và đặc trưng của mưa Huế
đă là một "thi liệu" cho bao nhiêu thi sĩ. Mấy
chục năm trước, Tố Hữu có hai câu vào loại
hay nhất trong những câu thơ viết về mưa Huế:
Nỗi niềm chi rứa, Huế ơi
Mà mưa xối xả, trắng trời Thừa
Thiên
(Bốn cặp phụ âm
đi liền nhau ở câu thứ hai mang một cái ǵ xót xa,
day dứt, nhức nhối, xuất phát từ nỗi nhớ
nhung da diết của một người con nh́n về quê
mẹ). Trước Tố Hữu mấy chục năm,
Nam Trân cũng có thơ về mưa Huế. Có lần, Nam
Trân than thở: Đă quá nửa tháng rồi- Mà mưa,
mưa chẳng dứt.
Với Nguyễn Bính, hơn ai
hết, ở Huế, cơn mưa của thiên nhiên thấm
sâu vào tâm hồn con người. Nhà thơ kêu: "Mấy
tuần ṛng ră gió mưa!" và nghe rơ tiếng "Mưa
rào rào, gió ào ào" và buồn lây với những cô cậu
Học sinh mấy buổi đi về
Quần cao nón thấp ê chề gió mưa!
Đặc sắc của Nguyễn
Bính về thơ mưa ở xứ này tập trung trong bài
Giời mưa ở Huế, mà hai câu như một điệp
khúc lặp lại ở đầu mỗi đoạn trong
bài làm người ta nghĩ đến Huế là phải
đọc:
Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày!
Trong Giời mưa ở Huế,
Nguyễn Bính tả mưa qua những h́nh tượng mạnh,
có những sáng tạo nghệ thuật thật lạ:
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây
Tràng Tiền vắng ngắt người qua
lại
Đập Đá mênh mang bến nước
đầy
Đ̣ vắng khách chơi nằm bát úp
Thu về lại giở gió heo may ..
Rồi cái buồn của cảnh
mưa làm nhà thơ nghĩ đến cái nghèo của ḿnh và
của bạn ḿnh đang ở Huế:
Túi rỗng, nợ nần hơn Chúa Chổm
Áo quần trộm mượn, túng đồ
thay
và nghĩ đến người
thân đang ở ngoài bắc, nghĩ đến những
người đă gặp, những nơi đă qua trên
đường tha hương - toàn những chuyện không
có ǵ là vui! Giời mưa ở Huế là một trong những
bài thơ buồn nhất của Nguyễn Bính!
Xứ Huế c̣n tạo nguồn
cảm hứng để Nguyễn Bính có ba bài thơ không
viết về cảnh và người Huế mà viết về
cảnh và người những nơi khác. Đó là Oan nghiệt
(1941), Hoa với rượu (8- 1941) và Xuân tha hương
(1942) đều là những bài thơ hay.
Với giọng "độc
thoại nội tâm", trong Oan nghiệt, nhà thơ nhớ
về con gái ḿnh vừa được sinh ra sau những
ngày dan díu với một kỹ nữ, và sự lo lắng
khi nghĩ đến nông nỗi con ḿnh khó thoát khỏi
bước đường đời người mẹ
đă và đang trải. Lời thơ thật xót xa, đau
đớn. Có những câu chua xót, đọc qua khó mà quên
được:
Rồi có một đêm màn rủ thấp
Ngă vào tay một khách làng chơi
Em có nghĩ rằng trong hắt hủi
Con ḿnh trằn trọc cánh tay ai?
Em có nghĩ rằng trong quán trọ
Đầu tôi lại gối cánh tay tôi?
Hai câu nhà thơ khuyên con gái:
Nhất kiêng đừng lấy chồng
thi sĩ
Nghèo lắm con ơi, bạc lắm
con!
làm ta bỗng nhớ nỗi buồn
chung của văn nhân thi sĩ một thời.
(Tản Đà: Cuộc trần thế kiếm
ăn chẳng dễ - Rẻ rúng thay là nghệ làm văn!. Tú Mỡ: Nghề thơ chẳng đủ nuôi thi sĩ. Xuân Diệu: Nỗi đời cơ cực
đang giơ vuốt - Cơm áo không đùa với khách
thơ) ..
Hoa với rượu là một
câu chuyện t́nh duyên với bao kỷ niệm êm đềm,
thơ mộng của đôi bạn trẻ ngày trước,
rồi bỗng nhiên cách xa, lỡ dở được hồi
tưởng lại trong sự buồn bă, tiếc nuối
..
C̣n Xuân tha hương thuộc
loại "thơ một vần", ở đây là
trăm câu một vần. Tôi đă có lần nhận xét:
h́nh như ở ta xưa nay chưa ai có biệt tài làm
thơ nhiều câu một vần như Nguyễn Bính. Ở
Xuân tha hương, lại sử dụng thủ pháp nghệ
thuật ấy, nhà thơ gửi tấm ḷng ḿnh về
người chị ở quê xa, vừa "thương chị
từ khi đi lấy chồng" vừa buồn cho cảnh
phiêu dạt, phải đón xuân nơi xứ người
trong cảnh:
Thiên hạ đua nhau mà sắm tết
Riêng ḿnh em vẫn cứ tay không
Bài thơ có những câu mà nhiều
văn nhân, thi sĩ có thể vận vào ḿnh, v́ đă
được viết ra từ kinh nghiệm của một
người từng trải:
Ai bảo mắc vào duyên bút mực,
Suốt đời mang lấy số
long đong!
Người ta đi kiếm giàu
sang cả,
Ḿnh chỉ mơ toàn chuyện viển
vông! ..
Có thể nói, cái buồn của
một thi sĩ nghèo, tha hương, cộng với cái buồn
mà xứ Huế êm đềm, thơ mộng rất dễ
tạo cho người ta, đă làm nên một loạt bài
thơ đặc sắc của Nguyễn Bính. Nói một
cách khác, xứ Huế đă làm hay thêm thơ Nguyễn Bính,
và ngược lại, thơ Nguyễn Bính đă tôn lên cái ư
vị, cái đặc điểm của riêng xứ Huế.
Hăy tưởng tượng, nếu
không có những bài như vậy - cho dù đă trừ đi
những chỗ này chỗ khác c̣n bất cập - thơ
Nguyễn Bính nói riêng và thơ Việt hiện đại
nói chung sẽ mất đi bao nhiêu là hương sắc?
Hồng Diệu
(ThanhVanTN
sưu tầm, T. Lam chuyển)