CUỐI
NĂM,
MỘT
ĐỜI,
MỘT
NGƯỜI
..
Ngày cuối
năm, đọc lại những bài thơ trong đời.
Hình như, có bước chân trở về quá khứ. Ở
đó, thấy lại mình ngày nào. Từ một cậu bé học
trò nhiều mơ mộng bắt đầu làm quen với
chữ nghĩa đến một người đã qua tuổi
sáu mươi và phần nào hiểu được những
ngọt bùi chua chát trong đời. Ở một chỗ nào
đó, thơ như cánh tay lôi kéo về. Thơ như của
một mình, trầm trầm trong óc nhớ.
Có một
người đã viết:
Cuối năm ngồi
uống từng sợi gió
Từ thiên thu hiu hắt
thổi về
Sóng mãi trong tâm hoài
điệu vỗ
Ngàn năm thao thiết
tiếng còi xe
Giục giã đêm còi
tàu tiếng thét
Sống như quá
vãng nỗi mênh mang
Kiếp lưu lạc
thế thân mỏi mệt
Bãi biển xưa còn
dấu dã tràng
Cuối năm ngồi
một mình đối bóng
Tận thâm tâm tìm lại
niềm vui
Sao vắng lạnh
đành hanh thực mộng
Mộng vá trời
thôi cũng đầu môi
Nắng lam biếc rạng
ngoài khung cửa
Sao trắng không dĩ
vãng kiếp người
Đâu cổ tích
trăng treo vó ngựa
Khẽ nhếch môi,
một tiếng cả cười ..
Những câu
thơ nghe như có chút gì nỗi niềm ẩn khuất. Ở
đời sống này, dòng đời cứ qua đi vội
vã. Ngày tiếp ngày, tháng tới tháng, năm tròn năm, những
góc cạnh như tròn đi trong mòn mỏi. Thuở nhỏ,
đọc vài trang sách, có ai mà không mơ mộng, có ai mà
không nghĩ đến mộng vá trời để rồi
cũng chỉ ở đầu môi ..
Rồi những
bài thơ cuối năm, những câu thơ như rền rỉ
trong đầu. Có một chút hững hờ của một
nỗi bâng khuâng, thơ như nỗi niềm mở ra những
xúc cảm của một người hay vơ vẩn với
những chuyện cuối trời góc biển:
Cuối năm, ừ
một mình độc ẩm
Chỉ một chai
cho đỏ mặt mày
Nghe chân ai đi về
rất chậm
Rất hững hờ
những ngọn heo may
Đêm trừ tịch
vắt tay lên trán
Tìm lại ta một
chút vấn vương
Ta ở đâu
đông ngạn, tây ngạn
Trong ấm êm sao ngỡ
dặm trường
Chữ và nghĩa sao
còn u uẩn
Thơ chắp câu
dang dở trong đầu
Có phải trời
đất đang địa chấn
Đỉnh cô phong mù
mịt ngàn lau
Câu thơ người
xưa còn trên đá
Sao lòng người
như chiếc lá bay
Hịch thiên thu nặng
như muôn tạ
Sao cuộc đời
cuộn những áng mây?
Mỗi
năm, sau lễ Giáng sinh và đầu năm dương lịch,
thời tiết lành lạnh như nhắc nhở trong tâm một
nỗi niềm nào. Ngày tết cổ truyền tới, lại
thêm một tuổi, để thấy cuộc sống qua
cho một tuổi già sắp tới. Có những bài thơ ấp
ủ trong đầu, có hơi ấm của ngày ấu
thơ quây quần trong ván tam cúc bên cạnh bếp lửa hồng
của nồi nấu bánh chưng thuở nào. Có những bữa
cúng tất niên, cả gia đình xum họp nhưng cũng
có lúc bơ vơ một mình đón giao thừa trong nỗi
buồn da diết. Đời sống thăng trầm trong
một đất nước chiến tranh in hằn trong
tâm thức.Đi học, đi lính, đi tù, đi vượt
biên, bao nhiêu chữ đi là bấy nhiêu trùng trùng kỷ niệm.
Ở Sài Gòn, ở Pleiku, ở Phước Long hay ở
Orange County, cuộc đời cứ trôi đi, có lúc là những
cơn sóng ngả nghiêng nhưng cũng có lúc là con nước
xuôi dòng thầm thỉ. Nếu viết được những
trang nhật ký, giữa một buổi chiều cuối
năm hiu hắt quê người, thì có lẽ tấm lòng sẽ
nhẹ nhàng hơn vì những gánh nặng miệt mài từ
dĩ vãng ..
Thời gian
đi qua thật nhanh. Thấm thoát, một đời
người, nối tiếp nhau, năm tiếp năm,
tháng tiếp tháng. Không ngờ, tôi đã ở đây tới
ba mươi năm, và trải qua ba mươi cái tết.
Làm sao quên
được cái tết đầu tiên ở xứ
người, đi chùa đêm giao thừa để nhớ
lại cái tết vừa qua ở Sài gòn, đang lang thang
trên một cửa sông ở Vĩnh Châu đúng đêm giao thừa
để lên ghe nhỏ ra ghe lớn cho một chuyến
vượt biển bất thành. Cái dư vị của
đời sống Việt Nam còn đọng lại trong cảm
giác để thấy cuộc đời mình đi qua một
thời kỳ khác và sẽ phải phấn đấu
hơn nữa để hòa nhập vào cuộc sống mới
ở đây. Lúc ấy, vừa hơn ba mươi, mà sao
nghe mình già cỗi lạ. Nhưng, tất cả vẫn là
những hoài vọng và tin tưởng rằng cái giá của
nhũng ngày tháng dồn tâm lực cho một chuyến
đi không uổng phí. Sẽ đi vào cuộc với bàn tay
trắng với quyết tâm xây dựng một cuộc sống
thoải mái tự do ..
Sống ở
nơi có đông người Việt nên những cái Tết
đầy đủ hương vị quê hương. Bánh
trái kẹo mứt ê hề, ở đây, cả người
giàu lẫn người nghèo đều thừa sức bày
biện vật thực cho những ngày xuân sung túc. Về vật
chất thì như vậy, nhưng sao trong lòng, hình như mọi
người thấy thiếu thiếu một điều
gì. Không biết, có phải là niềm giao cảm từ
đất trời, khi chúng ta phải rời bỏ quê
hương.
Đi lễ
chùa xứ người, sao vẫn nhớ buổi lễ
chùa Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi. Đêm giao thừa làm sao quên
đi lễ Lăng Ông, dập dìu nam thanh nữ tú. Ghé chợ
hoa Bolsa, lại nhớ đến rừng hoa đường
Nguyễn Huệ ngày nào với hương vị trái quất
vặt trộm còn thơm mùi tinh nghịch thuở thanh xuân.
Làm sao quên, kỷ niệm cũ. Nhớ nhung mãi, những
bóng dáng xưa. Thời tiết lạnh lạnh buổi cuối
đông lại càng làm tăng thêm niềm hoài vọng. Hồ
mã tê bắc phong. Ở đây, không phải gió bấc mà sao
lòng trống trải. Ngày đầu năm, là dịp nhìn lại
những cái tết trong đời ..
Phần
đông những ngày mồng một tết ở xứ
người, buồi sáng mù sương đi làm trên xa lộ,
mọi ngày như mọi ngày, tưởng nhớ đến
cái tết quê nhà. Một thời gian đã qua, biết bao
nhiêu là kỷ niệm .. Năm nay, tết nguyên đán vào cuối
tuần nên ngày tết cũng còn chút ý vị.nhưng, cái hững
hờ làm sao ấy cứ lẩn quẩn trong tin trong óc. Cứ
mãi nghĩ về ngày xưa, những ngày ở quê nhà ..
Khi đi
lính, mấy năm ở Pleiku là mấy cái tết xa nhà. Chiều
ba mươi, lái xe đi quanh mấy con phố vắng
người vì mọi gia đình đều lo cúng kiếng
buổi giao thừa, thấy tự nhiên trong lòng một chút
gì trống vắng. Nhìn vào những bàn thờ hương
khói nghi ngút ở các nhà ngoài phố, thấy nhớ nhà, nhớ
gia đình tha thiết. Những bài hát đón xuân, lại
càng làm sâu đậm thêm nỗi buồn. Em, bây giờ ở
xa, có còn nghĩ ngợi nhớ nhung gì anh, bây giờ?
..
Có năm biệt
phái Quảng Đức, có năm biệt phái Ban Mê Thuột,
ở đâu thì cũng là tết xa nhà. Cả biệt đội
xúm nhau nhậu nhẹt say khướt để qua những
ngày đầu năm. Nhiều khi đi biệt phái còn vui
hơn là ở đơn vị. Dẫu sao, cũng có nhiều
người chia sẻ chung cái nỗi cô đơn của một
mùa xuân xa xứ.
Có một
người lính trẻ làm thơ. Thơ của đêm ba
mươi tết buồn ở Pleiku năm 1972. những
câu thơ đã cũ hơn ba chục năm:
Cuối năm thắp
ngọn hỏa châu
Soi ai đôi mắt vợi
sầu chốn xa
Uống đi,
năm tận vèo qua
Trong ngụm đắng,
thấy vỡ òa nỗi riêng
Tấc gươm
còn nhớ tuổi tên
Mộng cung kiếm
thấy lãng quên tháng ngày
Không gian có hẹp tầm
tay?
Trên đỉnh núi cuộn
tầng mây chập chùng
Cầm súng bắn
vào không trung
Men nào cho hả tận
cùng nỗi ta?
Hướng nào mù mịt
quê nhà
Con chim núi, nẻo
quyên ca bạc lòng ..
Sau năm
1975, là một cuộc đổi đời. Nước mất,
Cộng quân vào Sài gòn, chúng tôi trở thành bại quân. Nhà tan,
cả gia đình tôi di tản. Mình tôi kẹt lại, để
vào tù với từ ngữ khá hiền hòa "đi học
tập cải tạo". Nhưng mọi người
đều ngầm hiểu, chẳng có học tập gì cả,
mà chỉ là một biện pháp trả thù của những
người chiến thắng. Tù còn có án, còn có thời gian ấn
định để trở về. Còn cải tạo thì,
một cách rất co dãn, hiểu sao thì hiểu, tốt thì
được về. Mà tốt được định
nghĩa ra sao, thì, chưa có ai có quyền lực để
nói ra cả ..
Năm 1978,
đã đến thời hạn ba năm. Tưởng là sẽ
được trở về. Ngờ đâu hy vọng ấy
vỡ tan như bọt xà bông. Tết năm ấy, là một
cái tết đáng nhớ của đời cải tạo
..
Trại tôi,
một số khá lớn những người tù đã
được về. Số còn lại ở trong những
lán trại hồi trước đông đảo nay khá trống
trải. Giai đoạn này sửa soạn chuyển giao từ
bộ đội sang công an nên những công việc lao động
cũng chiếu lệ. Nhưng, tinh thần những
người tù thì vô cùng bi quan. Cái tương lai tù mút mùa lệ
thủy dường như ám ảnh mọi người.
Những người bạn tù, mới ngày nào còn nằm sắp
lớp bên cạnh nhau, bây giờ, sạp nằm rộng
rãi. Những người được về là những
kẻ may mắn còn những người ở lại, chờ
đợi một ngày về trong cái lo lắng của những
án tù không thời hạn cho mình ..
Cộng Sản
là bậc thầy của nghề coi tù. Mềm nắn, rắn
buông, lúc cương lúc nhu, khi thì hăm dọa, khi thì vuốt
ve, người tù hoàn toàn bị khống chế và mọi sức
phản kháng đều bị chế ngự một cách có
kỹ thuật. Nhiều khi những tin đồn xuất
phát từ quản giáo có lúc như những biện pháp
răn đe, có lúc như những xoa dịu những
căng thẳng. Và, biện pháp chuyển trại thường
xuyên, để mọi người tù khó cấu kết với
nhau. Thời gian nhẹ nhàng xoa dịu như vậy chỉ
thật ngắn, rồi đâu lại vào đó. Lại lao
động cực nhọc, lại kỷ luật sắt,
lại biệt giam ..
Thời gian ấy
là cuối năm 1978, khoảng từ ngày giáng sinh đến
tết nguyên đán ở trại Phước Long, tỉnh
Sông Bé. Những "ăng-ten", thấy hãm hại báo cáo
anh em cũng không được về sớm hơn họ
nên cũng ngại ngần trong công tác chó săn và hoạt
động ít đi thấy rõ. Anh em cải tạo dễ
thở hơn. Ban ngày thì lao động lè phè, quản giáo và
vệ binh còn phải sửa soạn để ra biên giới
Việt Miên đang có lộn xộn. Buổi tối, tụ
họp nhau lại hát nhạc vàng, thậm chí có khi còn pha vào
nhạc chính huấn hồi trước, mà chẳng thấy
động tịnh gì. Lúc trước, như thế là có
chuyện lớn ngay ..
Đã bao
nhiêu năm qua, tôi vẫn còn nhớ đêm giao thừa
năm 1978 ở Phước Long. Một đêm mà những
người tù cảm thấy gần gũi với nhau
hơn và chia sẻ với nhau những khốn khó sẽ tới.
Cùng linh cảm với nhau rằng ngày về vô định
và khi công an thay bộ đội làm quản giáo thì chắc
chắn cuộc sống tù đầy sẽ khắc nghiệt
khó khăn hơn.
Sau bữa
cơm chiều cuối năm, cũng có chút thịt, có chút
thức ăn, có cơm trắng .. nhưng sao ai cũng dàu
dàu nét mặt. Trời núi rừng tối sớm nên cái lạnh
lẽo càng tăng thêm độ buốt giá của nỗi
buồn bã.
Giờ này, ở
nhà, chắc có nhiều người vợ ngóng chồng, con
mong cha. Bây giờ ở đây, mịt mù tương lai, ai
mà chẳng cám cảnh phân vân. Ngày tết là ngày của xum họp.
Thân tội tù, biết lúc nào trở về gặp được
vợ con, gia đình ..
Nhưng có một
số bạn trẻ, phần đông xuất thân từ
trường Võ Bị Đà Lạt, thì lại không để
nỗi buồn tràn ngập. Họ hô hào góp thức ăn thức
uống để tổ chức một đêm giao thừa
chung cho mọi người. Và hình như mọi người
trong đội đều hưởng ứng. Một bàn
thờ được bầy ra, cũng có đèn nến,
bánh mứt. Dù đơn sơ, nhưng ấm cúng. Dẫu
sao, cũng có những người bên cạnh nhau để
không có những giọt lệ gạt thầm, không có những
tiếng thở dài khoắc khoải trong đêm trừ tịch.
Những tiếng
hát, bắt đầu là những bản nhạc ngoại
quốc mà anh em ngụy trang gọi là nhạc Liên Xô để
che mắt quản giáo. Nhưng về sau, dần dần tâm
tình được mở ngỏ và mọi người một
lúc quên đi cái nghiệt ngã của tù đầy để
tiếng nhạc chuyên chở được ý tình của
những người luôn hy vọng. Những bài tình ca những
nốt nhạc vui là khúc dạo đầu.
Có lúc nhạc
buồn bã, đầy nhớ thương. Có lúc, nhạc là
lời tha thiết của trái tim trao gửi. Có anh bạn
đã hát bằng cả tấm lòng bài "Xuân này con không về"
của Trịnh Lâm Ngân. Sao lại có ngôn ngữ thích hợp
đến thế. Dù tình cảnh hồi trước là của
anh lính chiến phải xa nhà vì nhiệm vụ, nhưng lúc
này, tưởng như trận chiến vẫn còn. Những
người tù, hát với nhau cảm khái:
"Nếu
con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo
không người sửa sang, khu vườn thiếu hoa vàng
mừng xuân. Bầy trẻ thơ ngây chờ mong anh trai sẽ
đem về cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe xóm giềng
.."
Có một bản
nhạc "Nước mắt cho Saigòn" thực ra là của
Nguyễn Đình Toàn nhưng lúc ấy chúng tôi đồn là
của nhạc sĩ Phạm Duy từ ngoại quốc gửi
nỗi niềm về. Những thân yêu trao gửi cho một
thành phố tràn đầy kỷ niệm. Tin đồn tuy
thất thiệt nhưng lúc đó cũng hâm nóng cho vơi
những nỗi niềm. Và, cũng thật là say sưa, những
nốt nhạc và ngôn ngữ ấy:
"Saigòn ơi!
Đến những ngày ôi hè phố xôn xao
Trong niềm vui tiếng
hỏi câu chào sáng đời tươi thắm vạn sắc
màu.
Còn gì đâu! Ai đã
xa nhớ hàng me già
Thu công viên hoa vàng
tượng đá
Saigòn ơi! Đâu những
ngày mưa buồn khoác áo đi
Tay cầm tay nói nhỏ
câu gì
Những quầy hoa
quán nhạc đêm về còn rộn ràng giọng hát Khánh Ly
.."
Bây giờ
nghe lại bài hát này, cũng như nghe lại nhạc Trịnh
Lâm Ngân "Xuân này con không về", đã mấy chục
năm qua mà sao vẫn nghe trong lòng gợn lên những giây
rưng rưng cảm xúc.
Tôi nhớ
chúng tôi có hát những bài nhạc Chính Huấn thuở nào
trong đêm giao thừa ấy. Nào "Cờ bay cờ bay
trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng
máu .." hay "Trên đầu súng quê hương tổ quốc
đã vươn mình, trên lưỡi lê căm hờn hờn
căm như triều sóng, ôi bao la thăm thẳm bát ngát
cánh đồng vàng với lũy tre xanh và tiếng ê a đầu
làng là kinh nguyện cầu cho người nằm xuống
.." hoặc "Giặc từ Bắc vô đây bàn tay vấy
máu anh em, giặc từ Bắc vô đây bàn tay vấy máu
đồng bào ..". Những câu hát mới đầu chỉ
là lời thầm sau có lúc cất lên không ngờ.
Với những
nhạc cụ thô sơ tự chế, mà căn bản là
cây guitare mà cần đàn, thùng đàn, phím đàn, đều
là những vật dụng vứt đi được
săn nhặt để tạo thành.cả đến giây
đàn cũng là những sợi kim loại được
tước ra từng những sợi giây điện hoặc
giây cable nhưng lại chính xác âm độ đến mức
không thể mơ ước gì hơn. Những chàng nhạc
sĩ ấy, trong cái đam mê âm nhạc và cũng là một
cách thế tâm sự với mình, với bạn bè cuối
năm trong những nốt nhạc đã làm quên đi đời
tù tội u ám không có ngày mai. Nhạc buồn của đời
sống hiện hữu nhưng hình như có một điều
gì phả vào lời thơ câu nhạc. Có một chút phẫn
hận thương thân nhưng cũng có một chút ngang
tàng không khuất phục.
Chúng tôi mới
đầu một người hát, sau mọi người
như truyền nhau cái say sưa thành những bản hợp
ca hào hùng mà có lúc chúng tôi tưởng như ngày nào, thuở
còn hàng ngũ.
Có một
người làm thơ đã viết về đêm giao thừa
ấy. Một bài thơ mà tác giả của nó trong một
phút cảm hứng đã viết ra rồi chỉ phổ
biến cho một vài người bạn rồi cố gắng
chôn chặt vào trí nhớ.
Đêm ba mươi
sao chập chùng tiếng hát
Bè bạn ta ơi gió
nổi lên rồi
Còn tấc lửa hãy
nhen thêm đôi mắt
Đường ta
đi vằng vặc ánh mặt trời
Đêm ba mươi
hát bài ca chính huấn
Một thuở nào
gươm súng đã ngang tàng
Bão cát trăng treo bụi
lầm chiến trận
Giờ ngậm ngùi
niềm tủi hận mênh mang
Núi rừng khuya có
nghe lời thiên cổ
Ai hát bài xuân đến
chẳng trở về
Mẹ hiền
ơi, biết bao giờ hội ngộ
Đêm giao thừa nhớ
lại bếp chiều quê ..
Đã gần
ba chục năm qua, trong tâm tư của tôi vẫn luôn luôn
nhớ đến ngày cuối năm ấy. Dù đời sống
có lúc buồn, lúc vui, lúc thăng trầm, lúc hào hứng,
nhưng những giây phút ấy không thể nào quên trong đời
người. Tôi biết, những bạn tù của tôi ở
những trại giam ngoài Bắc còn bị khổ sở
đầy ải gấp trăm lần hơn cũng
như những thời hạn giam giữ thăm thẳm
dài hơn. Nhưng với tôi, buổi tất niên cùng những
bài hát cũng đã là một hằn vết không phai trong
trong cuộc đời của tôi.
TÁC GIẢ ???
(Chế Huôn sưu
tầm
và chuyển)