MÓN QUÀ ĐẦU XUÂN
(Trần thị Lai Hồng
dịch)
Tượng
Ông Hoàng Hạnh Phúc dựng trên một bệ đá cao nhìn
xuống thủ đô. Pho
tượng dát bằng vàng lá, đôi mắt là hai hạt
lam ngọc long lanh mầu đại dương, và chuôi kiếm
chói sáng một viên hồng ngọc lớn bằng ngón tay
cái.
Ai đi ngang
qua cũng dừng bước ngắm nghía trầm trồ
khen ngợi vẻ cao sang lộng lẫy của tượng,
nhưng cũng không thiếu gì người nghĩ sự
cao sang lộng lẫy đó chẳng thiết thực chút
nào giữa xã hội loài người đầy đau khổ. Tuy nhiên, nụ cười tươi
trên gương mặt sáng láng chan hòa hạnh phúc của pho
tượng cũng đã nhiều lần an ủi
được một số người bất hạnh. Một chàng thất nghiệp lang
thang đứng ngắm pho tượng, thốt lên:
- A! ít ra ở đời cũng còn
có ông là người hạnh phúc.
Dù ông là đá vô tri, ta cũng cảm có niềm an ủi
vì có người đã được hạnh phúc.
Một
đêm, có chú én nhỏ bay vào thủ đô. Bầy di điểu bạn
đã bay xa về miền Nam từ sáu tuần trước
để tìm nắng ấm.
Con én nhỏ lạc đàn ở lại, lo lắng tìm
chỗ ẩn náu qua đêm lạnh, hi vọng phố
phường còn chỗ ẩn thân.
Lướt qua khu công viên, con én nhỏ thấy pho
tượng Ông Hoàng Hạnh Phúc đứng trên bệ cao của
ngọn đồi nhỏ. Én
reo lên, đáp xuống, nép mình dưới chân tượng,
nhìn quanh:
- Mình lại có chỗ ngủ dát
toàn vàng nữa chứ! Và thu
mình sửa soạn giấc ngủ.
Mới dấu
chiếc đầu nho nhỏ xinh xinh xuống dưới
cánh, én giật mình vì một giọt nước lớn
rơi bộp trên người.
Én thốt lên:
- Ô hay!
Kỳ chưa! Trời chẳng
có mây, bao nhiêu là sao sáng thế kia mà lại có mưa! Khí hậu
Bắc Âu này thật kỳ cục!
Một giọt
nước lớn nữa lại rơi bộp trên lưng
chim. Én cằn nhằn:
- Pho tượng này chẳng che
mưa được. Mình phải
tìm một mái ống khói để nương náu qua đêm
vậy.
Vừa cằn
nhằn, én vừa nhún mình tính tung cánh thì một giọt
nước lớn thứ ba lại rơi bộp trên
lưng. Én ngẩng nhìn.
Ô hay! Đôi mắt mầu lam của
pho tượng đầm đìa đẫm lệ. Giòng lệ chảy dài xuống
đôi má bằng vàng, long lanh dưới ánh trăng. Khuôn mặt pho tượng đẹp
tuyệt vời làm én cảm thương xúc động.
- Ngài là ai?
Ngài làm tôi ướt hết mình mẩy lông cánh nè!
- Ta là Ông Hoàng Hạnh Phúc.
Những giọt
nước mắt lóng lánh vẫn chảy dài trên đôi má
vàng. Én lặng nghe pho tượng
kể lể:
- Khi ta còn sống và có trái tim của
con người, ta chẳng hề biết nước mắt
là gì. Ta sống trong Điện
Vô Ưu, nơi đó Buồn Phiền không hề được
bén mảng. Ngày ta vui chơi ca
hát đàn địch với đám cung tần mỹ nữ
trong vườn Thượng Uyển. Đêm tưng bừng khiêu vũ
và dự dạ yến trong Tòa Đại Sảnh. Vườn Thượng Uyển
có tường cao hào sâu bao bọc, và ta chẳng bao giờ
thèm tìm hiểu xem có những gì bên kia tường. Quanh ta hồi đó, mọi thứ
đều huy hoàng lộng lẫy.
Quần thần tôn ta là Ông Hoàng Hạnh Phúc. Quả thật vậy, nếu nói
rằng những lạc thú ở đời là hạnh
phúc. Ta đã sống như thế
và chết như thế, trong lạc thú hạnh phúc. Sau khi ta chết, họ tạc
tượng và đem dựng nơi đây, trên bệ
đá cao ngất đỉnh đồi này. Từ đỉnh cao, ta đã nhìn
thấy tất cả những cảnh khốn khổ bần
cùng. Trái tim ta được
đúc bằng chì, nhưng ta vẫn có được cảm
xúc. Ta cảm thương loài
người đắm chìm trong khổ ải, nhưng ta chẳng
thể làm gì khác hơn ngoài những dòng nước mắt
khóc thương cho nhân loại.
Én thắc mắc,
ngạc nhiên, nhưng không dám tò mò, chỉ tự nhủ:
- Ủa, vậy ra ông ta chẳng phải
được đúc bằng vàng khối!
Pho tượng
vẫn tiếp giọng trầm buồn:
- Tít xa kia, phía con đường nhỏ
tít xa kia, có một căn nhà tồi tàn. Cửa sổ ngỏ nên ta có thể
nhìn thấy một người đàn bà với khuôn mặt
héo hon tàn tạ, hai bàn tay sần sùi đỏ ửng đầy
vết kim đâm. Bà làm nghề
thợ may kiêm thợ thêu. Bà
đang thêu những đóa Phù dung trên tấm áo dạ hội
cho nàng cung nữ thân cận nhất của Hoàng hậu,
để mặc trong dạ vũ sắp mở trong triều. Trong góc phòng, đứa con trai nhỏ
của bà nằm liệt giường. Thằng bé sốt nặng và thèm
ăn cam. Mẹ nó chẳng còn
đồng xu nào nên đành cho con uống nước lạnh. Én! Hỡi
chú én nhỏ! Én hãy giúp ta gỡ
viên hồng ngọc ở chuôi kiếm mang cho bà thợ
may. Chân ta bị gắn chặt
vào bệ đá này chẳng chúc nhích được. Én hãy đi dùm ta!
Con én nhỏ
ngập ngừng:
- Bầy của tôi đang đợi
ở Ai Cập. Các bạn tôi
đang bay lượn nhởn nhơ trên sông Nile, chuyện
trò cùng những đóa sen thơm ngát. Họ sẽ bay về ngủ
trong mộ Đại đế ..
Ông Hoàng Hạnh
Phúc van nài:
- Én! Hỡi
chú én nhỏ! Én hãy ở lại
cùng ta đêm nay và giúp ta! Thằng
bé khát cháy cổ họng và mẹ nó đau đớn xót xa
quá chừng!
Con chim nhỏ
trả lời:
- Tôi chẳng ưa lũ trẻ tí
nào! Mùa hè rồi tôi đang kiếm
ăn ngoài bờ sông thì bị hai thằng nhỏ ác ôn ném
đá tới tấp. Chúng
đời nào ném trúng tôi được, vì chim én vốn nổi
tiếng bay nhanh, và tôi lại xuất thân từ một gia
đình nổi tiếng là thần tốc nhất. Nhưng sau vụ ném đá đó
tôi chẳng ưa gì lũ trẻ, nhất là lũ con
trai ..
Pho tượng
lộ vẻ thất vọng, buồn bã đến nỗi
én thấy thương cảm
không cầm lòng được:
- Ở đây lạnh lắm. Nhưng được rồi,
tôi sẽ ở lại cùng ngài đêm nay và giúp ngài.
- Cảm ơn én!
Con én nhẹ
nhàng gỡ viên hồng ngọc ở chuôi kiếm và bay vút
lên những mái nhà san sát của thủ đô. Én bay ngang ngôi tháp thánh đường,
nơi có những vị thiên thần bằng đá trắng
chạm trổ tinh vi trên bờ tường. Én liệng ngang hoàng cung và nghe tiếng
nhạc dìu dặt vọng lên.
Một thiếu nữ lộng lẫy bước ra bao lơn cùng người
tình. Chàng thì thầm tán tỉnh:
- Công nương ơi! Đêm nay tất cả những
vì sao trên trời đều long lanh tuyệt vời,
nhưng đôi mắt công nương là hai vì sao đẹp
nhất! Ôi! Tình yêu thật là huyền diệu!
Thiếu nữ
thì rất thực tế:
- Em mong bà thợ thêu xong chiếc áo
để kịp mặc dự dạ hội. Em bảo bà ta thêu hoa Phù dung trên tà
áo, nhưng coi bộ bà ta lười biếng quá ..
Én bay ngang qua
dòng sông và thấy những ngọn đèn lồng giăng mắc
trên mấy cột buồm. Qua
khu thương mại, thấy đám thương gia còn bận
bịu buôn bán, mặc cả mè nheo, cân cân đo đo hàng
hóa. Sau cùng, én đến
căn nhà nhỏ tồi tàn và nhìn qua khung cửa sổ mở
ngỏ. Thằng bé vẫn vật
vã trên giường trong cơn sốt, và bà mẹ mệt mỏi
ngủ gà ngủ gật trên tấm áo dạ hội thêu dang
dở. Én bay vụt vào nhà, nhẹ
nhàng buông viên hồng ngọc lên bàn, cạnh chiếc đê
khâu. Én êm ả lướt
quanh giường thằng bé, dùng cánh quạt nhẹ trên
trán nó. Thằng bé kêu khẽ:
- Mát quá!
Mẹ ơi! Mát quá! Con thấy khỏe rồi!
Nói xong, thằng
bé mỉm cười nhắm mắt ngủ ngon lành.
Con én nhỏ
bay trở về thuật lại cho pho tượng những
điều vừa làm. Kể
xong, én thổ lộ:
- Kỳ thật! Bây giờ tôi lại thấy ấm
áp mặc dầu trời vẫn lạnh căm!
Ông Hoàng dịu
dàng:
- Vì ngươi vừa làm được
một việc thiện.
Én trầm
ngâm nghĩ ngợi. Nhưng
cơn buồn ngủ đã kéo đến đè nặng mi
mắt.
Sáng hôm sau, én
bay xuống sông tắm. Một
giáo sư chuyên về điểu học đang dạo bộ
qua cầu trông thấy cảnh tượng đó bèn thốt
lên:
- Một
con én trong mùa Đông!
Khi về
trường, ông hăng hái viết một bài khảo luận
dài về hiện tượng én tắm mát mùa Đông và
đưa đăng trên tờ báo địa phương,
nhưng bài báo cao siêu chẳng ai hiểu nổi.
Trong khi
đó, sau khi đùa vui với bọt nước, én cao hứng
liệng vòng trên không. Vừa
bay, én vừa tự nhủ:
- Đêm nay mình lên đường
đi Ai Cập. Phải rời
vùng lạnh giá này trước khi băng tuyết phủ
đầy. Mình phải xuôi Nam
sớm để tìm nắng ấm.
Nghĩ đến
nắng ấm chan hòa miền Nam, én chợt thấy bừng
bừng phấn khởi và nẩy ý tưởng bay đi
thăm thú những vùng chung quanh.
Én liệng qua những đài tưởng niệm tôn
nghiêm, những tòa cung điện nguy nga, rồi đáp xuống
đỉnh cao chót vót tháp chuông giáo đường, phóng tầm
mắt chim bao quát thủ đô.
Bay đến đâu én cũng gặp lũ chim sẻ
ríu rít chào hỏi và tỏ ý ngạc nhiên thấy mùa Đông
đã gần kề mà én còn lưu luyến cảnh cũ
chưa chịu xa rời vùng đất lạnh.
Đêm về. Vầng trăng lạnh nhô lên trên
nền trời xám. Én bay trở
lại chỗ pho tượng, ân cần hỏi:
- Ngài có việc gì cần giao tôi làm ở
Ai Cập không? Tôi sắp ra
đi đây.
- Én! Én! Hỡi chú én nhỏ! Én hãy ở lại cùng ta một
đêm nay nữa và giúp ta!
- Bầy bạn tôi đang đợi
ở Ai Cập. Ngày mai các bạn
tôi sẽ bay lên vùng thác lớn, nơi dòng Nile thu mình giữa
những lùm cỏ bồ, và là nơi có dựng tượng
thần Memnon trên một khối đá hoa cương vĩ
đại. Vị thần này
đêm đêm ngắm nhìn các vì tinh tú, và khi sao Mai vừa ló dạng
thì Ngài sẽ reo to một tiếng báo hiệu cho muôn loài tỉnh
giấc nồng. Vào giữa
trưa, nơi đó có những con sư tử lông vàng óng
thong thả lần xuống bờ sông uống nước. Mắt chúng xanh màu ngọc thạch,
và tiếng gầm của chúng át cả tiếng thác đổ
ào ào đầu ghềnh.
Ông Hoàng vẫn
từ tốn, tha thiết;
- Én!
Én! Hỡi chú én nhỏ! Bên kia sông có một chàng nghệ sĩ
trẻ sống trong túp lều nhỏ. Chàng đang cặm cụi sáng
tác. Bàn viết bừa bộn
giấy tờ bên chiếc cốc cắm đầy hoa
đổng thảo tím đã úa tàn.
Tóc chàng rối bồng bềnh trên đài trán ưu
tư, môi đỏ gay màu hoa lựu trong cơn sốt suy
tưởng. Chàng đang nặn
óc viết vở kịch sẽ trình diễn trong đại
nội. Tay chàng tê cóng không viết
được. Lửa đã
tắt ngấm từ hồi nào trong lò sưởi, và thức
ăn trong nhà đã hết.
Chàng nghệ sĩ vừa đói vừa lạnh không
còn sức sáng tác, chắc chàng sắp ngất đi ..
Con én nhỏ
đầy từ tâm đỡ lời ông Hoàng:
- Tôi sẽ ở lại cùng Ngài một
đêm dài nữa. Ngài muốn
tôi mang viên hồng ngọc nào cho chàng nghệ sĩ kia?
- Ta chẳng còn viên hồng ngọc
nào nhưng ta có đôi mắt bằng lam ngọc quý giá. Hai viên ngọc này rất hiếm,
già đến cả nghìn năm và được mang về
từ Ấn Độ.
Ngươi hãy gỡ một viên mang tặng chàng. Chàng sẽ bán cho tiệm kim hoàn lấy
tiền mua thức ăn và củi sưởi, và sẽ có
đủ sức tiếp tục viết vở kịch.
Én bật
khóc:
- Ôi!
Tôi không thể làm thế được!
Ông Hoàng van
nài:
- Én! Én! Hỡi
chú én nhỏ! Xin hãy nghe lời
ta!
Con én nhỏ
vừa thổn thức khóc vừa móc viên lam ngọc một
bên mắt pho tượng và bay đến túp lều chàng
nghệ sĩ. Mái lều có một
lỗ hổng. Én phóng nhanh
vào. Chàng nghệ sĩ đang
vòng hai tay ôm đầu triền miên nghĩ ngợi nên không
nghe tiếng cánh vỗ. Khi ngẩng
lên, chàng nhìn thấy viên lam ngọc xanh mầu đại
dương long lanh ngời sáng cạnh những cánh đổng
thảo tàn tạ. Chàng reo lên:
- Ô! Có
người ngưỡng mộ đã kín đáo cho ta viên ngọc
này. Giờ ta có thể ra sức
viết để hoàn thành tác phẩm.
Ngày hôm sau, én
bay xuống vùng cửa sông, đậu trên một cột buồm
cao nhìn những chàng thủy thủ đang hò khoan kéo
neo. Én líu lo:
- Tôi sắp đi Ai Cập!
Chẳng ai
nghe lời reo vui của én. Khi
đêm về và vầng trăng lạnh hiện ra, én bay trở
lại chỗ pho tượng để nói lời giã biệt. Ông Hoàng tha thiết khẩn khoản:
- Én!
Én! Hỡi chú én nhỏ! Én hãy ở lại cùng ta một
đêm nữa và giúp ta!
- Đông về rồi! Tuyết giá sẽ rơi đầy
nơi đây. Xứ Ai Cập
đầy nắng vàng ấm áp nhảy múa trên những ngọn
chà là xanh ngăn ngắt. Xứ
Ai Cập có những đầm lầy với bầy sấu
lười biếng dầm mình trong bùn lơ đãng nhìn sự
vật chung quanh. Bầy bạn
tôi đang xây tổ ấm trên Đền Baalbeck, nơi có lũ
chim câu màu hồng và màu trắng suốt ngày âu yếm gáy gù
nhau. Ông Hoàng yêu kính, tôi phải
xa Ngài, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên Ngài. Mùa Xuân tới, tôi sẽ trở lại
và mang tặng Ngài hai viên ngọc Ngài đã cho đi. Tôi sẽ tìm viên hồng ngọc
khác đỏ thắm hơn hoa hồng nhung, và viên lam ngọc
sẽ xanh thẳm như màu Địa Trung Hải.
Giọng Ông
Hoàng vẫn ôn tồn, từ tốn, và tha thiết:
- Có một con bé bán diêm trong công viên
dưới chân đồi, đang khóc vì lỡ đánh
rơi mẹt diêm xuống cống.
Trời lạnh buốt thế kia mà con bé đi chân trần
chẳng có giày vớ gì và đầu cũng chẳng đội
mũ hay trùm khăn. Nó sẽ
bị cha đánh đòn vì tội làm hỏng cả mẹt
diêm mà chẳng đem về nhà được đồng
xu nào. Én! Én! Hỡi
chú én nhỏ! Hãy gỡ tròng mắt
còn lại của ta mang cho con bé, để nó khỏi bị
cha hành hạ và gia đình đỡ nghèo túng.
Én lại
khóc nức:
- Tôi sẽ ở lại cùng Ngài một
đêm nay nữa, nhưng tôi không nỡ lòng nào gỡ viên
lam ngọc tròng mắt Ngài, vì Ngài sẽ mù, đâu còn thấy
được gì!
Ông Hoàng van
nài:
- Én!
Én! Hỡi chú én nhỏ! Xin én hãy nghe lời ta!
Con én nhỏ
vừa thổn thức khóc vừa gỡ viên lam ngọc bên
mắt còn lại của pho tượng, và bay xuống chân
đồi. Én liệng quanh con
bé bán diêm, nhẹ nhàng nhả viên ngọc vào tay con bé. Con bé hân hoan reo mừng, ngắm
nghía viên ngọc, trầm trồ:
- Ồ!
Cục thủy tinh gì mà đẹp quá trời! Chắc là bán được bộn
tiền!
Rồi nó nhảy
chân sáo cười vô tư chạy về nhà, trong khi con én
bay trở lại chỗ pho tượng, ân cần:
- Bây giờ Ngài mù rồi! Tôi chẳng đành lòng bỏ
Ngài. Tôi sẽ ở lại
đây mãi với Ngài.
Lần này
Ông Hoàng không van nài én ở lại mà lại năn nỉ:
- Không thể được! Én!
Én! Hỡi chú én nhỏ! Én phải bay về Ai Cập có nắng
vàng ấm áp. Ở đây lạnh
quá én làm sao chịu được!
Đi! Bay đi!
Én
cương quyết:
- Không! Tôi sẽ ở lại
đây mãi với Ngài!
Nói xong, én thu
mình nép dưới chân pho tượng, ngủ một giấc
yên lành không mơ tưởng chuyện bay xuôi Nam đầy
nắng.
Khi tia nắng
sớm đầu tiên của bình minh mùa Đông chiếu lên
đôi mắt không tròng của pho tượng, én thức giấc
và bay lên đậu trên vai Ông Hoàng.
Suốt ngày hôm đó én tỉ tê kể về những
chuyện lạ bốn phương từng thấy trên
đường viễn du những năm qua.
Én nói về
những con hồng hạc lông cánh đỏ rực đứng
dọc hai bên bờ sông Nile có biệt tài dùng mỏ chài cá
vàng; về kỳ quan Sphinx đầu người mình thú
xây cất từ thuở khai thiên lập địa, cổ
lỗ già nua cùng tuổi địa cầu. Én còn nói về cuộc sống
vùng sa mạc với những sinh vật kỳ lạ; về
những chuyện liên quan đến Bắc Phi nắng cháy
quanh năm với những đoàn lái buôn tải hàng hóa bằng
lũ lạc đà có tài nhịn khát hàng mấy tháng liền
đi băng qua biển cát mênh mông; về vị Sơn thần
chúa tể dãy Nguyệt Sơn thân hình đen bóng; về con rắn
lục khổng lồ ngủ yên trên tàng lá kè, thường
được hai chục vị sư dâng cúng bánh mật;
về giống người lùn tí hon ở Phi Châu biết
dùng những chiếc lá lớn làm thuyền bơi qua vùng
đại hồ, thường hay gây chiến với lũ
bướm rừng sặc sỡ cánh lớn bằng cả
cái quạt.
Ông Hoàng
lơ đãng nghe những chuyện lạ bốn
phương, tâm trí ưu tư về những nỗi khổ
của loài người. Khi én
ngừng, ông ôn tồn nói:
- Én!
Én! Hỡi chú én nhỏ
thân yêu! Én kể cho ta nhiều
chuyện thật ly kỳ.
Nhưng chuyện ly kỳ nhất trên thế gian này
là nỗi đau khổ của nhân loại. Không có chuyện ly kỳ nào ly kỳ
như những nỗi đau khổ của con người
cả. Én! Én! Hỡi
chú én nhỏ! Hãy bay vòng trên quê
hương ta và cho ta biết én thấy những gì ..
Vâng lời
pho tượng, én bay lượn trên vòm trời, đảo
mắt chim quan sát.
Có những
tòa lâu đài nguy nga tráng lệ rộn đầy tiếng
cười hoan lạc, nhưng ngoài cổng lúc nhúc đám
ăn mày chầu chực chờ của bố thí. Trên đường phố, có những
đám trẻ bụi đời không nhà lang thang rách rưới
mặt mũi xám ngoét mắt lạc thần nhìn vào những
con đường hẻm hun hút tối tăm. Dưới gầm cầu có hai
đứa nằm co ro ôm nhau than van rên rỉ vì đói lạnh,
trong khi tên "công an" xua đuổi chúng bằng dùi cui
nện vào lưng. Hai đứa
bé phải bỏ chạy dưới màn mưa lạnh. Con én nhỏ bay trở lại kể
Ông Hoàng những điều trông thấy. Ông Hoàng dịu dàng tha thiết:
- Thân mình ta phủ đầy vàng
lá. Én!
Én! Hỡi chú én nhỏ! Ngươi hãy giúp ta gỡ từng
lá một mang đi phân phát cho những người nghèo khổ. Loài người vẫn thường
nghĩ rằng vàng đem lại hạnh phúc cho họ.
Con én nhỏ
gỡ từng lá vàng dát trên mình pho tượng, lần
lượt mang đến tận những hang cùng ngõ hẻm
phân phát cho những gia đình nghèo khổ, cho đến khi
pho tượng trơ lại tấm thân đúc bằng chì
xù xì xám xịt. Từng lá rồi
lại từng lá vàng do cánh én mang đến những gia
đình bần cùng, đã làm cho những khuôn mặt trẻ
thơ hồng hào tươi tắn hơn trước, những
mái nghèo vang vang tiếng cười yêu đời và
đường phố rộn rã nhộn nhịp tiếng
trẻ reo vui.
Mấy hôm
sau, tuyết rơi đầy. Mưa tuyết vừa
ngơi là trận bão băng tiếp nối. Đường sá trắng sáng
như làm bằng bạc, chói chang, trơn trợt. Cây cối như đúc bằng
pha lê trong suốt. Nhà cửa
phủ đầy băng tuyết, và những sợi
băng chảy dài từ mái xuống tạo thành những tấm
mành thủy tinh long lanh che phủ.
Người ra đường mặc áo choàng lông dầy,
mũ dạ che kín đầu và tai, vai còn quàng thêm khăn len
và tay mang bao, chân đi ủng.
Trẻ con đội mũ len đỏ vui vẻ
trượt băng trên đường.
Con én nhỏ
rét run cầm cập nhưng vẫn không nỡ lìa bỏ
Ông Hoàng. Én xót thương Ông
Hoàng quá đỗi và chẳng đành bay đi. Én nhặt nhạnh vụn bánh
rơi vãi ngoài cửa tiệm bánh để ăn, và cố
giữ thân nhiệt bằng cách đập cánh liên hồi
cho đỡ cóng.
Nhưng một
hôm, én biết mình không chịu đựng nổi nữa. Én biết mình sắp chết. Cố thu hết tàn lực, én bay
lên đậu trên vai pho tượng, thủ thỉ:
- Hỡi Ông Hoàng yêu kính! Vĩnh biệt Ngài! Xin cho tôi được hôn tay
Ngài!
Giọng Ông
Hoàng vui mừng:
- Hay lắm! Én!
Én! Hỡi chú én nhỏ
thân yêu! Bây giờ ngươi
quyết định lên đường xuôi Nam về Ai Cập
tìm nắng ấm. Ta rất hài lòng!
Ngươi đã ở lại đây quá lâu! Ngươi hãy hôn lên môi ta. Cảm ơn ngươi đã
giúp ta. Ta yêu quý ngươi vô
cùng!
Én run rẩy,
lập cập:
- Tôi không đi Ai Cập được
đâu! Tôi sẽ đến
lâu đài của Tử Thần và làm bạn với Giấc
Thiên Thu ..
Nói xong, con én
nhỏ chỉ còn đủ sức hôn lên môi Ông Hoàng và sau
đó rơi xuống nằm chết còng queo dưới
chân pho tượng. Cùng lúc, một
tiếng động vang lên bên trong pho tượng, nghe giống
tiếng nứt rạn. Đó
chính là trái tim bằng chì của Ông Hoàng Hạnh Phúc. Trái tim vỡ làm hai mảnh. Bởi băng giá thời tiết
lạnh lẽo, hay vì nỗi đau thương khôn cùng ..
Sáng hôm sau, vị
Đô trưởng cùng các nghị viên đô thành có việc
đi qua khu công viên dưới chân đồi. Khi đi qua bệ đá, họ ngẩng
đầu ngắm nhìn pho tượng Ông Hoàng Hạnh Phúc
như thường lệ. Vị
Đô trưởng kinh ngạc kêu thất thanh:
- Trời đất! Sao tượng Ông Hoàng tả
tơi thảm não thế kia!
Cả
đám nghị viên cùng biểu đồng tình phụ họa,
như mọi khi họ vẫn phụ họa trong nghị
trường:
- Trời đất ơi! Tượng Ông Hoàng tả tơi
thảm não quá!
Đoàn
người kéo lên đồi nhìn cho rõ hơn. Vị Đô trưởng nhận
xét:
- Viên hồng
ngọc nạm chuôi kiếm rơi rụng mất rồi! Đôi mắt lam ngọc cũng
không còn. Ông Hoàng chẳng còn
chút vàng dính người!
Đám nghị
viên nhao nhao:
- Trông Ông Hoàng Hạnh Phúc chẳng
hơn gì một tên ăn mày!!!
Vị Đô
trưởng nhìn xuống đất và càu nhàu:
-Ồ,
dưới chân tượng lại có xác một con én nhỏ
còng queo! Phải ban bố một
sắc luật cấm chim chóc chết nơi này!
Viên thư ký
Tòa Đô chính vội ghi lời đề nghị của
Đô trưởng vào nghị trình khóa họp.
Khi tin này loan
đi, vị giáo sư Mỹ thuật trường đại
học trịnh trọng tuyên bố là pho tượng chẳng
còn đẹp đẽ gì nữa mà trưng bày, và cũng
chẳng còn ích lợi gì để giữ lại. Họ quyết định kéo
đổ pho tượng đem vào lò luyện kim. Hội đồng Đô thành nhóm
họp quyết định số phận khoản chì nấu
chảy ra. Vị Đô trưởng
trịnh trọng phán rằng thủ đô phải có một
pho tượng khác:
- Dĩ nhiên phải là tượng
của .. tôi!
Đám nghị
viên nhao nhao. Lần này không phải
để phụ họa mà là cãi nhau vì bất đồng
.. chính kiến.
Trong khi
đó tại lò luyện kim, đám thợ coi việc nấu
pho tượng ngạc nhiên kháo nhau:
- Kỳ chưa! Trái tim chì đã vỡ đôi này chẳng
chịu chảy trong lò! Coi xấu
quá! Đem liệng thùng rác vậy!
Họ nhặt
trái tim vỡ ném vào thùng rác.
Trái tim vỡ còn nóng
rơi cạnh xác con én nhỏ còng queo giá lạnh.
Tết
năm đó, trong buổi chầu đầu Xuân trên Thiên
đình, Ngọc Hoàng Thượng Đế trịnh trọng
phán bảo quần thần hãy xuống trần tìm mang về
hai bảo vật quý giá nhất trong năm để làm quà
đầu Xuân cho Ngài.
Các vị
tiên giáng trần, tìm tòi lục lọi khắp nơi. Cuối cùng, họ đến
nước Thụy Điển ở Bắc Âu, vào thủ
đô, bới đống rác nhặt được hai vật
lạ đem về dâng Thượng Đế. Đó là trái tim vỡ đôi bằng
chì của Ông Hoàng Hạnh Phúc và xác chết khô lạnh của
con én nhỏ. Ngọc Hoàng
Thượng Đế hết sức hài lòng. Ngài ngậm ngùi nâng niu trái tim vỡ
và xác con én nhỏ, trịnh trọng truyền:
- Các ngươi đã chọn
đúng! Đây là hai Món Quà
Đầu Xuân quý báu nhất và có ý nghĩa nhất. Từ nay trên Thiên Đường,
con én nhỏ này sẽ được vĩnh viễn cất
tiếng hót nghìn đời trong vườn tiên để
ca ngợi tình thương yêu bất diệt giữa muôn
loài, và Ông Hoàng Hạnh Phúc sẽ được ở mãi
trên Thiên Đình giúp ta thấu suốt những nỗi khổ
dưới cõi trần, và tìm cách hàn gắn đau
thương cho nhân loại.
Trần thị Lai Hồng
chuyển ngữ
Theo
The Happy Prince của Oscar Wilde
(N.
Khanh sưu
tầm
và chuyển)