ĂN
TẾT
QUÊ NGOẠI
(Bút Xuân Trần Đ́nh Ngọc)
Mỗi
năm vào cuối tháng Chạp, khi tôi thấy chiếc thuyền
đinh lớn, phía mũi có vẽ hai con mắt khổng lồ
giống như mắt người, ở giữa là cây cột
buồm cao bằng tre luồng lớn và ở phía lái có chú
Vững, đầu đội cái khăn rằn đen
để hai đầu khăn rủ xuống một bên
tai, bộ quần áo nâu nhuộm kỹ dày mo, đang đứng
chỉ huy cho các tay chân sào neo thuyền, sửa soạn buồm
dây v.v.. ngay tại Bến đá trước nhà bố mẹ
tôi, là tôi biết đă gần Tết Nguyên Đán rồi.
Năm nào
cũng vậy, cứ khoảng sau ngày ông Táo chầu Trời,
người trong thôn tôi - trong đó có bố mẹ và anh chị
em chúng tôi - bao một chiếc thuyền đinh làm đ̣ dọc
để sang xă Đông Thành, tỉnh Thái B́nh ăn Tết với
ông bà ngoại. Đối với gia đ́nh tôi, Đông Thành
là quê ngoại v́ mẹ tôi sinh trưởng nơi đó cho
đến khi lấy bố tôi và theo về Nam Định,
ở vùng Trà Lũ này. Với nhiều gia đ́nh khác,
Đông Thành lại là quê nội hoặc có thể là nơi
sinh sống của bà con thân thuộc, Tết nhất cần
phải đến họp mặt, mừng tuổi.
Năm nay,
chú Vững khởi hành vào ngày 24, và chú nói v́ nước
lũ năm nay c̣n mạnh và lớn nên ít nhất cũng phải
27 tháng chạp mới tới Đông Thành.
Các chị và
các anh lớn tôi khuân ḥm, rương đựng quần áo
ra thuyền (lúc đó thời Pháp thuộc nên vali c̣n rất
hiếm). Quần áo này là những bộ đồ đẹp,
chỉ được mặc trong mấy ngày Tết dành
cho bố mẹ tôi, chị Thảo và tôi v́ các anh chị lớn
phải ở nhà trông nhà.
Trong
rương cũng c̣n chất quà cáp để biếu ông
bà ngoại và mọi người trong gia đ́nh như: trà,
mứt, thuốc bổ, sâm, nhung, quế, đồ trang sức,
quần áo v .. v .. bố mẹ tôi đă mua sẵn và gói
riêng từng gói, đề tên mỗi người.
Ông ngoại
chỉ thích trà tàu Chính Thái thứ thượng hạng, bà
ngoại cái cối nhỏ xíu bằng đồng để
giă trầu hay cái hộp nhỏ bằng bạc h́nh trái cau
để đựng vôi, cô Đoàn, chị mẹ tôi cái quần
lănh đen v .. v .. tất cả đều được
cân nhắc, suy tính trước khi mua, tùy theo sở thích và
nhu cầu của người được tặng và xếp
gọn gàng trong ḥm, trong rương.
Về phần
tôi, lúc đó mới chín, mười tuổi, cái tuổi
thích mặc quần áo mới. Tôi nhớ dù c̣n bé tí nhưng
bố mẹ tôi cũng bắt tôi mặc áo dài. Tết nhất
là cái áo gấm vàng hoặc xanh có chữ thọ to như cái
bát úp rải rác khắp áo, một chiếc quần trắng
dài bằng vải trúc bâu, chân đi vớ trắng và dận
đôi xăng đan màu da ḅ. Khi trời nắng, tôi thường
đội một cái mũ khung bằng liège để làm
nút chai, tuy nhẹ nhưng cứng, không vo lại bỏ túi
được, vành rộng hơn tấc tây, ngoài lợp vải
trắng, khi mũ dơ, có thể dùng phấn trắng quết,
sơn lên cho mới lại. Ngoài ra c̣n có thêm những bộ
quần áo mặc thường để thay đổi nữa.
Lúc chín,
mười tuổi, được mặc quần áo mới
ai không thích, nhưng với tôi, điều thích thú hơn là
được tung tăng ở quê ngoại, nơi đó
có vườn tược, ao cá, đồng ruộng .. một
năm mới nh́n một lần nên lạ mắt, thấy
cái ǵ cũng hấp dẫn, kỳ bí, làm tôi say mê chơi
hoài không chán.
Một
điều thích thú nữa, mà có lẽ là điều thích
thú nhất, là được nghỉ học để
đi ăn Tết hai tuần. Buổi học cuối cùng
khi nghe thầy Nhường nói bằng Pháp ngữ: "Các
anh được nghỉ ăn Tết hai tuần. Ngày ..
phải trở lại lớp." Sau khi thầy đă dặn
đi đặn lại một tràng dài, nào Tết ở nhà
đọc từ bài nào đến bài nào, làm bao nhiêu con toán,
học thuộc bao nhiêu bài học thuộc ḷng để thầy
khảo v .. v .., tôi - mà chẳng phải ḿnh tôi, c̣n nhiều
đứa khác nữa - đă nhảy cẫng lên, ôm cặp
chạy bay ra khỏi lớp, phóng một mạch về nhà
đứng thở, để rồi đi tha thẩn ngoài
vườn, ngoài ngơ chẳng làm ǵ.
Hai tuần
không phải cặm cụi viết chính tả, không phải
học văn phạm, không phải chia động từ,
không đặt câu, không làm tính, không bất cứ cái ǵ. Ôi
sao lúc đó tôi yêu Tết làm vậy!
Khi mọi
người đă xuống thuyền đầy đủ,
các lồng gà vịt đưa đi biếu treo lủng lẳng
ngoài hai bên mạn và sau bánh lái. Mới nh́n, người ta cứ
nghĩ chiếc thuyền này buôn gà vịt v́ lồng lớn
lồng nhỏ treo đầy hai bên, trong lồng có để
sẵn cám và nước.
Khoảng
năm chục người xếp cá hộp trong ba khoang
thuyền cộng thêm với rương, ḥm, đồ biếu
xén của mỗi gia đ́nh, chiếc thuyền vừa khẳm
vừa chật không hở một phân vuông.
Chú Vững
ra lệnh nhổ neo khởi hành. Chú cầm bánh lái để
đưa thuyền đi đúng hướng, c̣n thuyền
đi được hay không là trông vào sáu anh chân sào, cạn
th́ đẩy bằng sào, nước ngược th́ lên băi
dùng dây song, dây thừng để kéo mà sâu quá th́ chèo. Sáu anh
này cũng như chú Vững đều khỏe mạnh,
cường tráng và đă quen sông nước.
Con sông Bến
Đá ngay trước mặt nhà bố mẹ tôi đi ḷng
ṿng cả mấy chục cây số mới ra đến
sông cái, tức là một nhánh của sông Hồng Hà, đi tuốt
về phía Ngô Đồng rồi mới sang tới Đông
Thành.
Chú Vững
đứng thẳng cầm bánh lái, công việc chú làm coi
nhàn tản nhưng thực ra phải chú ư trong mọi lúc. Nếu
chú lo ra để thuyền đâm vào bờ hoặc húc vào
các cây cầu khỉ, cầu gạch bắc qua sông th́ chẳng
những hư thuyền mà c̣n phải dừng lại bồi
thường cho dân làng có cây cầu nữa. Khúc sông trong này
cạn nên mỗi bên mạn ba anh chân sào dùng cây sào bằng
tre đặc, thẳng, thật dài để đẩy
thuyền đi. Tôi v́ được chú Vững cưng, nên
trời c̣n sáng, tôi đứng cạnh chú để xem chú bẻ
bánh lái đồng thời ngắm phong cảnh hoàng hôn hai
bên bờ sông.
Làng mạc
san sát, làng nọ tiếp giáp làng kia. Đại để
trông từa tựa như nhau: những mái tranh, mái rạ
màu nâu, xám, thỉnh thoảng xen vào một vài mái ngói đỏ,
hoàng hôn cố sức lấy hết tàn lực rọi lên những
tia nắng cuối cùng đẹp rực rỡ như bức
tranh của Vincent Van Gogh.
Đâu
cũng là những lũy tre xanh, tượng trưng một
cuộc sống êm đềm, thôn dă. Những hàng cau cao chọc
trời, cây thẳng, cây nghiêng, lấp ló một đôi chim
cu bay ra bay vào cái tổ ngay trên ngọn. Thỉnh thoảng
thuyền chui qua một cây cầu lợp ngói, chắc chắn,
kiên cố, dân quê thường gọi là cầu thượng
gia hoặc qua một bến đá tương tự
như bến đá trước cửa nhà tôi. Vài người
lớn, vài đứa trẻ con c̣n rửa ráy, giặt
giũ, nước bắn lên tung tóe nghe lạch bạch
cùng với những tiếng cười ṛn tan. Thật xa,
tiếng tù và bắt đầu vọng lại, tháng này, dân
quê phải cắt phiên canh gác coi chừng trộm cướp
v́ cướp túng quá hay đi ăn hàng vào những đêm
giáp Tết.
Tiếng
chuông thu không với nhịp thật chậm của một
ngôi chùa kế sông vẳng lên làm tâm hồn ta muốn t́m cơi
siêu thoát. Tiếng guốc gơ trên đường xi măng
và tiếng lào xào nói chuyện của một đoàn người
lớn và con nít, áo quần thùng th́nh, đang rảo bước
đến nhà thờ đọc kinh tối, dáng điệu
vui vẻ và thanh b́nh như tiếng chuông rộn ră của
giáo đường.
Quê tôi chỉ
có vậy. Mộc mạc. Êm đềm. Trầm lặng. Và
nghèo. Cuộc sống không thích hợp cho người thích
bon chen, tranh đua nhưng rất thoải mái cho những
tâm hồn yêu thiên nhiên, sống giản dị và b́nh lặng.
Người
trong khoang thuyền giở cơm nắm, muối mè, xôi,
cơm nếp mật, bánh trái .. ra ăn cho bữa tối.
C̣n một chút ánh sáng mặt trời, họ phải lợi
dụng kẻo nửa giờ nữa là tối sập. Tiếng
mời chào, trao đổi món ăn nghe cũng ấm ḷng.
Người dân quê hiền lành chất phác, nghĩ sao nói vậy.
Họ không khách sáo hoặc hoa ḥe hoa sói, kiểu cách như
người thành thị. Họ chia sẻ những vắt
cơm, những nắm xôi, những củ khoai, chén đậu,
cái bắp với nhau, những thức ăn thật tầm
thường đạm bạc nhưng ḷng họ đầy
thành thật và thương quí lối xóm, bà con.
Mẹ tôi gọi
tôi vào ăn cho xong bữa, nhưng tôi mải mê với hoàng
hôn đang từ từ xuống, với cảnh vật
thiên nhiên lồng vào sông nước, con thuyền tôi đang
đi. Tôi muốn thu vào trí nhớ tất cả những
h́nh ảnh thân thương đó để măi măi, dù sau này
không c̣n được nh́n lại, trí óc tôi vẫn c̣n ghi
đậm những ǵ tôi đă được hưởng
lúc thiếu thời.
Chú Vững
giục tôi vào khoang v́ trời đă tối và lạnh. Bên
trong chỉ có một ngọn đèn chai đốt bằng
dầu lạc. Dầu hỏa hay dầu hôi lúc đó đă
có nhưng dân chúng chỉ dùng để đốt những
ngọn đèn Hoa Kỳ nhỏ, hoặc nhà khá giả,
đèn măng-sông, mỗi khi có đ́nh đám tiệc tùng.
Đèn chai là
thứ đèn hết sức thô sơ. Người ta cắt
hai đầu một chai thủy tinh để làm cái chụp
đèn. Bên trong chụp là một cái lọ giống lọ mực,
học sinh khi xưa vẫn phải cầm đi mỗi
khi đến trường để chấm ng̣i bút lấy
mực đặng viết. Trong lọ là dầu lạc
(đậu phụng) với một ngọn bấc nhỏ
xíu khi cháy cho ta ánh sáng của một ngọn nến (đèn
cầy). Nến không thắp lâu được v́ tốn tiền,
phải canh chừng khi nến sắp hết và sáp nóng chảy
lung tung. Đèn dầu lạc ít tốn, có thể đốt
suốt đêm, lại nữa, nếu đèn bị ngă
đổ, ngọn lửa tắt liền không gây hỏa hoạn
như đèn dầu hôi hoặc nến.
Trong khoang khá
ấm dù chăn, mền hơi ít và chỉ có chiếu
nhưng đông người vẫn ấm. Chỉ c̣n vừa
một chỗ nằm nhỏ xíu cho tôi lách ḿnh vào, nằm
nghiêng mới đủ chứ không thể nằm ngửa.
Cá ṃi xếp trong hộp Sumaco - Made in Morocco có lẽ cũng
chỉ khít khao đến thế.
Tuy ăn uống,
chia sẻ cho nhau thân thiết đậm đà như đă
nói nhưng lúc nằm ngủ, giới phụ nữ không
nhân nhượng phe đàn ông một chút nào khi bị lấn
lướt. Thỉnh thoảng lại nghe một tiếng
la, giọng chua như dấm của một bà sồn sồn
hoặc cô con gái:
"Cái nhà
ông này hay chửa, sao ông cứ gác chân lên đùi tôi vậy ?
Tê hết cả cái đùi người ta rồi này."
Mặc dù
"xướng" to thế, cả làng cả nước
những người c̣n thức đều nghe, nhưng
không có "họa". Người đàn ông nào đó làm
như ngủ say - say thật hay say vờ - nhưng không bao
giờ có tiếng trả lời.
Được
một lúc im lặng, chỉ nghe tiếng ngáy ph́ pḥ, tiếng
thở nhịp nhàng của những người dễ ngủ.
Làm việc đồng áng ban ngày, đêm đến là họ
ngủ như chết. Rồi lại tiếng la:
"Cái anh chết
tiệt này, mê sảng ǵ cứ sờ đầu, sờ cổ
người ta lung tung. Thức dậy đi. Đồ phải
gió!"
Lời trách
móc, chửi bới rốt cuộc cũng loăng vào khoang thuyền.
Chẳng ai để ư, mà để ư cái vụ đụng
chạm làm chi khi khoang thuyền chật như nêm cối.
Thánh sống nằm đó cũng c̣n bị trách cứ, mè
nheo, huống hồ con người. Không lẽ nằm
như bó gị từ chập tối đến sáng không cựa
quậy, không nhúc nhích, không găi ngứa, co tay đạp chân?
Vậy đụng chạm là phải rồi. Chỉ có cái
lạ, dù măi sau này mười tám, hai mươi tôi mới
hiểu ra, lâu lâu lại một cô con gái nhà lành đi buôn
đ̣ dọc hàng chuyến như thế, bỗng nhiên cái bụng
cứ to măi lên, khiến cô phải bỏ quê đi mất xứ.
Vác cái bầu, kết quả của những đêm đi
đ̣ dọc nghe mấy anh chân sào gẩy đàn bầu hoặc
hát trống quân, quan họ trong lúc thuyền đi thong dong
nhờ gió và buồm, nhục nhă với bố mẹ, gia
đ́nh, làng xóm không chịu nổi. Các cô ra tỉnh ở
đợ, ở vú kiếm ăn nuôi con, sống nhục
nhă ê chề thế nào cũng giữ con, ôm con chứ không
phá thai dễ dàng như thời nay.
Sau ba đêm
và hai ngày đằng đẵng dưới đ̣ như thế,
mọi người đă cảm thấy cuồng cẳng.
Sáng ngày kế tiếp, thuyền chúng tôi vào địa phận
Đông Thành. Thuyền lại đi trong con sông nhỏ vài
cây số nữa mới tới chợ, nơi thị tứ
đông người ở và là nơi trú ngụ của ông
bà ngoại tôi. Hai anh chân sào ngồi trên thuyền nghỉ, một
anh đứng chống mũi thuyền để thuyền
khỏi gạt vào bờ, ba anh kia đeo thừng vào vai, lội
ruộng để kéo thuyền. Khi nào kéo mệt, toán kia xuống
đổi.
Tin thuyền
ăn Tết của chú Vững tới được loan
thật nhanh. Lúc thuyền vừa cặp bến, tôi đă
thấy ông ngoại tôi - dù trên bảy mươi tuổi
nhưng vẫn c̣n khang kiện - cùng với cậu Bảo,
cậu Tường và d́ Cúc, d́ Hiên, d́ Mười có mặt
để đón chúng tôi. Đúng như chú Vững nói, sáng hôm
27 Tết chúng tôi có mặt ở chợ Đông Thành.
Con cái đă
tụ họp đông đủ. Gia đ́nh tôi từ Trà
Lũ sang, cậu mợ Lă từ tỉnh Thái B́nh về, ông
bà Phán Quế, bạn của ông ngoại tôi lúc cùng đi học,
từ Hà Nội xuống. Bạn bè, con cháu, xóm giềng
đầy một nhà tính ra có tới ba, bốn chục
người.
Đầu
tiên ông tôi phân công mỗi người hoặc mỗi nhóm một
việc. Bố tôi viết đại tự đẹp th́
lo liễn, hoành phi, câu đối, thiếu mua vải về
viết thêm, đủ th́ chỉ bảo cho mấy đứa
cháu lau chùi bụi bặm, treo lại cho ngay ngắn. Bố
tôi cũng có nhiệm vụ lo bàn thờ gia tiên, đỉnh
hương, đèn nến và chỉ bảo người nhà
lau chùi bày biện hương hoa, quả trái cho ra vẻ
ngày Tết. Tôi nhớ ông bà ngoại tôi lúc đó chưa theo
đạo Thiên Chúa nhưng cũng không theo đạo Phật.
Ông bà chỉ cúng giỗ gia tiên và làm bổn phận của
người con, người cháu những ngày kỵ, ngày Tết.
Tuy vậy ông không cấm con cháu theo tín ngưỡng riêng.
Khi mẹ tôi lấy bố tôi, mẹ tôi theo đạo Thiên
Chúa v́ gia đ́nh ông nội tôi có đạo Thiên Chúa từ
nhiều đời.
Cậu Bảo
và thằng con lớn của cậu có nhiệm vụ trồng
nêu và trang hoàng, làm sạch lối đi vào nhà. Thường
gần Tết, dân quê có thói quen sửa sang đường
xá, làm cỏ, cắt cỏ những nơi công cộng cho sạch
sẽ, vét bùn ao, sông hoặc tát ao, tát sông bắt tôm cá chia
cho mỗi gia đ́nh ăn Tết.
Một
đám thanh niên năm, sáu người theo lệnh ông tôi xuống
ao bắt cá. Tôi c̣n nhớ cái ao lớn và thật sâu, ông tôi
làm ống cho thủy triều ở con sông lớn vào ra hàng
ngày nên ao sạch và cá rất mau lớn. Với đám khách
khứa đó, khoảng mười con cá vừa mè, vừa
chép trung b́nh mỗi con sáu, bảy kư là đủ. Bà ngoại
chỉ huy cho nhóm đàn bà đem nướng, hấp hoặc
nấu với chuối xanh tùy theo loại cá để
đăi khách.
Dù mới
hăm bảy tháng Chạp, nhà ông bà ngoại tôi đă vui
như Tết. Cá đánh dưới ao lên tươi rói,
đàn ông uống rượu đậu, ăn gỏi cá
mè. Rượu đậu là một thứ rượu trắng
như rượu đế trong Nam, do nhà cất lấy.
Nó thơm, ngọt, uống êm ả và say êm không sóc, không nhức
đầu như rượu Văn Điển. Rượu
Văn Điển hay rượu Ty là rượu độc
quyền của Pháp chế tạo và bán cho dân chúng. Rượu
này không nguyên chất như rượu đậu mà có pha cồn
(alcohol) nên uống sóc và nhức đầu. Cất lén
rượu đậu bị bắt sẽ bị phạt
tiền, phạt tù hoặc cả hai. Nhưng dân quê ta ghiền
rượu, không sợ, vẫn cất lén uống.
C̣n gỏi cá
mè là những miếng phi - lê cá, thấm giấy bản cho
thật khô nước, thái mỏng, trộn với riềng
đâm nhỏ và thính. Một thứ sốt sền sệt
làm bằng nước nấu từ đầu cá có thêm thịt
heo ba chỉ, dấm, đường, nước mắm,
bột gạo, tiêu ớt và có khi cả bă rượu, chua
chua, ngọt ngọt, đậm đậm, cay cay để
ăn với cá và các thứ rau thơm với bánh đa
nướng. Dân quê miền Bắc lúc đó khoái gỏi cá
cũng như dân Nhật mê Sushi bây giờ. Cũng là cá sống
thôi. Cá sống bổ, không có cholesterol như thịt, các cụ
ta ít bệnh ung thư, cao máu, tiểu đường, bao tử
là v́ vậy.
C̣n các bà th́
ăn cá nướng, ăn bún bung. Cá tươi như thế
đem kẹp vào một cây tre chẻ đôi đem hơ
trên than cho đến khi chín vàng. Mùi cá nướng thơm
ngát mũi. Gỡ cá ra, bóc da vứt đi, đem cá nạc
chấm với nước mắm chắt (một thứ
nước mắm nhĩ nguyên chất), chao ôi là ngon! Nếu
không thích cá nướng th́ ăn bún bung. Cá chép nấu với
chuối xanh, thịt ba chỉ, đậu hũ chiên, bột
nghệ. Khi ăn chỉ việc bỏ bún (lúc đó chỉ
có bún tươi) vào tô, chan cái chan nước đều lên
để mỗi tô có cá, có thịt, có đậu hũ, chuối
xanh, hành hoa .. Thế nào cũng phải có tía tô và rau diếp.
Thiếu tía tô không ra bún bung. Tôi v́ c̣n nhỏ quá chưa biết
uống rượu nên không ăn được gỏi cá
(các cụ quan niệm gỏi cá hàn [lạnh]), vậy phải
uống rượu cho ấm lên, nên cứ thưởng thức
bún bung. Cũng ngon chán. Giờ nhớ lại tôi vẫn c̣n
thèm.
Người
nông dân nước ta, dù ở Trung, Nam hay Bắc Việt
thường tự cung cấp cho gia đ́nh ḿnh những
nông phẩm cần thiết như lúa gạo, thịt cá,
rau trái .. Ông ngoại tôi, cũng giống như phần
đông các gia đ́nh nông dân khác, nuôi không thiếu thứ súc
vật ǵ và trồng cấy không thiếu cây cỏ ǵ.
Trước kia, ông làm việc ở Hà Nội, công chức
nhà Giây Thép (Sở Bưu Điện bây giờ), sau đó
ông về hưu và về hẳn Đông Thành, nơi quê
hương bản quán để sống một cuộc
đời nông dân mà ông ao ước.
Ông có một
chuồng gà lớn cả hai, ba mươi con. Gà có đực,
đẻ trứng là ông cho ấp liên miên hết lứa này
đến lứa khác. Ông cũng dùng gà để ấp trứng
vịt nữa, v́ vậy đàn vịt của ông tăng
gia phi mă, thỉnh thoảng phải bán bớt lấy tiền
mua thóc, bắp, cám .. cho những con c̣n lại. Ông c̣n một
chuồng bồ câu cả chục đôi. Chúng bận rộn
kiếm ăn, nuôi con và đứng gật gù với nhau ở
ngoài sân, trên mái nhà cả ngày. Chưa hết, chuồng lợn
kế bếp của ông cũng có mấy con. Lợn ông chỉ
cho ăn cám nấu với bèo hoặc rau muống, thịt
chắc mà thơm, khác hẳn với loại thịt lợn
ăn những thứ tạp nhạp khác.
Năm nào có
đông khách và con cháu, ông bảo cậu Tường và cậu
Bảo mổ con lợn hoặc chung một đùi ḅ với
người lối xóm để đăi khách. Thực ra, gà
vịt và bồ câu trong chuồng cũng đủ cho một
cái Tết thịnh soạn rồi.
Dân quê ngoài Bắc
có thói quen hạ cờ tây, tuy nhiên ông tôi không bao giờ giết
những con chó nhà. Ông nói nuôi nó, nó như tay chân thân tín, ḿnh
không nỡ ḷng nào hạ nó ăn thịt. Đôi khi ông và gia
đ́nh có thưởng thức món cờ tây này, nhưng là
"đánh đụng" với nhưng nhà khác mà thôi.
Đàn chó của ông v́ vậy "khuyển số"
tăng lên khá mạnh mẽ.
Tôi c̣n nhớ
một năm, khi gia đ́nh tôi tới, tôi thấy con Vện,
con chó đực lông vàng điểm hung đen, khá to và mạnh,
không hiểu sao bị què một chân đi khập khiễng.
D́ Hiên nói nó bị sa xuống cái hố sâu ngoài ruộng cách
nhà khoảng nửa cây số, khi nó đi theo anh Viễn ra
ruộng, anh canh điền vẫn đến cày bừa
cho nhà ông tôi, nhưng anh Viễn không biết. Nó nằm cả
đêm dưới hố không rút chân lên được cho
đến sáng hôm sau khi ông và cậu Bảo đi kiếm,
mới kéo được nó lên và khiêng về nhà săn sóc.
V́ không có thuốc men, chỉ dùng gừng hoặc nghệ
giă ra, đổ rượu vào chưng lên cho nóng rồi bóp
vào cẳng nên nó vẫn không khỏi được. Con Vện
mang cái chân què trông thật tội nghiệp và v́ kém ăn, nó
sút đi trông thấy.
Mấy
người hàng xóm xúi ông ngoại tôi giết thịt, ông
không chịu, nói nó què quặt lại càng phải
thương nó hơn. Họ dụ ông giết nó không
được, bèn trả giá mấy hào, nói mua về nuôi
săn sóc cho nó nhưng ông ngoại tôi biết, họ chỉ
định mua về giết thịt v́ con Vện lông ngắn,
thuộc giống chó ta, thịt rất ngon. Ông lại càng cố
giữ con Vện lại.
Tết
năm nay có khách trên Hà Nội xuống - ông bà phán Quế.
Ông phán Quế là bạn đồng sự với ông tôi mấy
chục năm ở nhà Giây Thép, nên ông tôi ra lệnh giết
một con lợn, chia cho lối xóm một ít, c̣n giữ lại
để giă gị, làm nem và gói bánh chưng.
Ở thôn quê
lúc đó, giết lợn là chuyện đại sự. Bởi
lẽ phải khá giả mới dám ngả lợn, giầu
có dư ăn, dư để và nhân dịp hội hè
đ́nh đám lớn mới dám vật ḅ, mổ trâu. Nhiều
địa phương, phải là việc làng, việc tổng
mới dám nghĩ đến chuyện giết ḅ, giết lợn
hoặc giết trâu làm cỗ đăi hàng xă, hàng tổng. Một
chi tộc, một khu xóm, thường người ta chỉ
giết gà vịt, bắt cá dưới ao lên hoặc cùng lắm
là hạ một con cầy tơ.
Trời lạnh
căm căm, cái lạnh thật dễ chịu cho những
chú bé như tôi. Tôi chưa phải làm việc ǵ, v́ c̣n nhỏ
cũng có, v́ đóng vai khách cũng có. Áo len dài tay màu đỏ
tươi, cổ chữ V, bên trong là hai ba cái áo cánh cho ấm,
quần cũng mặc hai cái, cái vải trúc bâu, cái vải
kaki dầy. Tôi cùng với mấy đứa trẻ hàng xóm
nhà ông ngoại và mấy anh, chị, em, con của bác
Đoàn, cậu Bảo, cậu Tường, d́ Cúc, d́ Hiên v..
v .. đứng vừa bàn tán vừa coi giết lợn.
Con lợn vừa,
không lớn lắm, chỉ khoảng năm sáu chục kí
lô, bị trói cẳng và treo ngược lên tại gốc
cây ổi ở góc sân. Nó kêu eng éc dữ dội làm lũ trẻ
hàng xóm kéo đến mỗi lúc một đông. Cứ thử
tưởng tượng ở Mỹ này có một chút ǵ xảy
ra là người ta bu lại đông đảo để
coi v́ hiếu kỳ trách chi ở Việt Nam lúc đó, con
nít người lớn không có ǵ để giải trí, tiêu
khiển ngoài những sinh hoạt thường nhật
như ăn, ngủ, làm việc. Một năm mới
được một, hai lần hội hè đ́nh đám.
Và Tết th́ chỉ có một lần.
Các cụ ta
quan niệm máu huyết trong con người và súc vật là
tốt và quan trọng nhất cho mỗi sinh vật. V́ vậy,
hạ súc vật, các cụ không bao giờ chịu bỏ
phí huyết. Lợn, chó, gà, vịt, trâu, ḅ, chim chóc .. thảy
đều phải qua giai đoạn cắt tiết và hăm
huyết. Con lợn càng kêu lớn, huyết ở cổ nó
càng ồng ộc đổ xuống thau đă có sẵn ít
muối. Người cắt tiết con lợn hôm ấy chẳng
ai xa lạ, lại chính là chú Vững, lái đ̣ dọc từ
Trà Lũ qua đây.
Dưới
mắt tôi lúc đó, chú Vững là người có quá nhiều
tài. Chú lái thuyền giỏi, đưa bà con đi đến
nơi về đến chốn. Chú ḥ hát và đàn bầu
cũng giỏi. Chẳng vậy mà thím Vững bây giờ
chính là cô Mùi buôn bán hàng chuyến hồi xưa. Cô Mùi xuống
đ̣ chú Vững, những tưởng buôn bán làm nên sự
nghiệp, nào ngờ chỉ sau năm, mười chuyến
cô khám phá ra cái ruột tượng (dây lưng của
đàn bà) mẹ cô cho cô, h́nh như ai lén cắt bớt một
khúc. Nó không c̣n dài thả xuống mắt cá mà ngắn ngủn
lơ lửng trên đầu gối. Thế là cô Mùi bắt
đền chú Vững và lập tức mẹ chú Vững phải
đưa trầu cau sang nhà ông bà Thủ Mầu để
hỏi cô Mùi cho chú Vững. Đứa con gái đầu ḷng
của chú Vững ra đời chỉ sau đám cưới
của bố mẹ nó chừng bốn tháng làm cả làng
nước xôn xao dữ dội hơn bây giờ người
ta được tin thủ tướng Do Thái kư thỏa hiệp
ḥa b́nh với lănh tụ PLO hay Mỹ phóng phi thuyền lên mặt
trăng.
Và lúc này
đây, với tôi, chú Vững lại có thêm tài nữa: cắt
tiết heo. Tay phải chú thọc sâu con dao bầu sắc
như nước vào họng heo làm đứt thêm những
động mạch mới dạm đứt để lấy
hết máu xuống thau, tay kia chú cầm đôi đũa
dài và lớn khuấy trong trong thau tiết để huyết
khỏi đông.
Bọn con
nít la ḥ ầm ĩ. Đứa năn nỉ chú dành cho cái
đuôi, đứa cái bong bóng .. Ṿng tṛn chung quanh con heo nhỏ
lại dần khiến chú Vững không làm việc
được. Chú dọa chơi đám trẻ bằng một
tiếng hét to như sấm khiến bọn trẻ sợ
quá dạt cả về phía sau.
Nồi ba
mươi nước sôi đă sẵn sàng. Chú Vững và cậu
Tường đặt con heo lên một tấm phản, dội
nước sôi từng phần và cạo lông. Con heo trắng
nhởn, sạch sẽ. Chú xả ra làm bốn phần
đều nhau để lối xóm "đánh đụng"
lấy phần thịt của ḿnh đem về. Phần của
nhà chú pha ra, nào thịt để giă gị, làm nem, nấu
đông, làm mọc, nào thịt làm bánh chưng v ..v .. Chỉ
loáng cái, tôi đă thấy chú băm nhân tiết canh và
đánh ra hàng chục đĩa tiết canh rồi.
Sang ăn Tết
bên nhà ông bà ngoại mà tôi đă có nhiều kinh nghiệm, là
phải chuẩn bị cái bụng cho tốt để
thưởng thức món ăn. Cả hai ông bà ngoại tôi
đều hiếu khách và đều muốn con cháu tụ
họp đông đủ. Năm nay chỉ có tôi và chị
Thảo làm ông bà cứ thắc mắc tại sao bố mẹ
tôi không nhờ người coi nhà và cho hết các anh chị
tôi đi.
Đánh cá
dưới ao, bắt gà vịt, mổ heo, "đánh
đụng" đùi ḅ và sửa soạn cỗ bàn đều
vui. Nhưng cái tôi thích nhất vẫn là nấu bánh
chưng.
Gạo nếp
và đậu xanh đă được ngâm sẵn cho mềm.
Thịt heo làm nhân chú Vững đă xắt, ướp muối
tiêu hành, thảo quả sẵn sàng, lá giong cắt từ
ngoài vườn rửa ráy sạch sẽ, lau cho khô, lạt
buộc bằng tre cũng đă chẻ xong. Từ trưa
ba mươi, bà ngoại, các d́ tôi và những người khéo
tay bắt đầu ngồi gói bánh chưng. Mỗi cái bánh
vuông vức mỗi bề hơn một gang tay người
lớn, dầy khoảng hai phần ba ngón tay trong để
hai lớp gạo nếp và hai lớp đậu xanh bao lấy
một lớp thịt heo đă ướp. Chú Vững chẻ
những cái lạt bằng tre, dài vừa đúng một tầm,
mỏng và dẻo, buộc xoắn lại và giấu mối
bên trong. Khoảng chập choạng tối th́ bánh gói xong.
Trước
kia ông tôi thường gầy nồi bánh chưng ở ngoài
sân v́ cần chỗ rộng cho cái thùng lớn gần bằng
thùng phuy. Năm nay ông sắp xếp trong bếp để
nấu ngay tại bếp v́ ông bảo ngoài sân quá lạnh
cho đám con nít như tụi tôi.
Mọi
người thay phiên nhau tắm và thay quần áo. Nước
lạnh quá th́ đặt những nồi nước lớn
đun sôi để pha cho ấm. Khoảng chín giờ tối
mọi việc dọn dẹp, tắm rửa đă xong. Ông
ngồi kể chuyện cổ tích cho con cháu nghe với sự
phụ họa và thay phiên của ông phán Quế, một
người có tiếng kể chuyện có duyên.
Những
thanh củi tạ trong bếp cháy tí tách cho lửa sáng và
hơi ấm. Nồi bánh chưng liên tục sôi sùng sục.
Những câu chuyện "Chống trả cướp
đêm 30", "Giết trăn cứu người",
"Con cọp thọt" v .. v .. chuyện nghe rồi,
chuyện chưa nghe nhưng được kể vào
đêm 30, ngoài trời tối như hũ nút (ta thường
nói: tối như đêm 30), gió bấc lạnh căm
căm, trong không khí gia đ́nh xum họp mà cái đinh là nồi
bánh chưng th́ dù chuyện nhạt như nước ốc,
như nước lă ao bèo chăng nữa, cũng vẫn
được tán thưởng nhiệt liệt như một
câu chuyện hay nhất, ư vị nhất, người kể
có duyên nhất.
Nhưng dù có
say mê kể chuyện đến đâu, ông ngoại, ông phán
Quế và bố tôi cũng không quên lễ Giao thừa.
Đèn nến
trên bàn thờ tổ tiên đă thắp sáng trưng. Một
ngọn đèn măng - sông tỏa sáng cả căn nhà. Bài
vị tổ tiên trông đơn giản nhưng uy nghi, trang
trọng. Hoa trái trưng bày thật đẹp mắt và nhả
mùi hương thơm ngát. Ông tôi, bố tôi và cậu Bảo
ăn mặc chỉnh tề, áo dài khăn đóng để
chờ giờ hành lễ.
Đột
nhiên chuông chùa, chuông nhà thờ, cồng, mơ đầu xóm nhất
loạt khua vang. Giao thừa. Giờ linh thiêng. Giờ quan trọng.
Ai nấy cảm thấy một cái ǵ thật trang trọng,
tôn nghiêm. Ông bà ngoại tôi đă cắt cử vài người
ở bếp canh nồi bánh chưng, c̣n bao nhiêu quây quần
ở pḥng khách, gian chính giữa căn nhà gỗ năm gian
cũng là chỗ đặt bàn thờ Gia Tiên. Ông tôi đứng
trước bàn thờ, bà tôi đứng kế. Ông bà phán Quế
đứng cùng hàng nhưng phía bên cạnh chứ không ở
giữa chiếu. Sau ông bà là bố mẹ tôi và các cậu
các d́. Rồi đến các cháu các chắt. Tôi đứng với
bé Vân, con cô Mười, mới sáu tuổi. Từ hôm tôi tới
nhà ngoại, Vân cứ đeo dính lấy tôi.
Ông bà tôi trang
trọng dâng hương lên trước trán bằng cả
hai tay, đầu cúi xuống rất là thành kính. Mọi
người giữ im lặng hoàn toàn. Không một tiếng
hắng giọng, một tiếng ho. Tôi nghe ông dơng dạc từng
tiếng một nói lớn:
"Giờ
phút này là giờ phút thiêng liêng của Năm Mới. Tụ
họp đông đủ tại đây là các con, các cháu, các
chắt, chút, chít v .. v .. của các cụ, các cố, tam, tứ,
ngũ đại và lên trên nữa để nhớ công
ơn sinh thành, dưỡng dục và gây dựng cho chúng con
có ngày nay. Xin hương hồn các cụ, các cố về
chứng giám ḷng thành kính của con cháu và hưởng lộc
con cháu dâng lên".
Nói xong, ông
vái ba vái và cắm ba nén hương vào bát nhang rồi tiến
lại đứng ở bàn phía phải kế bàn thờ
nh́n xuống đám con cháu. Bà tôi cũng lên cắm
hương và đến đứng cạnh ông. V́ là chỗ
thân t́nh và c̣n họ xa, ông bà phán Quế cũng dâng
hương. Sau đó cậu mợ Bảo, con trai trưởng
ông tôi, rồi đến bố mẹ tôi và các cậu, các
d́ đều làm lễ như vậy. Các cháu, các chắt nhỏ
quá không phải dâng hương mà chỉ đôi một tiến
lên đứng vái và quay ra. Bé Vân súng sính trong chiếc áo gấm
mầu vàng, c̣n tôi gấm xanh, bé bắt chước tôi chắp
hai tay lại cúi đầu xuống vái. Tôi nghĩ nếu
các cụ, các cố .. có sống lại được, dù
già lăo đầu bạc răng long nhưng nh́n được
đàn con, đàn cháu của ḿnh như thế cũng mát dạ.
Ở thôn quê
người ta ít đốt pháo. Bánh pháo trị giá mấy
thúng lúa chỉ nghe đẹt đùng vài chục giây. V́ vậy
tư gia ít đốt mà chỉ có làng, tổng với quỹ
chung mới có pháo đốt lúc Giao Thừa. Ông ngoại tôi
không mua pháo, cũng không thích đốt nhưng ông bà phán Quế
thường mua từ Hà Nội xuống vài bánh pháo
"Đại Quang" làm quà cho ông bà tôi, nói đốt cho
vui nhà vui cửa và được may cả năm. V́ vậy
lúc bọn trẻ con chúng tôi vái lạy tổ tiên, chúng tôi chỉ
làm qua loa chiếu lệ. Đầu óc chúng tôi c̣n để
ở cái bánh pháo cột ngang đầu người ở
thân cây cau ngay trước gian giữa. Khi người cuối
cùng lễ xong là đúng lúc cậu Bảo khai hỏa bánh pháo.
Cậu lấy thanh nứa mỏng lấy lửa từ cây
nến trên bàn thờ châm vào ng̣i pháo. Pháo nổ điếc
tai làm có đứa sợ phải bịt tai lại. Sợ
đó nhưng bánh pháo nổ chưa hết đă có vài đứa
xông vào nhặt những cái pháo tịt ng̣i để đốt
lại mong nó nổ cho vui. Mùi thuốc pháo tản mạn
trong không khí mà đám trẻ chúng tôi cho là cái mùi dễ
thương, nó có khả năng đánh thức những
đứa đang buồn ngủ díu cả mắt phải
tỉnh như sáo sậu. Ánh đèn măng - sông mà lúc đó
tôi cho là sáng nhất, sang trọng nhất v́ thôn quê chưa
có điện, rọi những tia sáng khoảng 500watts lên
hai cành đào cắm vào đôi song b́nh lớn, đặt
hai bên bàn thờ, làm tôi ngó những cánh hoa và nụ đào
mơn mởn không chán mắt. Hai cành đào này được
chặt từ cây đào ngoài vườn, hoa to và nở
đúng dịp Tết nên ông tôi cưng lắm. Cây khá già,
cũng phải vài chục tuổi nhưng v́ ông tưới
nước và bón phân đều nên cành lá và hoa nụ của
nó trông như đào đương tơ.
Hồi
xưa ở Bắc Việt không có mai vàng, chỉ có đào
và mai trắng. Mai trắng không đẹp v́ hoa quá nhỏ
và xúm xít từng chùm nhưng mai trắng cho những trái
mơ về mùa hè chua chua, giốt giốt, ngọt, ngọt,
nh́n chảy nước miếng. Một nhạc sĩ tiền
chiến đă đặt nhạc vào thơ trong bài "Cô
hái mơ" trong có câu "Thấp thoáng rừng mơ cô
hái mơ" chính là loại mơ này.
Ông tôi không
cho để cúc nhiều trên bàn thờ v́ chậu trồng
cúc thường hơi lớn, để ở dưới
sàn nhà coi đẹp nhưng thượng lên bàn thờ coi
hơi thô. Ông lựa hai chậu nhỏ, trồng loại
cúc hoa nhỏ màu vàng tươi, đặt hai bên bàn thờ,
phía trong b́nh cắm đào. Miền quê lúc đó không có glaieul
(lay - ơn) nhưng khi từ Hà Nội xuống, ông bà phán
Quế đă chu đáo mua biếu ông bà tôi hai chục bông
lay - ơn màu nhung thẫm, vừa dịp nở loáng thoáng
trong lúc Giao Thừa làm bàn thờ càng thêm trang trọng. Mấy
năm trước ông phán Quế có mang cả Thủy Tiên
xuống nhưng v́ gọt trễ, không bao giờ nở
đúng Giao Thừa nên ông tôi dặn ông phán Quế không mua nữa.
Mùi trầm từ
cái đỉnh hương bằng đồng đă
được đánh sáng trưng đến soi
gương được, tỏa mùi hương dễ chịu
và ấm cúng. Những trái phật thủ, cam sành, quưt
đường, bưởi .. được đặt
trong các đĩa lớn cùng với những thức ngọt
như bánh trôi, chè lam, thức mặn như con gà trống lớn
mới biết gáy luộc nguyên con, xôi gấc v .. v .. và cả
chén đũa như thật sự đăi khách. Với trí
óc non nớt của tôi lúc đó, tổ tiên không thể
ăn uống hưởng lộc được nữa,
nhưng tấm ḷng thành đối với tổ tiên, ông bà,
cha mẹ .. của ông bà ngoại tôi thật đáng quư,
đáng làm gương cho các con cháu để giữ lấy
tập tục cao đẹp là phải đặt chữ
Hiếu Kính lên trên tất cả trong đạo làm người.
Con người chỉ hơn con vật ở chỗ biết
người trên kẻ dưới, biết giữ tam
cương ngũ thường, biết nguồn biết cội.
Để
không quá trễ sau lễ Giao Thừa, ông tôi, ông phán Quế
và bố tôi ra sân nh́n trời và ngắm cảnh vật, nghe
ngóng những âm thanh lúc đó để đoán ra điềm
tốt xấu trong năm mới. Bố tôi giải thích nhiều
nhưng lúc đó tôi chỉ hiểu đại khái nếu
trời quang, mây tạnh, đêm tuy tối mịt tối
mùng, nhưng là cái tối êm đềm th́ có thể đoán
được năm đó được mùa, thời tiết
tốt, đất nước yên vui. Trái lại trời
đất u ám, quạ kêu cú hú, lại pha lẫn tiếng
khóc nỉ non từ đâu đưa tới, như những
oan hồn uổng tử quanh quất hiện về th́ tiên
đoán có thể hạn hán hoặc lụt lội hoặc
bệnh dịch tràn lan trong dân gian, mất mùa đói kém làm
dân chúng khổ sở, lo âu phiền năo. Năm nào lúc Giao Thừa
có tiếng ḅ kêu, ngựa hí hoặc heo ủn ỉn trửng
giỡn trong chuồng là y như ông tôi nói năm mới sẽ
khỏe mạnh, b́nh an, công việc làm ăn phát đạt.
Khi ông tôi trở
lại pḥng khách, đó là lúc hai ông bà ngồi ở trường
kỷ để con cháu lần lượt chúc tuổi. Bố
tôi thay mặt toàn thể gia đ́nh mừng tuổi ông bà
ngoại và ông bà phán Quế. Ly rượu đầu
năm do bố tôi rót được tôi, bé Vân và hai đứa
bé khác dâng lên ông bà ngoại và ông bà phán Quế. Sau đó
người lớn mừng tuổi lẫn nhau, và ĺ x́ cho
đám con nít. Tôi được cả chục cái phong bao
đỏ, trong đựng những đồng xu, đồng
trinh, lúc đó có thể đi mua pháo đốt chơi rôm rả
ba ngày Tết. Lúc mọi người lên giường th́ cũng đă hơn hai giờ
sáng. Ba ngày Tết được nghỉ ngơi, nên dậy
trễ được, mặc dù dân quê có thói quen thức dậy
từ bốn giờ sáng.
Tôi ngủ thẳng
cẳng tới mười giờ ngày mồng một Tết
mới mở mắt ra được trong khi vẫn c̣n
thèm ngủ. Bánh pháo tép của một người khách đến
mừng ông làm tôi thức dậy. Tôi chạy xuống nhà bếp.
Bánh chưng được xếp thành hàng ngay ngắn trên
mấy cái cánh cửa lớn để nén cho chắc bằng
cối đá. Bữa trưa của cả nhà ngày hôm đó
không ǵ khác hơn là bánh chưng xanh mướt, hành nén trắng
phau và gị thủ, gị b́ vui mắt. Tết nhất chỉ thấy
ăn là ăn. Nguyên cái vụ nấu nướng để
phục vụ thần khẩu đă tốn gần hết
ngày giờ. V́ vậy dân quê hay nói:
"Làm như ngày
dưng ăn sao cho hết,
Ăn như ngày Tết
lấy ǵ mà ăn."
Trưa và cả
chiều mồng một, thỉnh thoảng vẫn một
bánh pháo đẹt đùng làm tôi có cảm tưởng, rơ
ràng ngày Tết có cái ǵ vui quá, háo hức quá. Cảnh vật
từ trong nhà đến ngoài vườn, ngoài ruộng, con
người, từ người trong gia đ́nh đến
những người chỉ gặp ngoài đường
trông cũng trịnh trọng khăn đóng áo dài cho đàn
ông con trai, áo mớ ba mớ bảy quần lụa váy là cho
đàn bà, ai trông cũng mới mẻ, tươi vui hẳn
lên.
Trời
thường không mưa nhưng cũng không có ánh nắng,
mây xám thấp thấp của mùa Xuân mới đang gọi
những ngọn gió đông phe phẩy luồn cái lạnh
vào tận da thịt. Ngoài đ́nh làng, nhiều chiếu bạc
được trải ra: tổ tôm, xóc đĩa, bất
cho đàn ông và tam cúc, đố mười cho đàn bà.
Làng không cho đánh lớn v́ sợ sát phạt mất nhà mất
cửa, mất cả lúa giống làm mùa nhưng nếu
đánh nhỏ, gọi là mua vui th́ chẳng sao. Có một số
người chuyên chứa bài, họ tổ chức cờ bạc
ngay tại nhà và lấy xâu lấy hồ, có khi kéo dài hết
tháng hai:
"Tháng Giêng là tháng
ăn chơi.
Tháng Hai cờ bạc,
tháng Ba hội hè .."
Mười
ngày tết nơi quê ngoại qua mau vùn vụt. Tôi buồn khi thấy chú Vững đă bỏ
chiếc áo the thâm và cái khăn lượt chú mặc ba ngày
Tết ra để đóng trở lại bộ quần áo
nâu nhuộm kỹ dầy mo và quấn cái khăn rằn
đen để hai đầu khăn rủ xuống một
bên tai, lại đứng chỉ huy cho sáu anh chân sào sửa
soạn chèo, buồm, dây .. kéo thuyền trở về Trà
Lũ.
Lúc bố mẹ
tôi, chị Thảo và tôi xuống thuyền, ông bà ngoại
và các cậu, các d́, các cháu lại ra bến sông đưa tiễn.
Sáng 27 Tết, lúc chúng tôi đến vui bao nhiêu th́ giờ này
tạm biệt, buồn bấy nhiêu, dù chỉ là sẽ xa
nhau ít lâu rồi lại gặp lại. Bé Vân khóc, nó cứ
đ̣i bố mẹ nó cho đi theo "anh Vũ" sang nhà
bác Trà Lũ, tức bố mẹ tôi. Tôi thấy nó khóc
cũng xao xuyến cả ḷng. Thuyền căng buồm chạy
chầm chậm trong sông. Từ những ruộng lúa hai bên
bờ, tôi thấy lác đác đă có người đang
đổ ải, vài cô gái quê tươi vui vừa tát nước
ruộng vừa hát ḥ đối đáp với mấy anh
chân sào buông lời chọc ghẹo. Thuyền lúc về khá rộng,
chứ không xếp cá hộp như lúc đi, v́ có một số
người ở lại chơi với gia đ́nh thêm ít
ngày nữa. Chuyến sau khoảng đầu tháng Hai, chú Vững
lại sang đưa họ về.
Việc
đầu tiên khi về tới nhà là tôi phải đi t́m
ngay cái cặp, sách vở và lọ mực. Ngay ngày mai thứ
hai, cả hai buổi sáng chiều, tôi phải đi học
rồi. Nh́n mấy cuốn sách cuốn vở, tôi ngán ngẩm
nghĩ đến thầy Nhường, ông thầy đang
dạy lớp tôi, một ông thầy có tiếng giỏi
nhưng nghiêm nghị và khó tính. Tôi lại nghĩ đến
cái tết vừa được hưởng ở quê ngoại.
Ôi sao nó vui và ấm cúng đến thế, tôi được
cưng chiều thỏa măn đến thế! Tôi ngẩn
người nhớ lại những giờ tôi đứng
trên thuyền ngắm cảnh hai bên ḍng sông, những đêm
rúc rích trong cái khoang chật chội tối om toàn người
là người nhưng ấm áp, những phong bao vàng đỏ
mừng tuổi, những cái pháo đại đẹt
đùng, những buổi tung tăng chạy nhảy leo cây
thả giàn ở vườn, ở ruộng nhà ngoại, những
buổi đàn đúm chuyện tṛ đánh khăng, đá
bóng, thảy đáo lỗ v ..v .. với đám em họ và bạn
bè chúng ở Đông Thành.
Cuộc vui
nào cũng có lúc tàn, tôi đă nghiệm ra cái chân lư ngàn đời
này ở vào tuổi đó, nhưng tôi chưa đủ sức
tự trấn an t́m quên trong nhiệm vụ thường nhật
sau những cuộc vui. Tôi cứ ngồi mà nhớ tiếc,
ngẩn ngơ. Thảo nào bé Vân con d́ Mười khóc thét lên
hơn cha chết, khi tôi nh́n nó lần cuối rồi lẳng
lặng xuống thuyền.
Chị Thảo
thấy tôi ngồi tần ngần trước một
đống sách vở, chị biết tôi đang ngại
ngùng nghĩ đến ngày mai phải đi học:
"Vũ à,
ăn tết xong hoặc bất cứ lễ lạc, cuộc
vui nào xong, ai ai cũng ngại bắt tay trở lại học
hành, làm việc. Nhưng nếu em cố gắng cho qua
được ngày mai hay chỉ buổi sáng mai thôi, em sẽ
hăng hái trở lại như lúc trước Tết. Bỏ
sách vở ra ḍ lại đi, có ǵ không hiểu hỏi chị."
Tôi nghĩ chị
Thảo nói đúng. Tôi chỉ cần làm quen lại
được cái không khí học tập ở trường
được vài giờ đầu. Trưa mười
hai giờ về nhà ăn cơm và nghỉ một lát, buổi
học ban chiều từ hai tới năm giờ chắc
là tôi lấy lại đà. Giỏi lên? Tôi không dám chắc một
tí nào, nhưng đỡ ngán ngẩm bài vở thầy cho
th́ may ra. Tôi giở thời khóa biểu để coi phải
chuẩn bị ǵ trước. Hai tuần lễ ăn Tết,
chữ nghĩa tôi rụng đi quá nửa, đừng nói
là học thêm được điều ǵ. Tôi trực diện
những bài toán hóc búa, chính tả, văn phạm, bài học
thuộc ḷng mà thầy Nhường dặn ḍ kỹ càng bữa
23 tết, tự nhiên thấy người như lên cơn
nóng lạnh.
Nhưng giữa
lúc đó, một động lực mạnh mẽ vô song
thôi thúc tôi đến trường. Cả hai tuần ăn
Tết, tôi có gặp Thoa đâu ? Phải rồi, mải vui
ở quê ngoại tôi quên bẵng Thoa đi, quên bẵng cô bé
dễ thương cùng lớp với tôi và là con gái cưng
đầu ḷng của thầy Nhường. V́ vậy tôi
hăng hái bỏ toán ra làm, đọc vang nhà những bài học
thuộc ḷng, v́ cứ nghĩ được gặp lại
Thoa, tôi cảm thấy chan chứa trong ḷng một niềm
vui vô tả.
Tôi thề
độc với quư bạn rằng, lúc đó tôi chỉ
coi Thoa như cô em gái xinh xinh dễ mến, nhẹ nhàng, nhỏ
nhẻ như con chim vành khuyên tôi vẫn tưng tiu trong lồng
để ngắm, để cho chuối, cho hoa, cho nước
chứ tuyệt nhiên không có một t́nh ư ǵ vẩn đục
trong đầu. Tôi không đủ trí khôn để phân tích,
nhưng rơ ràng là muốn có bạn đá banh, đánh
khăng, bơi lội, đánh vật .. nói tóm lại những
môn thể thao nặng, tôi cần mấy thằng con trai
như thằng Phùng, thằng Cửu, thằng Lạ, thằng
Truyện .. nhưng để ngắm và để nhỏ
nhẻ nói truyện - thật sự chỉ có thế thôi -
th́ tôi cần đến một đứa con gái cùng trang lứa,
mười hoặc mười một, mười hai ǵ
đó, học cùng lớp là tốt nhất và hơi đẹp
một tí. Cô bé Thoa con thầy Nhường, ngồi ngay
trước mặt tôi, hội đủ tất cả những
điều kiện trên. Tôi không bao giờ có ư nghĩ cầm
tay Thoa để làm ǵ và cũng chưa bị mấy đứa
tinh ma trong lớp gán cho tôi làm chồng và Thoa làm vợ
như nhiều đứa đă bị, nhưng không hiểu
sao, tôi thích ngắm Thoa và nói chuyện với Thoa, dù vài câu
ngắn ngủi, dù chỉ ngồi nh́n Thoa không thôi, tôi
cũng thấy đầy đủ lắm rồi. Tôi
chưa hề biết danh từ yêu mà cũng chẳng bao giờ
t́m hiểu tại sao hai vợ chồng người ta
ăn ở với nhau lại có con. Tôi nhớ một lần
hỏi mẹ, tôi chui ra lối nào từ trong bụng mẹ.
Mẹ bảo khi tôi lớn lên khắc biết, nhưng tôi
cứ nằng nặc đ̣i biết ngay làm bà phải vạch
bụng ra chỉ ngay vào phần rốn: "Ở chỗ
này này."
Mới tuần
lễ trước khi nghỉ Tết, tôi bị thầy
Nhường khẻ tay một cách rất oan ức. Chung
qui cũng tại thằng Vụ, nó làm tôi bị đ̣n.
Ngày mai đến lớp, tôi lại gặp nó. Có thể tôi
không thù nó v́ trận khẻ tay oan, nhưng v́ lư do khác sâu xa
hơn có liên quan đến Thoa.
Đi học
từ lớp Đồng Ấu (lớp 1 bây giờ) tôi
chưa từng bị thầy giáo đánh vào mông hoặc khẻ
tay như những đứa học sinh khác v́ tuy học
không siêng năng lắm nhưng tôi đủ sức
đoán được thầy hay hỏi những ǵ mà
đối phó. Tôi học theo lối "ăn xổi"
rất nhanh. Mảng chơi ngày thứ bảy, chủ nhật
và có khi cả ngày thứ năm (dạo đó học tṛ học
hai buổi mỗi ngày sáng và chiều, mỗi buổi ba tiếng
hay ba tiếng rưỡi nhưng được nghỉ
thứ năm, thứ bảy và chủ nhật), tôi với
mấy đứa bạn đi câu, đi bơi, thả diều,
bắt chim, hái cam, hái ổi .. có hôm chập choạng tối
mới về đến nhà. Tắm rửa ăn cơm
xong mắt díu lại, làm sao ngồi bàn học bài được
nữa. Ngày hôm sau giờ ra chơi, bạn bè ra sân th́ tôi kiếm
một góc kín ngồi gạo thật nhanh bài vở để
kịp lát nữa trả bài hoặc nộp bài. Có cái lạ,
mấy thầy giáo chẳng bao giờ cho tôi tệ, cứ
trung b́nh trở lên và v́ vậy cuối năm, tôi vẫn
đủ điểm, dư điểm lên lớp.
Thoa ngồi
ngay trước mặt tôi, ở bàn đầu, cùng với
Nhàn, Dung và Trúc. Thoa đẹp nhất trong bốn đứa
con gái. Thoa có khuôn mặt thật xinh. Đôi mắt to
đen rất dễ thương lại có một nốt
ruồi duyên bên khóe miệng, ngay bên trên môi một chút, nốt
ruồi mà nhiều nữ tài tử và ca sĩ phải lấy
bút ch́ đen tự chấm thêm, nốt ruồi tương
tự nốt ruồi của Liz Taylor bây giờ. Tôi mê cái nốt
ruồi của Thoa, tôi thích đôi mắt trong sáng thơ
ngây mà đến bây giờ mấy chục năm, hai bảo
vật ấy của Thoa vẫn c̣n hiện rơ ràng trong cái
trí nhớ kém cỏi của tôi mỗi khi tôi nhớ về
Thoa.
Nhưng Thoa
không phải của riêng tôi. Có một thằng tàn độc
khác xen vào giữa chúng tôi. Nó cao to hơn tôi nhiều và có lẽ
hơn tôi đến bốn, năm tuổi. Nó chính là thằng
Vụ đă nói ở trên. Vụ học trễ đến
bốn, năm năm v́ khi xưa, lúc nhà nó chưa khá giả,
bố nó chưa ra Lư trưởng như bây giờ, nó phải
đi chăn trâu, chăn ḅ. Học hành kém, nhưng nó rất
quỷ quái tinh ma và hay bắt nạt những đứa nhỏ
con, yếu sức hơn nó. Tôi là một trong những nạn
nhân của nó nhưng dù ghét nó hết sức, tôi vẫn phải
ngọt nhạt "nhịn mày, tốt tao." Không có
đứa nào dại dột đến độ chọc
nó để nó giáng những cú đấm thôi sơn vào mạng
mỡ đau đến cả tuần không đi học
được. Đừng có nói đến chuyện
thưa gửi với nó, "con kiến mà kiện củ
khoai," bố nó đương kim Lư trưởng,
thưa đến bố nó cũng là hết. Có lẽ thầy
Nhường cũng ở trong trường hợp
tương tự. Dù nó học dốt nhưng thầy vẫn
cho nó làm trưởng lớp. Mỗi khi đến lớp
và nhất là giờ ra chơi, tôi thấy nó chỉ t́m cách gặp
Thoa. Mặc nhiên, tôi có một địch thủ lợi hại.
Thằng Vụ
ngồi ngay đằng sau tôi, c̣n tôi đằng sau Thoa,
đều là đầu bàn kế lối đi giữa lớp.
Hôm đó
đang giờ Récitation - Bài học thuộc ḷng. Tôi giở
cuốn sách ra nhẩm lại mấy bài để lỡ thầy
Nhường gọi lên đọc bài th́ đọc cho
trơn tru.
Thầy
Nhường có thói quen bắt học tṛ khi đọc bài học
thuộc ḷng phải lên đứng cạnh cái bảng
đen, nh́n xuống bên dưới mà đọc. Thầy
xướng tên bài nào phải đọc bài đó. Đọc
suông sẻ và trả lời được vài câu thầy hỏi
về ư nghĩa trong câu th́ thầy ghi điểm rồi
cho về. Thoát nạn. Nếu ú ớ hoặc tắc tị,
phải đọc bài khác, đọc mệt nghỉ, thành
ra đứa nào cũng sợ cái kiểu trả bài của
thầy Nhường. Đă vậy, học thầy phải
nói tiếng Pháp, không phải giờ Lecture récréative - bài
đọc chơi bằng tiếng Việt - mà nói tiếng
Việt là tới số. Thế nào cũng ăn thước
kẻ hoặc roi mây. Không vào mông cũng vào tay, đến nỗi
tôi c̣n nhớ hai, ba thằng trong lớp, thằng Vẹn,
thằng Củng bị đánh quá phải mặc hai, ba cái
quần thật dầy bên trong. Chúng c̣n lấy thêm vải,
đụp lên cái mông quần cho dầy hơn nữa. Thầy
Nhường không biết, cứ lấy roi mây đánh thẳng
cánh nhưng chúng tôi biết chúng không đau một ly ông cụ
nào v́ tiếng roi nghe bộp bộp chứ không chắc tiếng
như đánh vào thịt. Mấy thằng này làm bộ
nhăn mặt, nẩy người lên khi roi chạm mông làm
như đau đớn lắm cho thầy khoái. Nhưng lúc
thầy cho về chỗ, đứa nào cũng tỉnh bơ
nham nhở một nụ cười thật đểu với
cả lớp. Lẽ dĩ nhiên thầy Nhường không
nh́n thấy những nụ cười "tiểu nhân
đắc chí" đó nhưng không đứa nào dại
dột đi tố giác âm mưu đen tối ấy với
thầy. Lỡ mai mốt chính ḿnh phải xài đến quần
mông đụp cho bớt đau th́ sao ?
Đọc
bài học thuộc ḷng quay xuống, nếu khốn khổ
cho mấy đứa chết nhát và mấy đứa con
gái cả thẹn th́ lại rất được việc
cho đám nghịch ngợm tụi tôi. Bí chữ đầu
ư? Cứ nh́n cái miệng mấy thằng bạn thân là
ra ngay. Đôi khi thầy Nhường vừa phải cộng
sổ hoặc làm việc ǵ riêng tư của thầy tôi
không rơ, thầy đâu để ư thằng đang đọc
thuộc hay không. Có thằng bị bí bèn nh́n cái miệng nhấp
nháy của bạn không đoán ra được chữ mù
ǵ v́ học ở nhà ít quá, có thuộc đâu, bèn liếc lên
thầy, thấy thầy đang mải mê viết lách ǵ
đó, nó bèn bảo thằng bạn bên dưới: "Nói
to tí nữa mày. Tao nghe không được."
Trở lại
cái vụ trả bài bữa đó. Tôi đang lui cui ḍ bài th́
thằng Vụ lấy thước kẻ chọc vào
lưng tôi một cái. Thằng con nhà mất dạy này rắc
rối cái ǵ đây, tôi nghĩ thầm và quay lại: "Ǵ
mày ?" Thằng Vụ trao mảnh giấy học tṛ gấp
tư cho tôi: "Ê, đưa cho Thoa giùm tao". Tôi tính
giơ tay cầm tờ giấy giùm cho nó nhưng nghĩ bụng
làm cái ǵ cho mày th́ được chứ lại làm con chim
xanh giùm mày để mày có Thoa th́ không. Nghĩ vậy,
nhưng tôi ngại sẵng với nó v́ không muốn rắc
rối với cái thứ đầu ḅ đầu bướu.
"Thôi đi mày, tao sợ thầy trông thấy". Thằng
Vụ ĺ lợm, nó cứ ch́a tay ra với tờ giấy.
Tôi đành phải cầm lấy, trong bụng nghĩ giận
cái thằng ôn dịch quái gở này. Tôi có thói quen hễ nhận
lời làm cho ai cái ǵ th́ sống chết cũng phải làm,
dù rằng trong bụng không muốn một tí nào.
Thằng Vụ
thấy tôi chưa gọi Thoa và trao lá thư, nó lại nheo
nhéo ở đàng sau, dù nó hạ giọng xuống rất thầm
th́. Nó c̣n lấy chân thúc lên mông tôi để giục giă nữa.
Tôi trầm
giọng xuống, gọi đàng sau lưng Thoa để
chỉ Thoa nghe được tôi thôi: "Thoa, Thoa, quay lại
tôi trao cái này." Không đụng đậy ǵ ráo, làm
như Thoa không nghe thấy. Tôi gọi lần thứ hai:
"Thoa, Thoa quay xuống đây tôi hỏi một tí."
Thoa cũng không quay lại, nhưng cái mặt cô bé hơi
hơi nh́n ngang sang con Nhàn để tôi thấy đôi mày của
Thoa cau lại có vẻ phản đối v́ bị quấy
rầy đang lúc tập trung trả bài. Đàng sau tôi, thằng
Vụ lại thúc bàn chân lên mông tôi một cái ịch thứ
hai, tôi tức quá buột miệng như một phản xạ
tự nhiên, giọng nói to hơn hai lần đầu:
"Thoa, đă bảo quay lại đây mà!"
Lần này,
Thoa quay lại thiệt nhưng vừa lúc đó, thầy
Nhường cũng nghe tiếng của tôi và thầy quay
xuống. Thầy nghĩ chắc tôi trêu ghẹo cô gái
cưng của thầy hoặc nếu không phải vậy
th́ tôi không thuộc bài, gọi Thoa để hỏi
nghĩa vài chữ khó chăng. Đôi lông mày rậm của
thầy giao nhau, mắt thầy quắc lên, h́nh như thầy
đang có sự buồn phiền ǵ đó ở nhà với vợ
thầy th́ phải như thái độ cáu kỉnh, khó chịu
của thầy mấy hôm nay mà bọn học tṛ chúng tôi
đoán già, đoán non. Thầy hét như sấm bằng tiếng
Pháp, vừa cầm thước kẻ trong tay, chỉ vào mặt
tôi, y như tôi là một kẻ tội đồ ăn
cướp, giết người:
"Lên
đây! Mau!"
Tôi vứt vội
lá thư của thằng Vụ vào hộc bàn, run rẩy lên
bục đứng cạnh thầy, tim tôi đập thùi thụi
như muốn rớt ra ngoài. Tôi có bị cái nhục nhă
như thế này bao giờ đâu. Chỉ tại thằng
Vụ. Chỉ tại cái thằng mặt dày khốn kiếp
ăn mày ăn xin đó. Nhưng tôi nghĩ bụng, nếu
nói ra lư do th́ cả lớp c̣n cười tôi hơn, nhất
là Thoa. Cái mặt tôi thế này mà đi hầu hạ
đưa thư cho gái giùm cho thằng Vụ, một thằng
ít được bạn bè nể nang v́ chuyên môn lấy thịt
đè người và học dở. Thôi đành câm miệng
hến chịu đ̣n cho xong, may ra Thoa lại nghĩ tôi có
nhiều cảm t́nh với Thoa mà để ư đến tôi
chăng. Nhất là để trắc nghiệm xem Thoa có
đau xót khi tôi bị thầy Nhường đánh không. Nếu
có, tôi chẳng cần phải hỏi cũng biết Thoa
để ư đến tôi và tôi sẽ sung sướng
như một kẻ sung sướng nhất trên đời.
Nếu không, tôi phải t́m cách khác hoặc quên Thoa đi. V́
vậy, đă không muốn tránh đ̣n, tôi lại muốn thầy
Nhường đánh tôi thật đau, thật ḅ lê ḅ càng
như mấy thằng Vẹn, thằng Củng để
Thoa thương hại.
Cứ
nghĩ Thoa về thương tôi đến ăn không ngon,
ngủ không yên mà tôi càng muốn chịu đ̣n y như các vị
tử đạo bên Công giáo
khi xưa.
"Giơ
tay trái ra đây."
Cũng cần
phải nói tay phải, tay trái bị khẻ là tùy thầy,
khẻ nặng khẻ nhẹ cũng tùy thầy. Có đứa
bị tay phải và thầy xuống tay nặng quá, tay nó
sưng lên cả mấy ngày không cầm viết được.
Mẹ nó phải lấy rượu chưng với nghệ
bóp cho cả tuần mới khỏi. Tay trái là có vẻ nhân
nhượng hơn, bớt ghét hơn, v́ c̣n nương cho
tay phải để viết. V́ đă có định kiến
"tử v́ đạo" để cho Thoa thương
xót, tôi giơ thẳng bàn tay trái ra một cách hiên ngang, một
cách anh hùng như chưa từng thấy tên học tṛ nào của
lớp thầy Nhường làm vậy. Đa số chỉ
ch́a một cách rụt rè, miễn cưỡng và để
sát trước bụng để thầy không có thế mà
đánh đau v́ vướng ngực, vướng bụng.
Đằng này tôi giơ thẳng tay, vừa tầm thước
kẻ cho thầy đánh. Tôi khẽ liếc nh́n Thoa một
cái xem mặt Thoa có phản ứng ǵ không. Nếu lúc đó
giả sử Thoa bưng lấy mặt và khóc th́ tôi chắc
chắn một trăm phần trăm rằng, tôi có chết
đứng như Từ Hải ngay sau khi bị thầy
đánh cũng vẫn măn nguyện. Linh hồn tôi sẽ biến
thành con chim vành khuyên bay theo Thoa măi măi. Nhưng Thoa chỉ mở
lớn đôi mắt đẹp nh́n tôi, tôi không đoán
được trong cái đầu có mái tóc dài xơa xuống
vai mà tôi rất thương đó, đang nghĩ ǵ về
trận đánh đ̣n này.
Ở đời
thật có nhiều điều ngoài sự ước
đoán của ta. Thầy Nhường với thái độ
giận dữ, cáu kỉnh trời long đất lở vậy
nhưng lại chỉ khẻ rất nhẹ trên tay tôi. Tôi
chỉ cảm thấy hơi tê tê ở bàn tay. Sau ba thước
kẻ thường lệ, có nhiều đứa không x̣e
tay ra nữa mà lùi lũi về chỗ khi thầy chưa
nói hết câu cho lệnh về. C̣n tôi, sau ba thước kẻ,
tôi vẫn x̣e tiếp tục, đến nỗi thầy lấy
làm lạ, giọng hơi gắt: "Về chỗ."
Đó là lần
đầu tiên và cũng là lần cuối cùng bị khẻ
tay trong đời học sinh tiểu học trường
làng của tôi.
Bút Xuân TRẦN Đ̀NH
NGỌC
(Đông
Hải
NDH chuyển)