SU'U TÂ`M 24

Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | HU'U~ ÍCH | NHÂN QUA? | NHÂN QUA? [tt] | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | TA.P GHI | TA.P GHI tt | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | TA.P GHI 50 | TA.P GHI 51 | TA.P GHI 52 | TA.P GHI 53 | TA.P GHI 54 | TA.P GHI 55 | TA.P GHI 56 | TA.P GHI 57 | CHUYÊ.N CÔ? | CHUYÊ.N CÔ? [tt] | CHUYÊ.N CÔ? 1 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | A?O THUÂ.T + TÀI T̀NH | THÚ VI. | THÚ VI. [tt] | THÚ VI. 1 | PHIM HAY | LINKS | CU'̉'I CHÚT CHO'I | TIÊ'U LÂM | SU'U TÂ`M TÊ'U

TA.P GHI 47

 

T́nh yêu trong tác phm Phm Th Hoài

(NGUYN HƯNG QUC)

 

 

Nhà văn Phạm Thị Hoài, giống như Nguyễn Huy Thiệp, cũng nh́n vấn đề t́nh yêu với một cặp mắt đầy ngờ vực. Nhân vật xưng "tôi" trong cuốn tiểu thuyết Marie Sến nhận xét về ḿnh và đám bạn bè quen biết của ḿnh:

 

"Ôi t́nh yêu của chúng tôi cuối thế kỷ hai mươi sặc mùi truyện cũ mốc meo, mùi hiệp khách và giai nhân, như thế là chúng tôi trai nước Việt quyết tiến bộ trên cơ sở một lạc hậu. Trông bề ngoài có thể cả sáu thằng đều là công dân thời đại, không lạ cái computer, biết đổi đô-đê ra đồng, đă thôi chùi đít bằng giấy báo và chấp nhận phần nào luật giao thông, nhưng bên trong, tôi đảm bảo rằng trái tim thằng nào cũng tụt lại vài thế kỷ." (1)

 

Khác với Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài có vẻ muốn truy vấn đến cùng diện mạo thật của t́nh yêu hiện đại. Nỗ lực ấy có thể được nh́n thấy qua cách bà xây dựng các bối cảnh câu chuyện: phần lớn là nhà . Bối cảnh của "Man nương" là một căn pḥng "bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám"; của truyện "Kiêm ái" là một "căn buồng như một ga tàu treo mạo hiểm trên tầng năm"; của "Những con búp bê của bà cụ" là một căn nhà sạch sẽ, "tuyệt vô trùng"; của "Thực đơn chủ nhật" là một cái pḥng và một cái quán; của "Năm ngày" là một căn pḥng và một cái .. giường.

 

Mà không phải chỉ có truyện ngắn; truyện dài của bà cũng thế. Thiên Sứ mở đầu bằng một căn pḥng mười sáu mét vuông. Marie Sến cũng là chuyện xảy ra trong nhiều căn pḥng, trong đó có những căn pḥng được xuất hiện một cách cố ư, ví dụ, giới thiệu ông Viện trưởng trong cơ quan chưa đủ, Phạm Thị Hoài c̣n kéo độc giả về tận căn pḥng ông ấy ở.

 

Có thể nói không gian gia đ́nh là một trong những ám ảnh lớn của Phạm Thị Hoài. Nhưng cũng có thể nói đó không phải là một ám ảnh về hạnh phúc, về một thứ "tổ ấm" như văn chương lăng mạn Việt Nam ngày trước thường thêu dệt. Đó là một ám ảnh về những tính cách và những quan hệ trong xă hội.

 

Những quan hệ ấy biến đổi theo từng truyện, nhưng hầu như ở đâu cũng có một điểm giống nhau: tầm thường và nhạt nhẽo, hay nói như lời một nhân vật phụ trong truyện "Kiêm ái", vốn làm nghề thu tiền điện: "đến nhà nào cũng thấy một con đực và kè kè bên nó một con cái, không rơ có phải của nhau hay không, nhưng xem ra cố định. Nhà nào cũng thế, khiến ông ta nghẹn ngào." (2)

 

Người thu tiền điện nghẹn ngào. Nhân vật xưng "tôi" trong Marie Sến cũng nghẹn ngào như thế:

 

"Nói chung cái quan hệ đực cái ở ta nó nhếch nhác méo mó trong phạm vi toàn quốc, không chỉ riêng nơi tôi. Đàn ông dương vật buồn thiu, đàn bà cạn khô suối t́nh. Chỗ nào rào rạt biển t́nh th́ là một biển cải lương chết ch́m, một biển cải lương rất sến." (3)

 

Tránh nh́n vào "biển cải lương", Phạm Thị Hoài chỉ thấy những sự tầm thường và nhạt nhẽo. Không có chút thiêng liêng nào, đă đành; nó cũng không có cả sự thơ mộng nữa. Mọi mối t́nh h́nh như mang một bộ mặt giống nhau: tầm thường và nhạt nhẽo.

 

Hằng, trong Thiên Sứ, khi quyết định lấy chồng, đă nhờ em gái ḿnh viết tên các t́nh nhân trên giấy để bắt thăm: "Đằng nào chả thế, em nhỉ, họ có khác ǵ nhau." (4) Cô gái trong "Thực đơn chủ nhật" nghĩ đến ngày ḿnh lấy chồng một cách chán chường: "Sau này nhất định tôi sẽ lấy chồng. Những lúc tan hoang như thế này có chút đàn ông bên cạnh và nếu được hôn nữa th́ ngày cũng trôi qua." (5)

 

Người đàn ông trong truyện "Một anh hùng" kể về quan hệ giữa anh ta với vợ: "tôi đă rót đều đều về nhà mỗi tuần một lượng tinh trùng cần thiết để duy tŕ hạnh kiểm của cả đôi bên, cũng như mỗi tháng rót tiền mặt, mỗi năm rót dần những vật dụng mà cô ấy ước ao, toàn những thứ chiếm chỗ trong nhà để đuổi tôi ra ngoài đường." (6)

 

Người đàn ông trong "Năm ngày" th́ thú nhận: "t́nh yêu của tôi như cánh tay tê như ngón chân chuột rút, khó chịu lắm nhưng không cắt phăng đi được. T́nh yêu của tôi như bộ mặt cau có của ông Viện trưởng mỗi sáng thứ hai họp giao ban có người đến muộn, ngấy đến cổ nhưng là thiết thân." (7)

 

Để có thể thưởng thức những kẻ thanh lịch và những mối t́nh đẹp, cô gái bán hàng trong truyện "Second-hand" nghĩ ra cách: mua đầu máy video để xem phim bởi v́ "Bọn thanh lịch ở tuốt trong phim, trước khi yêu đương chúng thong thả tán tỉnh gần hết tập." (8) C̣n cô gái trong "Chín bỏ làm mười" th́ kể lể và nhận xét về chín người đàn ông đă đi qua đời cô một cách b́nh thản, lạnh lùng và bàng quan cứ như là đang b́nh luận về những bộ quần áo ḿnh đă mặc. Khi chia tay với người t́nh thứ chín, cô chỉ thoáng chút bùi ngùi: "Thôi th́ anh là người thứ chín." (9) Dường như cô đang phân vân không biết bao giờ th́ gặp người t́nh thứ mười!

 

Không ở đâu bộ mặt tầm thường và nhạt nhẽo của t́nh yêu được mô tả một cách tập trung và sắc sảo như là trong truyện "Man nương". Cũng giống như truyện "Nhà có cửa khoá trái" của Trn Th Ngh. Sài G̣n trước năm 1975, đây là câu chuyện về một vụ ngoại t́nh. Nhưng nếu "Nhà có cửa khoá trái" là chuyện ngoại t́nh giữa "chàng" và "nàng", đẹp đẽ và lăng mạn, ở đó có lúc nàng mê chàng: "Tất cả những động tác chàng làm, những thói quen của chàng đối với tôi như một thứ rượu làm nghiện. Tôi muốn hớp cả đời sống chàng" (10); th́ "Man nương" lại là chuyện ngoại t́nh của hai kẻ tầm thường, cực kỳ tầm thường, và quan trọng nhất, họ hoàn toàn có ư thức về những sự tầm thường ấy. Người đàn ông biết ḿnh tuyệt đối không có ǵ đặc biệt, và biết người yêu của ḿnh biết là ḿnh tuyệt đối không có ǵ đặc biệt, kể cả cái chỗ đặc biệt nhất của người đàn ông cũng chỉ là "một cục xám nâu thảm hại không đáng một cái liếc mắt của trường phái nạ ḍng âm thầm từng trải." (11) Anh ta cũng biết rơ sự tầm thường của người t́nh của ḿnh:

"Tôi cũng đă nh́n thấy em không phải một trang mỹ nữ với đùi dài thẳng tắp với ngực vênh vểnh và tóc xơa xơa. Man nương, em chẳng có ǵ giống thế. Đă bao lần em đứng trước gương không biết nên trách khuôn mặt hay trách mái tóc hai thứ nhất định không cùng êkíp. Rồi cả hai lại hoàn toàn độc lập với những ǵ c̣n lại. Đă bao lần em gắng thu xếp một tư thế lư tưởng nào đó lúc th́ giấu giếm ngực lúc xua đuổi hai cái xương chậu và chủ yếu là thủ tiêu những đường cong ngược, ôi Man nương!" (12)

 

Nếu trong "Nhà có cửa khoá trái" hai nhân vật lao vào nhau như lao vào một cuộc phiêu lưu, như lời cô gái tự nhủ "Nếu dan díu với đàn ông có vợ là tội lỗi th́ đó là một thứ tội lỗi rất quyến rũ." (13) ở đó, người ta có thể bị lôi cuốn, có thể say đắm, "Đêm, sau đó đẹp như một cơn mưa, chàng xối lên tôi cơn mưa nồng nhiệt hạnh phúc"; (14) trong "Man nương", ngược lại, hai nhân vật ngoại t́nh với nhau như hai công chức đến .. sở làm. Họ gặp nhau vào những giờ nhất định. Nói với nhau những câu quen thuộc nhất định. Làm một số những động tác quen thuộc nhất định. Âu yếm nhau theo một thói quen nhất định. Và cuối cùng, ăn nằm với nhau dường như cũng theo một công thức nhất định.

 

" .. Tôi đỡ em nằm xuống. [..] Tôi ôm em một lúc vừa ôm vừa quạt vẫn phẩy đi là Madonna phẩy về là Maradona. Được khoảng trăm cái tôi mỏi tay em cũng tự động nhích ra. Đến lượt những câu chuyện bâng quơ. Có ǵ mới không em, có ǵ mới không anh, hai câu hỏi và hai cái lắc đầu thế là hết năm phút [..] Làm sao tôi tin được đây là không gian ái t́nh.

Em nhổm dậy xoay lưng cởi áo, tôi cũng nhổm dậy xoay lưng. Bên nào ra bên ấy không có cảnh ngổn ngang vô chủ. Trung thành với truyền thống mảnh trong vẫn ở trong mảnh ngoài vẫn ở ngoài ngăn nắp trên sàn. [..] Rồi chúng ta cùng quay nhanh lại cùng trườn vội vào ḷng nhau cùng nh́n sâu vào mắt nhau thế là mắt khỏi chạm vào những chỗ khác. Tay cũng thế môi cũng thế nói chung cái nào vào cái ấy rồi tất cả cùng trật tự đi tới đích, hoặc thỉnh thoảng cũng không đi tới đích. Tinh thần nói chung là không sáng tạo.[..]" (15)

 

Nếu trong "Nhà có cửa khoá trái", khi rời căn nhà của người t́nh, cô gái c̣n bịn rịn nh́n lại lần cuối, đủ để thấy những sợi tóc c̣n sót trong chăn gối, c̣n bâng khuâng muốn để dành một chút cặn trong "cái ly bôi ḿnh nhắp cạn rồi", th́ trong "Man nương", người đàn bà ra đi với "một nửa nụ cười hiền nhàu nát", c̣n người đàn ông th́ định bụng tặng cho người yêu một nhành cây xanh nhưng cuối cùng cũng quên bẵng đi mất v́ "bận rộn". Có cảm tưởng cuộc t́nh của họ chỉ là một giấc mơ thoáng qua chứ không có thực bao giờ.

 

Nếu chuyện t́nh trong "Nhà có cửa khoá trái" được nh́n bằng cái nh́n của người ngoại cuộc th́ chuyện t́nh trong "Man nương" được nh́n bằng cái nh́n của một nhân viên thí nghiệm, vừa rốt ráo vừa lạnh lùng, lạnh lùng đến độ phũ phàng.

 

Phạm Thị Hoài thường xuyên nhắc nhở người đọc chuyện t́nh bà đang kể là thực tế,cuộc đời, khác hẳn với những ǵ người ta "nghe nói" và nhân vật của bà không phải là những "nhân vật chính trong tiểu thuyết bán chạy nhất". Bằng biện pháp đối chiếu "thực tế" và giả tưởng như thế, Phạm Thị Hoài cứ từ từ bóc dần, bóc dần những huyền thoại và những son phấn ra khỏi t́nh yêu để t́nh yêu hiện trơ ra như một cành cây đă trụi hết lá và hoa. Chỉ c̣n xương xẩu sần sùi.

 

Và những "xương xẩu sần sùi" ấy lại xuất hiện ngay chính giữa đáy sâu tâm hồn con người. Đọc "Man nương" không thể không chú ư đến giọng văn: từ đầu đến cuối chỉ là một lời độc thoại nội tâm của gă đàn ông. Nó vừa chân thực vừa thiết tha lại vừa chán chường làm sao. Th́ cũng vẫn là t́nh yêu, nhưng đó là thứ t́nh yêu mệt mỏi, lấy được. H́nh như trong văn chương Việt Nam, chưa bao giờ có thứ t́nh yêu nào thiếu máu và xanh xao đến như vậy.

 

Hơn nữa, dường như Phạm Thị Hoài muốn xem đó không phải là một hiện tượng cá biệt khi đặt tên nhân vật nữ chính là Man nương. Có thể hiểu Man nương là tên một nữ thần Việt Nam, cũng có thể hiểu là một phụ nữ c̣n man dại, nói như Nguyễn Bính, c̣n đầy "hương đồng gió nội", hay nói theo ngôn ngữ hiện nay, đầy tinh thần truyền thống.

 

Dù hiểu theo nghĩa nào th́ h́nh ảnh của Man nương cũng ít nhiều có tính cách "điển h́nh": nó là điển h́nh cho thứ t́nh yêu của những kẻ giống hệt nhau từ cách ăn mặc đến cách đi đứng, nói năng, ứng xử và cả cách suy nghĩ cũng như cách cảm xúc, những kẻ nam không ra nam, nữ không ra nữ, ở đó, nữ th́ b́nh quyền với nam bằng cách, nói theo Phạm Thị Hoài, trong Marie Sến, "bán sạch những ưu điểm của đàn bà để mua về những khuyết điểm của đàn ông", c̣n nam th́ "lười thối thây và phét lác. Mồm thối hoăng thuốc lào. Cả tuần tâm hồn không động đậy, dương vật buồn thiu. Mỗi ngày teo đi một ít giới tính." (16)

 

Có thể nói nếu trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, t́nh yêu bị đè bẹp bởi ḷng tham lam th́ trong tác phẩm của Phạm Thị Hoài, t́nh yêu bị biến dạng v́ chủ trương xoá bỏ cá tính và bào ṃn giới tính tại Việt Nam trong suốt mấy chục năm vừa qua. Nếu nh́n rộng hơn một chút, sang một số cây bút tài hoa khác, chúng ta cũng bắt gặp một t́nh trạng tương tự: ở Trần Vũ, t́nh yêu bị quyền lực lấn át; ở Đỗ Kh., bị t́nh dục lấn át. H́nh như ở đâu t́nh yêu cũng không nguyên vẹn là t́nh yêu. Ở đâu nó cũng mang cái vẻ, nói như Thanh Tâm Tuyền ngót nửa thế kỷ trước, "tiều tụy khốn khổ, chịu đựng hất hủi như cả một cuộc đời." (17)

 

Chú thích:

 1.Phạm Thị Hoài (1996), Marie Sến, Thanh Văn, California, tr. 91.

 2.Phạm Thị Hoài (1998), Thực đơn chủ nhật, Brandl & Schlesinger, Sydney, tr. 44.

 3.Phạm Thị Hoài (1996), sđd, tr. 77.

 4.Phạm Thị Hoài (1995), Thiên Sứ, nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr. 85.

 5.Phạm Thị Hoài (1998), sđd, tr. 26.

 6.n.t., tr.133.

 7.n.t., tr. 95.

 8.n.t., tr. 71.

 9.n.t., tr. 94.

 10.Truyện ngắn này được in lại trong cuốn Truyện miền Nam, tập 2, của Vơ Phiến (1993), Văn Nghệ xuất bản tại California, tr. 185.

 11.Phạm Thị Hoài (1998), tr. 116.

 12.N.t., tr. 187.

 13.Vơ Phiến (1993), sđd, tr. 179..

 14.N.t., tr. 187.

 15.Phạm Thị Hoài (1998), tr. 124-5.

 16.Phạm Thị Hoài (1996), tr. 16.

 17.Thanh Tâm Tuyền, "Nỗi buồn trong thơ hôm nay", Giai phẩm Văn số ra ngày 8.11.1973, tr. 68.

 

 

Blog NGUYỄN HƯNG QUỐC





website counter