Quan
Âm Tóc Rối
(Huỳnh
Trung Chánh)
Dì Ba nằm võng đu
đưa, lơ đãng thả tầm mắt theo
dõi đám mây bồng bềnh trôi về
hướng chân trời xa tít. Dì bâng
khuâng ví mình như đám mây
trôi lang thang đó, đang lần lần tiến
vào khoảng không gian cuối cùng để rồi
sẽ tan biến vào cõi hư vô mù mịt.
Thời gian trôi nhanh quá, mới
ngày nào dì phải chật vật, lặn lội
đầu trên xóm dưới, làm đủ
mọi nghề nặng nhọc để chắt mót
từng đồng nuôi con ăn học, nay dì
được sống an nhàn hạnh phúc với
gia đình cô con gái hiếu thảo, cùng
hai đứa cháu ngoại ngoan ngoãn quây quần
nên có thể nói dì được Trời
Phật hậu đãi trong chuỗi ngày già.
Thật vậy bà con cô bác ở tại thị
xã Rạch Giá nầy, ai chẳng mơ được
như dì. Dì Ba có hai đứa con : con trai lớn
tên Toàn vượt biên sang Hoa Kỳ, tốt
nghiệp kỹ sư điện tử, kết hôn với
cô gái Mỹ gốc Tây Ban Nha, hạ sanh đứa
con trai kháu khỉnh, công danh sự nghiệp hanh
thông, nghe đâu đã là nhà triệu
phú trẻ; Lan, đứa con gái ở lại
quê nhà hủ hỉ với mẹ, có chồng
là công nhân viên trung cấp, lương bổng
trọng hậu, đã tạo dựng nên nhà
cửa khang trang và có nếp sống vật chất
sung túc hơn người ... Đang mộng mơ ngẫm
nghĩ chuyện xa gần, dì Ba chợt tỉnh lại
khi nghe tiếng reo vui của bé Mai ở ngưỡng
cửa. Con bé thưa ngoại rồi sa ngay vào
lòng thỏ thẻ : “Con hổng muốn đi học
đâu! con nhớ ngoại quá hà!”.
“Oái chu choa! cháu tôi nói nghe dễ
thương làm sao á ! nãy giờ ngoại cũng
trông con về lắm đó!”. Bà
cháu đang nựng nhau, thì có tiếng điện
thoại reo vang, bé Mai nhanh nhẩu nhỏm dậy chạy
lên phòng khách chụp điện thoại :
“A lô ! a lô !” “Dạ có! dạ
có!”. “Ngoại ơi! ngoại! có cậu
Lâm ở Mỹ điện thoại cho ngoại
nè!”. Lâm là con của cô em thứ
năm, đã cùng đi vượt biên một
chuyến với Toàn. Khi Lâm mới rời nước
được hai năm thì mẹ cháu chết, mấy
năm sau dượng năm đi học tập cải tạo
về, theo diện đoàn tụ sang qua Hoa Kỳ với
con, nhưng chẳng bao lâu cũng từ trần.
Lâm thương dì như thương mẹ
nên thỉnh thoảng vẫn gởi quà biếu
và điện thoại thăm dì.
- A lô!
Lâm hả! dì Ba nè con!
- Dì ơi !
con tính cưới vợ dì à!
- Chà ! con
nào tốt phước được con chấm vậy
Lâm? Việt Nam hay Mỹ
vậy con?
- Gia đình
bên vợ con gốc gác Cần Thơ, nhưng con
vợ của con nói tiếng Việt không
rành dì à!
- Ở xứ
người mà con! cầu cho được người
Việt mình là quí lắm rồi!
- Dì à!
Con mồ côi cha mẹ, giờ chỉ còn mỗi
mình dì, nên con ước muốn được
dì đứng ra làm chủ hôn cưới vợ
cho con!
- Đó
là chuyện dĩ nhiên rồi! Bây giờ, con
muốn dì đi Cần Thơ chánh thức
thưa chuyện với người lớn phải
không? Con cứ cho biết ngày giờ và địa
chỉ, dì sẽ tìm đến lo lắng chu
toàn cho con.
- Cả gia
đình bên vợ con đều ở Hoa Kỳ
dì à! Ý của con là muốn mua vé
máy bay rước dì qua đây làm
đám cưới! dì ráng đi một chuyến
dùm con nghen dì!
Dì Ba đang
hăng hái bỗng sượng ngang, dì ú ớ
cất tiếng :
- Đi Hoa Kỳ
hả? Chuyện khó quá há... Ơ ơ...
Dì cầm điện
thoại mà nghẹn ngào. Dì không nỡ
phụ lòng cháu, nhưng sang Hoa Kỳ, thế
nào dì cũng “đụng mặt” đứa
con trai lớn, rồi chẳng biết phải xử sự
làm sao cho vẹn toàn đây. Sau khi rời Việt
Nam vài năm, Toàn gởi tiền về nước
phụng dưỡng mẹ khá chu đáo. Thuở
đó, nền kinh tế trong nước èo uột,
nhờ tiền trợ cấp của Toàn, dì sống
phong lưu, lại vừa nở mặt nở mày với
bà con lối xóm về “thằng con trai
chí hiếu” của mình. Một hôm, bỗng
Toàn điện thoại về hậm hực vặn
hỏi dì : “Con nghe nói dạo nầy má
xài tiền sang lắm phải không? Má
đãi đằng cả xóm, má đùm
bọc chú tư, thím tám, bà hai ...
má còn bỏ tiền bỏ bạc ra xây
nhà cửa cho con Lan nữa phải không?”. Thật
ra, cậy tiền chu cấp của con nên dì Ba
ăn tiêu khá phong lưu, dì cũng
thương con gái nên bù đắp cho
nó; dì nghĩ bên Mỹ hái tiền rất
dễ nên mặc tình khai thác con dài
dài, dì hối thúc con gởi tiền,
đôi khi dì còn than thở bệnh hoạn
để có thêm tiền trợ cấp đột
xuất, và lần nào Toàn cũng nhanh nhẹn
đáp ứng. Dì không ngờ lần nầy
Toàn lại vặn hỏi dì như thế,
nên dì sững sờ khá lâu rồi mới
nhỏ giọng gượng gạo giải thích :
“Má đâu có ăn xài phí phạm
gì đâu, má chỉ giúp vài thân
nhân bè bạn, những người mà
ngày xưa đã từng tương trợ gia
đình mình trong những lúc ngặt
nghèo. Ừa thì má có ra tiền sửa
cái nhà mà má ở chung trong đó,
chớ đâu phải xây nhà riêng cho vợ
chồng con Lan ở đâu con! Má biết con
làm ra đồng tiền cũng cực khổ
nên má đắn đo chi dụng lắm mà,
nhưng sống trên đời nầy đôi khi
thì mình cũng phải biết phải quấy,
giữ vẹn tình nghĩa với bà con lối
xóm con à!”. Toàn hậm hực :
“Tình nghĩa là chuyện của má chớ
không phải là chuyện của con. Con muốn
má phải hiểu rõ rằng con chỉ có bổn
phận với má thôi, má mà mang tiền
ra nuôi thiên hạ, thì phải tự kiếm
tiền rồi dâng nạp, chớ con không ngu dại
gì cung cấp đâu!”. Dứt lời,
Toàn gác máy cái rụp, không cho
dì cơ hội phân bua thêm nữa.
Dì Ba đau
xót lặng người. Đầu óc căng thẳng,
dì suy nghĩ miên man, rồi đoán có lẽ
“ai đó” đã thậm thọt
mách lẻo với Toàn. Suy cùng nghĩ cạn
dì đoan quyết rằng kẻ nhẫn tâm hại
dì chỉ có thể là cô em chồng
mà thôi. Thuở mới về làm dâu,
dì đã từng bị cô em chồng xéo
xắt nầy hành hạ tả tơi, đến nỗi,
đôi phen dì đã toan cắn lưỡi tự
tử mong thoát khỏi cảnh nhục nhằn. Sau khi
chồng dì qua đời, dì đã phải vất
vả ngược xuôi kiếm sống nuôi con
ăn học thì cô em chồng khá giả chẳng
thèm ngó ngàng gì đến đám
cháu, vậy mà, khi Toàn vinh quang nơi xứ
người, thì cô cháu lại xum xoe thân
mật nhau, khiến dì nghe thấy mà ... “gai
con mắt”, thế nhưng nếu dì ngăn cản
con liên lạc với bên nội thì có vẻ
hẹp hòi quá, nên dì đành bấm
bụng làm ngơ. Cây muốn lặng mà
gió chẳng ngừng, dì muốn yên mà
người ta đâu để dì yên. Dì
không ngăn cản con quà cáp cho “họ”,
chẳng những “họ” không cám ơn
dì, mà còn giở trò đâm thọc
độc hại như thế nầy. “Đúng
là thứ oan gia nghiệp chướng suốt đời
đeo đẳng phá hại mình mà!”,
dì than thầm.
Càng suy nghĩ,
dì càng nhớ đến những trận đụng
độ ngày xưa, mà dì luôn luôn
là kẻ chiến bại gánh chịu nhục
nhã dài dài. Từng âm mưu thâm
độc, từng cử chỉ thô bỉ, từng lời
nói đay nghiến ... của cô em chồng cứ
thế mà hiện ra khiêu khích dì, khiến
dì tức tối điên cuồng mà không
thể trút bầu tâm sự cho ai nghe được.
Trăm chuyện chỉ vì thằng con trai háo
danh, quá ngu được cô dỗ ngọt nịnh
nọt tâng bốc đưa lên mây rồi mặc
tình to nhỏ đâm thọc, khiến Toàn nổi
giận nặng lời với người mang nặng
đẻ đau trọn đời đã tận tụy
hi sinh cho mình. Càng suy nghĩ dì càng khổ
đau ray rứt, rồi bao nhiêu căm hờn dì
đem trút ra đầu ngòi bút. Dì hậm
hực viết thơ cho Toàn, lời lẽ khá
chua cay và tuy không hẳn từ con nhưng dì
khẳng định rằng tự hậu dì không
cần con chu cấp tiền bạc hay liên lạc
săn sóc gì nữa. Mấy ngày sau, cơn giận
nguôi ngoai, dì Ba mới nhận thấy phản ứng
mình quá đáng, nhưng thơ đã gởi
rồi, đâu còn phương cách gì cứu
vãn được. Dù sao, dì Ba tin tưởng
Toàn đọc thơ mẹ thì sẽ nghĩ lại
mà xin lỗi dì, rồi tình mẹ con sẽ
đậm đà như xưa. Ngờ đâu,
Toàn chẳng thèm trả lời, và kể từ
đó, chấm dứt mọi liên hệ với mẹ,
không thơ từ, thăm hỏi một tiếng. Dì
Ba muốn nối lại tình mẹ con, nhưng bao lần
ngần ngừ biên thư, cuối cùng dì
đều xé bỏ : mẹ mà phải năn nỉ,
cầu cạnh con thì nhục quá! Từ
đó, dì Ba đành chấp nhận mất một
đứa con yêu. Chuyện đau lòng nầy
dì dấu biệt. Dì vẫn ca ngợi với mọi
người rằng Toàn là đứa con hiếu
thảo đùm bọc mẹ ...
Dì Ba nhớ
chuyện cũ, trầm ngâm chẳng biết phải
giải thích sao cho Lâm hiểu, nên cứ im lặng
chẳng lên tiếng khiến người cháu sốt
ruột hỏi “nhặng” lên :
- Dì ba ơi
! dì còn ở đầu giây không? Dì
tính sao dì? Dì đi Mỹ một chuyến
nghen dì!
- Dì rất
muốn lo cho con, nhưng ,... Ơ ơ, đi Hoa Kỳ
đâu phải dễ a con ... Nghe nói hồ sơ
xuất ngoại khó khăn lắm, mà dì
thì không biết một tiếng Ăng-lê,
thì làm sao dám đi đứng một
mình cho được!
- Con hỏi
thăm rồi! bây giờ chánh quyền Việt
Nam lẫn Hoa Kỳ giải quyết hồ sơ xuất
ngoại cho người lớn tuổi rất nhanh chóng,
dì yên tâm vụ đó đi ...
- Ơ !..
- Con năn nỉ
dì mà ! anh Toàn than nhớ dì lắm, chờ
đợi để gặp lại dì chuyến nầy
đó! Anh Toàn ơi, xin anh năn nỉ dì
giúp tôi đi anh !
Toàn cầm
điện thoại bắt song song bên kia đầu
giây lên tiếng :
- Con đây
má! Con đã bàn với thằng Lâm rồi.
Má sẵn qua Mỹ lo đám cưới cho thằng
Lâm, gặp mặt tụi con luôn, và cũng
cho thằng cháu đích tôn biết bà nội
chớ! Má ráng chạy giấy tờ qua sớm
cho kịp sanh nhựt thằng Bob luôn thể nhé!
Bất ngờ
nghe giọng nói của con, dì mừng mừng tủi
tủi ứa nước mắt. Tuy dì tự ái
lớn “thà chết không nhận tiền
con” nhưng lòng thương nhớ con vẫn tha
thiết khôn nguôi, vừa nghe lời nói
ôn hòa của con, bao nhiêu giận hờn tức
thì tan biến. Giá dù mà có thể
chắp cánh bay được, có lẽ, dì
Ba cũng bay một mạch qua bên kia bờ đại
dương trong chớp mắt để ngắm nhìn
đứa con yêu cho thỏa dạ, nên dì vội
vã đáp :
- Ừa ! má
sẽ lo hồ sơ xuất ngoại ngay! Con yên
tâm!
- Cám ơn
dì ba ! cám ơn dì ba !, tiếng Lâm ở
bên kia đầu giây mừng rỡ reo vang.
Toàn lại
lên tiếng :
- Nhân lễ
sanh nhựt thằng Bốp, con cũng tính mua vé
máy bay cho cô Út qua Mỹ chơi luôn thể,
má nghĩ sao?
Dì Ba
choáng váng bủn rủn tay chân. Toàn
dư sức biết mẹ và cô em chồng nầy
tối kỵ nhau, nhưng cớ sao nó lại bày
ra chuyện trớ trêu nầy. Không lẽ
Toàn thù oán mẹ đến nỗi muốn
làm khổ mẹ dài dài suốt cuộc
hành trình, để rồi sẽ tìm cơ hội
để hạ nhục mẹ trước mặt cô
cho bõ ghét sao? Dì Ba mà biết Toàn sắp
xếp cho cô em chồng cùng đi thì “dẫu
cho vàng” cũng từ chối, thế nhưng giờ
đây, dì đã lỡ hứa, Lâm mừng
vui như mở hội thì dì đâu còn
cách nào để thoái thác được.
Dì đành trả lời buông xụi :
- Ừ ! thì
tiền của con, con làm sao con làm, chớ
má đâu có ý kiến gì !
Cũng may
là cô em chồng tuổi chưa đủ sáu
mươi nên hồ sơ xuất ngoại bị trở
ngại, dì Ba thoải mái ra đi một mình,
nhưng niềm háo hức mong gặp lại đứa
con yêu không còn nữa. Dì phân vân
không biết Toàn sẽ đối xử với
mình như thế nào đây?
Sau một
ngày dài bó gối, ngồi co ro cúm cẳng,
lại phải lăng xăng quýnh quáng lo sợ
điếng người trong hai lần đổi chuyến
bay tại Đài Bắc và Los Angeles, khi máy
bay đáp xuống phi trường Chicago thì
dì Ba đã mệt đuối. Dì lê lết
từng bước nối đuôi theo đám
hành khách bước vào cổng đến,
mà chân hầu như muốn khuỵu xuống . Dì
dớn dác nhìn quanh, lo lắng phập phồng.
“Sao không thấy đứa nào đón
rước vầy kìa?”, dì run run tự hỏi.
Đang hú hồn hú vía, chợt dì Ba
thoáng thấy dáng ai như là Lâm chen
chúc trong đám đông đang vẫy tay loạn
xạ kêu dì, nước mắt tràn ra
ràn rụa, dì mừng rỡ gọi cháu
nhưng âm thanh bỗng tắt mất để biến
thành tiếng nấc nghẹn ngào, mừng mừng
tủi tủi. Dì Ba nhanh chân bước tới
ôm chầm lấy cháu, cất tiếng :
- Chèn đất
ơi! Trông con lạ quắc hà! Con giống dượng
năm như hai giọt nước vậy đó! Uả
!...
Dì đang
tươi cười bỗng chùn hẳn lại.
Dì không thấy Toàn đón mình
nên buồn hiu, muốn hỏi cho ra lẽ, nhưng khựng
lại vì chẳng muốn bộc lộ nỗi niềm
riêng. Có lẽ Lâm đoán được
phần nào tâm sự của dì, nên vội
vã giải thích :
- Dì à!
Anh Toàn bận họp hàng tuần với
nhóm thị trường chứng khoán của ảnh.
Ẳnh là lãnh tụ của nhóm nên
không thể vắng mặt được. Ảnh
căn dặn con rước dì rồi đưa về
“lâu đài” của ảnh ngay, kẻo ảnh
sốt ruột lắm!
Lời giải
thích trên chỉ làm cho niềm đau thầm
kín của dì lắng đọng sâu hơn. Dì
nghĩ : “Bận rộn đến thế nào
dì không biết, nhưng dì biết chắc
con mình không chút nhớ nhung mẹ, nên chẳng
hề nôn nóng gặp mặt người mẹ
già sau gần 20 năm trời xa cách! Ôi!
sao con tệ với má quá vậy con!”
Dì Ba lủi thủi theo
cháu. Trên đoạn đường thăm thẳm
từ phi trường về nhà, Lâm huyên
thuyên kể chuyện. Chàng tận tình giới
thiệu từng đường phố, từng cao ốc,
từng địa điểm lịch sử cho dì,
nhưng bà dì chỉ biết gượng gạo
gật gù cho qua, vì bao nhiêu tình ý của
dì đều lảng vảng xoay quanh bóng
dáng chập chờn của đứa con yêu, với
nỗi hờn giận giăng giăng. Xe dừng lại tại
một ngôi nhà khang trang. Lâm lên tiếng
“Tới nơi rồi! nhà to quá phải
không dì?”. Lâm xuống xe, nhanh nhẹn bấm
chuông. Toàn hiện ra trước cửa, lịch
lãm sang trọng, hân hoan cất tiếng :
“Má! má tới nơi rồi!”. Bao
nhiêu giận hờn vụt tan biến, dì Ba dang
hai tay ôm đứa con cưng, nước mắt
nước mũi tèm lem, mếu máo :
- Cám ơn Trời Phật! cuối
cùng rồi má cũng gặp mặt con! Má nhớ
con lắm con biết không?
Bà ngừng lại ngắm
nghía con hồi lâu cho đã thèm, rồi
mới ngọt ngào mắng yêu :
- Chèn ơi! Hồi con ra đi,
con còn nhỏ xíu, ốm nhom hà! Giờ
thì con cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai hẳn
ra vậy đó !
- Hì! hì! Con muốn nhỏ
xíu hoài để mặc tình nhõng nhẽo
đòi má bồng ẵm như ngày xưa,
mà chẳng được đây chớ!
Hai mẹ con cười vang sung
sướng. Dì Ba không ngờ nguồn hạnh
phúc mà mình chờ đợi bao năm
đã đến với mình dễ dàng
và tràn trề như thế. Dì rộn
rã bước theo con vào nhà. Toàn giới
thiệu Mary và Bob, vợ con của chàng với mẹ.
Dì Ba cũng tay bắt mặt mừng, nhưng vì
tiếng nói không thông, nên buổi đầu
kết thân với dâu và cháu nội
có phần lợn cợn. Sau đó, Toàn lại
hân hoan đưa mẹ đi một vòng
“chiêm báí ngôi biệt thự đồ
sộ đầy đủ tiện nghi tối tân
và sang trọng, cùng cái nhà xe vĩ đại
“ngự” hai chiếc xe hơi láng cóng, rồi
đưa mẹ đến căn phòng dành cho
bà tạm trú, có bình hoa tươi trang
nhã đón chào. Dì Ba rộn ràng niềm
vui vô cùng vô tận. Dì sung sướng,
dì hãnh diện vì Toàn.
Theo chương trình vạch sẵn,
tối hôm đó Toàn tổ chức đại
tiệc mừng mẹ tại một nhà hàng lộng
lẫy nằm trên một tòa nhà chọc trời,
từ trên đó khách có thể quan
sát được cả thành phố Chicago rực
rỡ ánh đèn màu. Thực khách,
ngoài gia đình Toàn, còn có Lâm
và nhóm đàn em thị trường chứng
khoán trên 25 người được mời tham
dự để chia xẻ niềm vui đoàn tụ
to lớn của mẹ con chàng. Lâm ngồi cạnh
dì Ba, thông dịch những lời trao đổi
tán tụng của chủ khách cho dì nghe, khiến
dì càng nghe càng hỉ hả trong lòng. Tiệc
tàn, Toàn hấp tấp đưa mẹ về
nhà, đưa bà đến tận phòng ngủ,
chúc bà ngủ ngon, rồi lui ra. Dì Ba bịn
rịn, muốn níu con lại để mẹ con
tâm tình hả hê, nhưng nghĩ kỹ thấy
giờ khắc đã trễ, dì lại quá mệt
nhọc, nên đành chịu chia tay. Dì nhất
quyết sẽ tìm được những giây
phút riêng tư đậm đà với con
vào ngày mai. Sáng hôm sau, dì Ba thức
sớm trông ngóng con. Chờ hoài, chờ
mãi đến hơn 8 giờ, dì mới mừng
rỡ thấy Toàn áo quần tươm tất,
từ buồng ngủ bước ra. Toàn hấp tấp
hướng dẫn dì đến tủ lạnh chỉ
chỏ thức ăn buổi sáng và trưa, rồi
ra đi ngay, không dành một khoảng trống
nào cho dì han hỏi dông dài chi cả.
Dâu cháu cũng lần lượt ra đi, bỏ
lại dì Ba một mình một bóng, suốt
ngày thơ thẩn buồn tênh trong ngôi biệt
thự mênh mông xa lạ, và chỉ biết
đếm từng giây từng phút trông
ngóng thằng con trai đi làm trở về.
Toàn về nhà, thì đã có vợ
con tíu tít. Rồi Lâm cũng tụ đến.
Cả nhà rần rộ đưa nhau đi ăn
cơm chiều tưng bừng náo nhiệt, nhưng cuối
cùng, thì dì Ba cũng thui thủi giam hãm
một mình trong căn phòng lạnh lẽo, đứa
con trai ở phòng bên cạnh mà dì cảm
giác như mẹ con dì cách biệt nghìn
trùng.
Ở Việt Nam thì mẹ con,
bà cháu xúm xít bên nhau, chớ
đâu có cái cảnh ai ở phòng nấy
như thế nầy. Ôi, tuy cùng sống chung một
nhà mà dì Ba tìm hoài cái cơ hội
riêng tư thuận tiện để tự do bày
tỏ tình mẹ con thắm thiết đậm
đà ngày xưa mà coi bộ khó khăn
quá. Sau mấy ngày băn khoăn tìm hiểu,
cuối cùng dì Ba đành phải đau
lòng chấp nhận sự thật, sự thật
mà dì đã cố tình chối bỏ, chớ
đúng ra thì dì cũng đã mường
tượng ra điều nầy ngay giây phút
đầu tiên gặp con rồi : Toàn vẫn
còn giận dì. Trước mặt mọi người
Toàn đóng kịch là đứa con có
hiếu, vồn vã đón tiếp mẹ, tiệc
tùng tưng bừng, ăn xài phong lưu ...
nhưng tất cả chỉ toàn là hình thức
mà chẳng chút thâm tình. Dì đi
đường xa mệt nhọc, Lâm lộ vẻ
xót xa, còn Toàn thì tuyệt đối
không, không một chút lưu tâm nhỏ
đến sức khỏe, đến nếp sống của
mẹ trong nước. Toàn cũng chẳng màng
han hỏi gia đình cô em gái cùng
đám bà con họ hàng bên ngoại.
Ngược lại, Toàn thường đề cập
đến họ nội, và cứ nhắc nhở
mãi - có lẽ nhằm trêu tức mẹ - về
những số tiền mà Toàn đã vung
vãi gởi về chu cấp cho cô út. Tánh
tình Toàn xưa nay vẫn thế. Thuở nhỏ,
Toàn thương em vô cùng, nhưng đứa
em phải tuyệt đối vâng lời, chớ
còn dám trả treo chống đối, thì
Toàn sẽ làm đủ mọi phương
cách để hành hạ tơi bời, cho đến
khi nào đứa em phục tùng mới thôi.
Bây giờ Toàn đã có danh vọng bạc
tiền, có đám đàn em tâng bốc,
nên có lẽ Toàn càng sắt đá
áp dụng chủ trương nầy. Và do
đó, dù là mẹ, có lẽ dì cũng
phải tuyệt đối phục tùng Toàn
thì mới mong được đứa con
đoái hoài. Dì chép miệng thở
dài, rưng rưng hai giòng nước mắt, rồi
lẩm bẩm một mình : “Má vẫn
là má. Má làm sao có thể nịnh bợ
tâng bốc con để cầu xin quyền lợi
như người ta được! Con cũng biết
má quá mà. Tự ái má lớn lắm,
đời má chỉ có hai lần mà má
phải chịu nhục nhã quy lụy người ta
mà thôi. Lần đầu, là cái lần
mà con cặp bè cặp đảng mang dao vô
trường bị đuổi học, vì tương
lai con, má phải lạy lục ông Tổng
giám thị, xin cho con học lại. Và lần thứ
hai, là lần con vượt biên, má không
đủ tiền chung nên phải khóc lóc van
nài chủ tàu châm chế. Không lẽ, giờ
nầy má lại phải van xin con chút tình
thương sao Toàn?”.
Chiều hôm đó, dì
Ba viện dẫn rằng đám cưới đã
gần kề, dì có nhiều chuyện cần phải
bàn bạc chi tiết trước với Lâm,
nên nhất quyết đòi đến nhà
Lâm ở đôi ngày. Nơi Lâm cư ngụ
là một chung cư, và tuy cũng đầy
đủ tiện nghi, nhưng so với ngôi biệt thự
của Toàn thì là cả một trời một
vực. Lâm nhường cho dì cái phòng
duy nhất và nằm ngủ trên cái ghế
dài. Thấy hoàn cảnh cơ cực của
cháu, dì Ba ái ngại hỏi :
- Con cũng là kỹ sư
như Toàn, tiền bạc chắc con cũng không
thiếu. Sao con không mua cái nhà cho rộng
rãi?
- Lương hướng thì
con với ảnh không khác, nhưng anh Toàn
tài ba lắm dì ạ! Anh nghiên cứu thị
trường chứng khoán, tiên đoán
giá cả lên xuống chắc như bắp,
vì vậy nên đám bạn bè chạy
theo ảnh mới tôn ảnh là thủ lãnh
đại ca chớ. Mấy năm nay ảnh thành
công lớn về chứng khoán nên đã
kiếm được bạc triệu rồi! Thật ra,
thì con cũng có dư chút đỉnh tiền,
nếu mua ngay cái nhà nhỏ nhỏ cũng
được, nhưng mà con thích ở chung
cư để nhớ lại cái thời mới qua Mỹ
dì ạ. Thuở ấy tụi con nghèo lắm,
chung cư như thế nầy mà chứa đến
bốn năm đứa. Cả đám vừa
làm vừa học, đầu tắt mặt tối, mặc
không đủ ấm, ăn không đủ no,
thèm khát một ly cà phê, một lon nước
ngọt cũng không dám uống ... thiếu thốn
như vậy đó, mà anh Toàn vẫn
có thể ke re cắc rắc chắt mót từng
đồng từng xu, gởi tiền về Việt Nam,
cái đó mới đáng phục chớ!
Dì Ba nghe Lâm kể chuyện
mà rúng động tâm can. Dì thật
không ngờ, thời đó muốn gởi tiền
về cho dì, Toàn đã phải chịu khổ
sở nhường ấy. Thảo nào, khi nghe dì
phung phí tiền bạc bừa bãi, Toàn
đã có phản ứng khá thô bạo
khiến mẹ con giận nhau. Giờ đây, thì
dì mới hiểu ra và thông cảm được
nỗi hằn học của con ngày trước.
Dì cháu chuyện trò
vui vẻ, chung cư nhỏ bé thân mật đầm
ấm, dì Ba cảm thấy khung cảnh sống ở
đây thoải mái hơn những ngày lưu
trú tại nhà Toàn nhiều lắm. Lâm
đi làm, dì Ba tự nhiên như nhà của
mình, dì quét dọn sạch trơn, dì nấu
cơm nấu nước chẳng úy kị gì cả.
Lâm lại chu đáo mang về mấy băng video
phim truyện và nhạc tiếng Việt nên
dì cũng có thể xem lai rai cho đỡ buồn.
Trước ngày đám cưới dì Ba cẩn
thận viếng thăm nhà gái, bàn bạc
vài chi tiết cho ngày cưới, nhờ vậy,
nghi lễ tổ chức ngắn gọn mà vẫn
đầy đủ, xuôi gia tương đắc
đậm đà tình thâm, và không
khí bữa tiệc cũng vui vẻ rộn ràng.
Sau tiệc cưới, phải nhường chỗ cho vợ
chồng trẻ hợp cẩn, dì Ba đành
“di tản” về nhà con một đêm.
Dù đây là đêm cuối cùng của
dì tại Mỹ Quốc, mà Toàn vẫn tiếp
tục lạnh nhạt như thường lệ.
Đêm đó, dì Ba trằn trọc ngủ
không yên, dì nghe Lâm kể hoàn cảnh
của con ngày mới tới Hoa Kỳ mà
thương đứt ruột, nên muốn dẹp tự
ái hòa giải với con. Thế nhưng, dì
cứ ngại con mình hiểu lầm rằng mình
đã hòa giải không do tình
thương mà chỉ vì muốn được
trợ cấp tiền, nên dì cứ đắn
đo mãi, viết rồi lại xé hàng
mươi lần mới tạm vừa ý. Dì viết
:
“Toàn con,
“Từ bao giờ, hai con vẫn
là niềm hi vọng, nguồn vui vô tận của
má. Trong nước, má gần gũi với vợ
chồng con Lan, thấy chúng nó sung túc, an vui
nên má cũng yên tâm phần nào.
Lúc đó, má không hiểu đời sống
của con ra sao, nên trong lòng vẫn còn
chút băn khoăn. Giờ đây, má
đích thân thấy được sự
thành công của con tại xứ người,
má yên tâm lắm, có thể nói niềm
vui của má tăng lên gấp bội.
“Đời má bao phen
thăng trầm, nhưng khi về già mà
được như vầy là phước đức
lắm rồi. Con cái thành người, tuổi
má đã ngoài 65 kể ra cũng thọ,
má còn đòi hỏi gì nữa chứ?
Bây giờ, nếu má phải giã từ cuộc
đời theo ông bà cha mẹ, má tin rằng
mình sẽ thanh thản ra đi không chút bận
lòng.
“Má chỉ mơ ước
một điều, là một ngày nào
đó má sẽ đón nhận được
hai tiếng “má ơi !” ngọt ngào
thân thương từ thằng Toàn ngày
xưa, hi vọng nhờ đó mà cái âm
thanh kênh kiệu lạnh nhạt của ông
Toàn kỹ sư triệu phú - đang đeo
đuổi châm chích đôi tai của má,
khiến má tan nát cả cõi lòng -
có thể bôi xóa đi được.
“Má thương của
con.”
Dì Ba xếp thơ để lại
trên bàn, tin tưởng có ngày con
mình sẽ đọc, sẽ cảm động
và mình sẽ đón nhận lại tình
mẹ con thiêng liêng ngày trước. Theo
đúng chương trình đã đề ra,
sáng hôm đó, vợ chồng Lâm đến
đón dì Ba ra phi trường, cùng đi với
dì đến Los Angeles. Lâm chu đáo
đưa dì vào cửa ra sân bay quốc ngoại,
chờ chuyến bay của dì cất cánh, mới
tiếp tục lên đường đi hưởng
tuần trăng mật tại vùng biển San Diego.
Dì Ba an tâm về nước
với nỗi buồn vui lẫn lộn. Dì sung sướng
trở về quê hương, với xóm làng,
với thân tộc, để được tung
tăng nói tiếng Việt, hồn nhiên suy tư
và sống hài hòa trong môi trường
và tâm tình quen thuộc của mình. Chuyện
gì của nước Mỹ dì sẽ bỏ lại
bên Mỹ. Tuy quyết định như vậy,
nhưng nỗi hận sầu vẫn đeo đuổi
dì, ngày ngày dì thấp thỏm chờ
đợi tiếng điện thoại reo, mơ mộng
nghe giọng nói thân thương của con
mình vọng lại, nhưng tiếng điện thoại
đó dì chờ mỏi mòn, mà nó vẫn
lặng im ... Dì Ba chôn kín niềm đau chẳng
thổ lộ cùng ai, nhưng càng chôn kín
thì nó càng ray rứt hoành hành dữ
dội. Dì ngã bệnh liên miên,
đôi khi trở bịnh trầm trọng tưởng
chừng như nguy ngập, thế nhưng bác sĩ
thử nghiệm đủ mọi cách vẫn
không truy ra bệnh lý. Cuối cùng, dì bỗng
sực nhớ đến chùa Thập Phương,
ngôi chùa đã từng chở che an ủi
dì trong suốt quãng đời u tối ngày
xưa. Đi chùa, tụng kinh lễ Phật giúp
dì vơi nhẹ đôi phần u uất. Dì lại
có dịp thổ lộ nỗi niềm tâm sự
cùng thầy, nghe thầy khuyên giải nên lần
lần cũng thấm hương vị đạo.
Dì bỗng khám phá ra rằng liên hệ
giữa vợ chồng con cái chẳng qua là
liên hệ của nghiệp báo. Do việc tạo
tác : ân, oán, nợ nần ... với nhau,
mà nghiệp lực mới lôi kéo quây quần
bên nhau để mà vay trả, trả vay. Dì
nghiệm rõ rằng dì đã hết sức
lo lắng cho con, trả nợ cho nó thật đầy
đủ. Nợ nần thanh toán sòng phẳng, chủ
nợ bỏ đi không đòi hỏi gì nữa,
cớ sao mình lại cứ vùng vằng theo đuổi
mặt giận mặt hờn đòi trả thêm nợ,
để rồi chỉ gây thêm nghiệp chướng
chớ nào có lợi chi đâu? Nhờ nghĩ
như vậy, mà nỗi hận sầu tan biến lần,
và càng ngày dì càng cảm thấy vững
chãi thảnh thơi trong sự chở che của Tam Bảo,
nên thường quanh quẩn trong chùa lấy việc
chấp tác công quả làm nguồn vui.
Tình hình kinh tế tại
Hoa Kỳ đang trong thời kỳ cực thịnh, bỗng
bắt đầu xuất hiện vài dấu hiệu
suy yếu. Giới kinh doanh chứng khoán rất
bén nhạy, họ rình rập từng biến
động nhỏ của nền kinh tế, nghiên cứu
cặn kẽ từng ngành, từng công ty ... để
bán ra mua vào, vì vậy mà giá cả
chứng khoán tùy theo luật cung cầu trồi sụt
bất thường, thay đổi từng giây từng
phút. Sau khi đánh hơi được sự
đình trệ, Toàn và đồng bạn
nhanh tay thanh toán phần lớn chứng khoán,
và như vậy, tuy họ phải chấp nhận
thua lỗ phần nhỏ theo đà đi xuống
chung của thị trường chứng khoán nhưng
họ đã bảo toàn được phần lớn
vốn liếng. Tuy nhiên, những kẻ có
máu kinh doanh như chàng thì đâu ai chịu
ngồi yên nhìn đồng tiền của
mình ù lỳ không sanh lợi. Toàn cảm
thấy có sự thôi thúc phải
“tái xuất giang hồ” nên ngày
đêm quan sát, nghiên cứu thị trường
thật kỹ, rình rập cơ hội lý tưởng
để tung tiền ra làm một mẻ lớn thu về
bạc triệu mới hài lòng. Vài kinh tế
gia nhận định rằng do tình trạng bầu
cử Tổng Thống bị kéo dài, đường
hướng kinh tế không có người chỉ
đạo nên tình trạng đình trệ mới
tạm thời xảy ra; nay tranh chấp bầu cử sắp
kết thúc, quỹ tiền tệ liên bang lại
rục rịch giảm lãi xuất, nên chắc chắn
nền kinh tế sẽ có triển vọng khởi sắc
trở lại. Tán đồng quan điểm lạc
quan nầy, Toàn liền chọn xí nghiệp
điện toán Habaco để đầu tư. Habaco
có lực lượng tài chánh hùng hậu,
thị trường quốc tế bao la, sản phẩm
đa dạng .., mà trị giá cổ phần hiện
tại đã bị trụt từ sáu mươi
đồng chỉ còn tròm trèm có bốn
mươi đồng, theo chàng thì đây
là mức chót không còn cách chi để
giảm được nữa. Do đó, Toàn quyết
định tung hết tiền dự trữ thu mua loại
cổ phiếu nầy.
Toàn có lối đầu
tư táo bạo là chỉ trả một phần
ba trị giá cổ phần, nên có thể thu
mua được gấp ba lần số vốn, nhờ vậy
nhịp độ lời tăng gấp ba, và nếu
lỗ thì cũng nhanh chóng tương tự. Chỉ
vài ngày sau giá cổ phần tăng lên
năm đồng, nếu muốn ăn non bán ra ngay
thì Toàn đã nhấp nháp được
vài trăm ngàn rồi, nhưng Toàn dự
trù chờ mức lời tăng gấp đôi
thì bán cũng không muộn. Không ngờ
chỉ hai ngày sau trị giá cổ phần bỗng
tuột dốc xuống đến sáu đồng.
Toàn chỉ lỗ chút đỉnh nếu bán
“chạy làng”, nhưng chàng cương
quyết giữ nguyên trạng vì tin tưởng
giá cả sẽ phục hồi trong thời gian ngắn.
Thế nhưng trái với dự đoán của
chàng, thị trường chứng khoán nói
chung xuống dần, xuống nhanh một cách thê
thảm, đến nỗi cứ vài ngày thì
Toàn phải vận dụng thêm tài chánh
để bù đắp phần thua lỗ. Toàn
đã lần lượt vét hết tiền trong
sổ tiết kiệm, trong các thẻ tín dụng,
rồi đến quỹ dự trữ học phí cho
con, để bù lỗ mà vẫn chưa đủ,
chàng bèn nghĩ đến tư trang và tiền
riêng của vợ, nhưng năn nỉ thế
nào con Mary cũng chẳng xiêu lòng. Khi trị
giá cổ phần công ty Habaco xuống còn
mười Mỹ kim, Toàn không
“đào” đâu ra tiền mặt bù
lỗ nữa nên đành để cho công ty
môi giới đầu tư đem cổ phiếu của
chàng ra thanh toán trừ nợ. Thế là chỉ
trong vòng bốn tháng, từ một nhà triệu
phú Toàn đã trở thành kẻ trắng
tay. Đau đớn một điều, là chỉ
ngay ngày hôm sau giá cổ phần đã
tăng lên liên tiếp và tạm ổn định
ở mức mười bảy, mười tám Mỹ
kim. Do đó, nếu Mary chịu mở hồ bao cứu
nguy chồng kịp thời thì toàn bộ cổ
phiếu đã được bảo toàn, sự
nghiệp của chàng đâu đến nỗi
tiêu tan như thế nầy. Toàn hận vợ
vô cùng, nên tuy trong lòng cố gắng giữ
hòa khí mà nỗi ấm ức thỉnh thoảng
cứ trào ra, thành thử tình cảm vợ
chồng đã bắt đầu sứt mẻ.
Đúng lúc đó thì xí nghiệp của
Toàn bị lâm nguy, thợ thuyền bị sa thải
hàng loạt, Toàn tưởng mình đã
may mắn thoát nạn, nào ngờ chương
trình cắt giảm sở phí lan dần đến
nhóm chuyên viên, để rồi cuối
cùng chàng cũng lâm vào cảnh mất việc.
Thất nghiệp, tù túng,
thiếu hoạt động, mất bạn bè,
Toàn bực bội trong lòng, lúc nào cũng
muốn gây sự, không khí gia đình
vì vậy mà đâm ra ngột ngạt
khó thở. Giận vợ, Toàn bỏ sang
phòng dành cho khách ngủ, phòng nầy từ
khi mẹ chàng trở về Việt Nam vẫn bỏ
trống và chẳng ai có nhu cầu bước
vào. Toàn bất ngờ khám phá được
bức thơ mẹ để lại. Toàn đọc
thơ trong sự xúc động nghẹn ngào. Mẹ
chàng trọn đời thương yêu, tận tụy
hi sinh cho chàng, bà viết thơ rầy la
chàng tuy có hơi nghiêm khắc, nhưng
bà là mẹ, bà rầy la chẳng qua vì
thương yêu dạy dỗ chớ nào có
ý ghét bỏ con, cớ sao ta lại có thể
giận hờn mẹ, đối xử với mẹ
tàn tệ như vậy kìa? Toàn muốn chụp
điện thoại liên lạc với mẹ ngay,
nhưng một chút hổ thẹn bỗng len lỏi
trong lòng, khiến chàng ngừng lại. Toàn
nghĩ : “Lúc hưng thời thì giận hờn
ghét bỏ mẹ, rồi chờ đến lúc thất
thời mới biết hồi tâm thương mẹ,
thì kỳ cục quá đi!”.
Một hôm Toàn thấy trong
mớ thơ vừa nhận, có giấy tờ của
trường trung học gởi cho cha mẹ học sinh. Bấy
lâu nay, bận rộn làm ăn Toàn bỏ
xuôi việc dạy dỗ chăm sóc, theo dõi
con học hành cho vợ, nay nhân lúc rảnh
rang chàng bèn tò mò mở ra xem. Phong
thơ gồm bản thông báo kết quả kỳ
thi lục cá nguyệt của con, theo đó
thì hai môn Anh Văn và toán quá
kém, khiến chàng vừa lo vừa giận. Hai mẹ
con vừa đưa nhau về nhà, thì Toàn liền
chỉ tay vào mặt thằng con hùng hổ
hét :
- Thằng đầu bò! Mầy
giống ai mà ngu quá! Anh văn và toán
là những môn dễ ợt mà bị điểm
C là sao?
Bob sợ điếng, núp
vào mẹ né tránh, không dám hó
hé lời nào. Mary bực bội nhìn chồng,
rồi lừng khừng cất tiếng :
- Nó ngu giống ai tao không
biết, chớ chắc chắn không giống tao rồi.
Tao đâu có ngu như người ta vậy?
-Mầy nói như vậy
là cố ý nói tao ngu, phải không?,
Toàn sừng sộ.
- Không dám a! mầy khôn
lắm lắm ! Khôn quá mức cho nên mới
mang hết tài sản ra mua thứ cổ phiếu mắc
toi làm tiêu tan cả sự nghiệp chớ?
Toàn chịu đựng hết
nổi. Chính con vợ đã không chịu
lòi tiền ra yểm trợ chàng trong phút
lâm nguy nên chàng mới tiêu tan vốn liếng,
vậy mà, nó còn dám lớn tiếng chửi
chàng ngu thì làm sao chàng chịu đựng
nổi. Toàn giận dữ chửi thề một tiếng,
bước tới “xáng” cho vợ một
tát tay, đoạn vội vã bỏ vào
phòng đóng cửa cái rầm. Chàng biết
mình đã có hành động lầm lỡ
tai hại nên cố gắng im lặng mặc cho mụ
vợ la hét ở bên ngoài ... Tính nết
của Mary chẳng hiền tí nào. Mụ chửi
bới ỏm tỏi, đập phá đồ đạc
lung tung, rồi dộng cửa phòng rầm rầm
thách thức chồng bước ra đấu sức.
Chồng nhịn nhục, cửa đóng then gài
khiến mụ điên tiết hơn, mụ gọi Cảnh
sát khẩn cấp 911 tố cáo vụ hành
hung. Chỉ nội trong vòng hai tiếng đồng hồ
thì cảnh sát đã đến nhà. Sau
khi nghe lời khai thêm thắt của Mary và Bob, họ
gõ cửa phòng gọi Toàn ra, còng tay
chàng dẫn đi ngay, không màng nghe một lời
biện bạch.
Đêm trong tù dài
vô tận. Đau đớn, nhục nhã, ê chề,
Toàn trằn trọc thức trắng đêm, thỉnh
thoảng buông tiếng thở dài não nuột,
kèm theo lời lầm bầm thở than :
“Thôi hết rồi. Mình đã mất hết
rồi. Mất tiền, mất việc, mất luôn cả
vợ cả con. Ôi ! thật không ngờ người
đàn bà mà mình yêu mê say đắm,
đã cùng nhau chia xẻ ngọt bùi trong
mười mấy năm trời lại đang tâm hại
mình như thế nầy. Ôi! còn cái thằng
con duy nhứt mà mình nâng niu như trứng mỏng,
chỉ vì một lời rầy la, mà đã
hùa theo mẹ phản lại cha mình!”...
Sáng hôm sau, Toàn được trả tự
do về nhà. Chàng điên tiết nhìn con
vợ hung dữ, muốn trị tội nó mà chẳng
biết ra tay cách nào cho ổn. Chắc Mary cũng
lo ngại nên nàng dẫn con đi mất. Đến
chiều Mary về nhà, có nhân viên
công lực đi kèm. Nhân viên công lực
tống đạt cho Toàn án lịnh Tòa
án, theo đó, viện dẫn lý do bảo vệ
an ninh cho người đàn bà yếu đuối,
Tòa cấm Toàn không được đến
gần vợ trong vòng một dặm. Điều
đó, có nghĩa là Toàn phải cuốn
gói đi ngay trước sự giám sát của
nhân viên công lực. Toàn chỉ kịp dồn
quần áo vào va-li, xách thêm cái cặp
nhỏ đựng giấy tờ, rồi ra xe lái
đi. Trong khi soạn giấy tờ Toàn lén
nhét khẩu súng ngắn tùy thân vào
cặp, và cũng cất vào đó xâu
chuỗi có tượng Quan Âm mà chàng chợt
khám phá ở góc tủ. Tượng nầy
mẹ Toàn đã ân cần trao cho chàng
ngày vượt biên, từ ngày cưới vợ
khác đạo chàng đã bỏ bê
không đeo nữa, nay vô tình gặp lại mới
nhớ ra.
Toàn lái xe ra đi trong
hoàn cảnh vô cùng bi đát : không
nhà cửa nghề nghiệp vợ con, không tiền
bạc, không một người bạn tâm giao
đỡ đần trong cơn hoạn nạn, còn mớ
thẻ tín dụng thì chẳng còn giá trị
gì nữa. Toàn phóng xe như bay, lái theo
phản ứng chớ chẳng biết sẽ đi
đâu, về đâu. Đầu óc chàng
sôi động rối ren như một bãi chiến
trường : nỗi thất vọng, thù hằn, chua
xót, nhục nhã, tiếc thương ... thay
phiên ngự trị tâm tư chàng và
ý nghĩ chết thì thường trực lảng
vảng trong đầu. Bất chợt thấy một
công viên cây cối um tùm ở vùng ngoại
ô hiện ra trước mặt, Toàn vội quanh
xe lái vào. Công viên vắng tanh. Toàn gục
đầu ngồi trên băng đá, miên man
suy nghĩ. Biến cố đau thương dồn dập
khiến Toàn điên cuồng, thù hận
căm căm, sôi sục trong đầu ý tưởng
bắn giết trả thù, mà trả thù ai
đây? trả thù cả xã hội loài
người chăng? trả thù cái đám
môi giới đầu tư chứng khoán
chăng? hay chỉ riêng con vợ hỗn hào của
chàng? Giết người đâu có lợi
gì cho mình, vả lại, vợ chết ai sẽ
lo cho con đây? Hành động nào suy cho
cùng cũng không ổn cả, trừ khi mình
chết thì mới mong được yên thân
mà thôi.
Ý nghĩ tự tử vừa
lóe trong đầu thì Toàn liền mở cặp,
mân mê khẩu súng, rồi chầm chậm chỉa
vào màng tang bóp cò. Cò súng kẹt
cứng. Toàn sực nhớ lại, kéo khóa
an toàn rồi đưa súng lên bóp
cò lần nữa. Cò súng vẫn kẹt
không nhúc nhích. Kiểm soát lại bộ
phận cò súng, Toàn bỗng chứng kiến
một sự việc kỳ lạ khó tin hiển hiện
trước mắt chàng : chẳng biết bằng
cách nào, sợi giây chuyền có tượng
Quán Thế Âm đã chui vào bộ phận
cò quấn chặt, khiến cò súng không
xê dịch được. Chàng có ngờ
đâu, pho tượng mà chàng không hề
tin tưởng, vượt biên mang theo chỉ vì
muốn chiều lòng mẹ, nhưng trong giờ
phút nghiêm trọng nầy, đã hiển linh
cứu mạng chàng. Toàn xúc động ngắm
pho tượng, một cảm giác yên ổn kỳ
diệu xâm nhập tâm tự Toàn nắm chặt
tượng, khóc như mưa, khóc thay cho tiếng
lòng nức nở kể lể nỗi đớn
đau sầu tủi của mình. Những giọt
nước mắt đã giúp Toàn vơi
đi phần nào nỗi đau thương, chàng
lấy lại chút bình tĩnh nên ý nghĩ
tự tử không còn nữa. Chàng nghĩ
mình phải sống vì mẹ, và phải quyết
tâm làm cái gì cho mẹ vui để chuộc
tội lỗi ngày xưa mới được.
Toàn lái xe rời công
viên. Chàng đang phân vân chẳng biết
đi về đâu, bỗng sực nhớ đến
Lâm, vội lái xe đến nhà người
em bạn dì. Lâm mới mua ngôi nhà ba
phòng khá rộng, nhưng không biết anh ta
có chấp nhận cho chàng tạm trú
vài ngày không? Vợ chồng Lâm tiếp
đón chàng niềm nở. Sau khi nghe Toàn kể
lể hoàn cảnh đớn đau của mình,
Lâm an ủi :
- Câu chuyện của anh tuy
đau buồn nhưng không có gì bi
đát cả, xin anh đừng nản lòng. Anh nhớ
không? ngày xưa anh em mình qua đây
không tiền bạc, không hiểu biết tiếng
Anh, mà mình còn sống được.
Còn bây giờ, anh có cấp bằng đại
học, có xe, có trợ cấp thất nghiệp
trong khi chờ xin việc, vả lại, tiền bạc
anh mất nhiều nhưng đâu có hết, anh
còn tiền hưu trí trong quỹ 401K mấy
trăm ngàn nữa chi ... Anh cứ tạm sống với
tụi em một thời gian, từ từ sắp xếp lại
mọi việc. Theo em, chuyện nan giải là chuyện
hàn gắn đổ vỡ gia đình, chớ
còn chuyện gầy dựng lại sự nghiệp
như xưa, với khả năng của anh thì
nào có khó khăn gì!
Thời gian gần đây,
Toàn chỉ thân tình với nhóm bạn chứng
khoán, đến lúc lâm nguy, họ bỏ
rơi chàng như một con chó ghẻ, trái
lại, người em bạn dì mà chàng
lơ là thì vẫn đối xử với
chàng đậm đà thắm thiết như
xưa. Toàn vừa cảm thấy hổ thẹn vừa
xúc động dạt dào, ấp úng cất
tiếng :
- Cám ơn Lâm ! Không
có em cứu nguy thì chắc chắn anh
đành chịu cảnh ngủ bờ ngủ bụi rồi!
Anh làm sao có thể thuê nhà gấp trong
hoàn cảnh tiền bạc eo hẹp nầy !
- Anh em trong nhà mà ơn nghĩa
gì anh? Nhà em dư đến hai phòng! có
anh ở chung thì vui nhà vui cửa chớ có
thiệt thòi gì cho em đâu?
Từ đó, Toàn yên
thân nương náu tại nhà Lâm. Lâm
lo lắng cho Toàn rất chu đáo, ngoài nhu cầu
ăn ở, Lâm còn bảo bọc cả những
chi tiêu lặt vặt, và luôn luôn an ủi
nâng đỡ tinh thần Toàn, nhờ vậy, lần
lần Toàn hồi phục lại niềm tự tin
và sự khôn ngoan sáng suốt ngày trước.
Toàn nghĩ rằng trước khi bắt đầu
xây dựng lại sự nghiệp, chàng cần ổn
định mái ấm gia đình. Vì vậy,
chàng liền liên lạc với vợ tìm
phương hòa giải, nhưng tình cảm vợ
chồng đã rạn nứt vô phương cứu
chữa, nhứt là sau khi chàng biết rõ
là chỉ sau một tuần chia tay thì Mary
đã nhanh nhẩu cặp tay tình nhân
đú đởn khắp nơi rồi. Sau nhiều
phen điện thoại thương thảo, cuối
cùng cả hai đồng tình ly hôn và cũng
thỏa thuận phân chia tài sản, theo
đó Toàn chỉ được giữ một
xe, Mary giữ con và tất cả tài sản
còn lại, trong đó có nhà, xe hơi,
chiếc ca nô, tư trang và các chương mục
đứng tên riêng. Toàn có điểm lợi
là giữ nguyên được tiền trong quỹ
hưu bổng 401K và không phải cấp dưỡng
đồng nào vì đang là kẻ thất
nghiệp chẳng có lợi tức. Mất vợ, mất
con tuy đau lòng nhưng sau khi giải quyết xong
chuyện gia đình Toàn nghe lòng nhẹ
nhõm ra. Chàng bắt đầu lập hồ
sơ xin trợ cấp thất nghiệp. Tiền trợ cấp
thất nghiệp đủ cho chàng sống khuây
khỏa, nên chàng dự định sẽ nghỉ
ngơi một thời gian, chờ tinh thần thật ổn
định rồi mới xin đi làm lại.
Từ ngày thoát chết một
cách mầu nhiệm, lại hiểu được
nhân tình thế thái, lòng háo hức
lợi danh của Toàn suy giảm lần. Giờ
đây, chàng chỉ ước mơ một nếp
sống bình thường, miễn là không
đến nỗi thiếu hụt, hầu có đủ
thời giờ dành cho việc tu dưỡng thân
tâm, tìm hiểu sâu rộng Phật Pháp
và hành trạng của vị Bồ Tát
mà chàng hết lòng tin tưởng.
Do đó, hàng ngày chờ
lúc gia chủ đi vắng chàng thường
đến bàn thờ Phật có tôn trí
tượng Bồ Tát Quan Âm để lễ
bái, và nghiền ngẫm quyển Phổ Môn
Giảng Lục của Pháp Sư Bảo Tịnh, do
hòa thượng Trí Nghiêm dịch ra tiếng
Việt, mà chàng vô tình tìm thấy
trong tủ sách. Nhờ đọc Phổ Môn giảng
lục, Toàn thâm hiểu phần nào diệu
nghĩa phẩm Phổ Môn, lòng ngưỡng mộ
hạnh nguyện “linh cảm tầm thanh cứu khổ
cứu nạn” của Bồ Tát Quán Thế
Âm ngập tràn. Từ đó, Toàn bỗng
tha thiết mong chiêm bái thánh địa Phổ
Đà Sơn để đảnh lễ Bồ
Tát. Lâm cũng khuyến khích chàng,
nhân lúc rảnh rang nầy, nên đi du lịch
một chuyến sang Trung Quốc. Từ đây về
Việt Nam, chỉ trả thêm chút đỉnh tiền,
sẵn dịp nầy cũng nên về thăm lại
đất nước thân yêu.
Theo gợi ý nầy, Toàn lấy
vé hàng không đi Thượng Hải,
chàng viếng thăm Tô Châu, Hàng Châu,
rồi đến Ninh Ba dùng tàu tốc hành
đến Phổ Đà lưu trú tại
khách sạn Tức Lai Tiểu Trang một tuần lễ.
Toàn đến đảo Phổ Đà vào một
chiều thu tuyệt đẹp : biển xanh, trời trong
cao ngất, mây trắng lửng lơ. Cảnh trí
ở đây xinh tươi trang nhã vừa phảng
phất một bầu không khí mầu nhiệm
thiêng liêng, tạo cho khách hành
hương cảm giác lâng lâng thanh thoát.
Toàn được hướng
dẫn viên lần lượt đưa đi
chiêm bái các thánh tích trên đảo
: tượng Quan Âm Nam Hải bằng đồng cao
33 thước, Quan Âm khiêu (vết chân Bồ
Tát trên tảng đá), Quan Âm tử
trúc (rừng trúc tím), Phạm Âm Hải
Triều Âm động, Viện Quan Âm Bất Khẳng
Khứ, các chùa Phổ Tế, Pháp Vũ
và Huệ Tế. Theo người hướng dẫn
thì nơi nào cũng có truyền thuyết về
sự thị hiện mầu nhiệm của Bồ
Tát, Bồ Tát luôn luôn thị hiện cho
những kẻ có lòng thiết tha mong cầu
được gặp Ngài. Ở địa điểm
nào, Toàn cũng chân thành đảnh lễ
Bồ Tát, thiết tha niệm danh hiệu của
Ngài và thành khẩn mong được thấy
Ngài thị hiện. Toàn nghĩ mình
đã có đại nhân duyên từng
được Bồ Tát cứu khổ cứu nạn,
nên tin chắc cũng sẽ có duyên để
gặp Ngài thị hiện. Thế nhưng, tuy
đã thành khẩn lễ bái khấn nguyện
bao ngày tại động Hải Triều Âm
và rừng trúc tím mà Toàn vẫn
chưa thấy dấu hiệu gì khác lạ.
Dù vậy, Toàn vẫn không nản lòng.
Ngày cuối cùng, Toàn
còn nấn ná đến chùa Phổ Tế,
điện Viên Thông chiêm bái lần
chót trước khi rời đảo. Điện
Viên Thông nổi tiếng với pho tượng
Quan Âm cao trên 8 thước, hùng vĩ hòa
ái. Toàn thành kính chiêm ngưỡng
tượng. Chàng có cảm giác là
càng chiêm ngưỡng chàng càng
đón nhận được lòng từ bi
vô lượng của Bồ Tát ban phát cho
chàng, khiến chàng xúc động nước
mắt lưng tròng, pho tượng qua làn nước
mắt trở thành lung linh sắc vàng rực rỡ.
Toàn đi kinh hành quanh tượng, chàng tiếp
tục chiêm ngưỡng “Quan Âm tam thập nhị
ứng tùy hình”, tức 32 hình tướng
mà Bồ Tát tùy duyên hóa hiện
để cứu độ chúng sanh. Chàng nghĩ
mình phải tạc dạ 32 hình tướng nầy,
thì khi gặp Bồ Tát thị hiện mình mới
không bỏ lỡ cơ hội thấy Ngài. Vừa
quan sát từng hình tướng, Toàn vừa
thầm khấn nguyện : “Con chưa có duyên
để thấy Ngài thị hiện nơi
đây, nhưng con luôn luôn tin tưởng rằng
ngày nào đó Ngài sẽ thị hiện
cho con thấy một lần tại chốn khác”.
Bỗng nhiên, Toàn nghe nhà sư già đứng
cạnh bên lẩm bẩm một mình : “Sao chỉ
tạc có 32 tượng? 32 tượng thì
ít quá!”.
Tượng tạc theo tinh thần
phẩm Phổ Môn, vậy mà nhà sư nầy
dám chê bai là ít, thật là sai lầm,
Toàn nghe chói tai không chịu được,
bèn bực bội lên tiếng :
- Vậy theo sư thì bao
nhiêu tượng mới đầy đủ?
- Hà! hà! Bồ Tát
tùy tâm chúng sanh biến hiện để cứu
độ, mà tâm chúng sanh thì muôn
vàn sai khác, ưa thích vô lượng
vô biên hình tướng, nên Bồ Tát
cũng phải ứng hiện vô lượng vô
biên hình tướng để cứu độ
...
Toàn nghe câu nói của
lão tăng mà rúng động cả châu
thân, liền cung kính thưa hỏi :
- Thưa thầy ! như lời thầy
dạy thì Bồ Tát Quan Thế Âm thị hiện
dưới muôn ngàn hình tướng khác
biệt chớ không phải chỉ hạn cuộc
vào 32 hình tướng nầy mà thôi?
- Đúng vậy! Quan Âm thị
hiện đủ mọi hình tướng và ở
khắp mọi nơi nên mới có câu :
Ao nào cũng có ánh trăng
Nhà nào cũng có Quan Âm hiện
tiền.
Tóm lại, ai cũng
đã từng đối diện với Quan Âm,
nhưng có người thấy và có người
không bao giờ thấy?
- Thưa thầy! mình phải tạo
nhân duyên nào thì mới thấy được
Ngài?
- Phải tập nhìn, tập lắng
nghe cái khổ của thế gian, tập hạnh từ
bi cứu khổ cứu nạn thì vô lượng
vô biên ứng hóa thân của Bồ
Tát sẽ thị hiện ràng ràng trước
mắt.
- Thưa thầy! theo nghĩa nầy
thì con cũng đã từng hội kiến với
Bồ Tát Quan Âm mà con không biết, phải
không thầy!
- Đúng vậy!
- Con sẽ ráng học hạnh
lắng nghe, hạnh từ bi, nhưng e rằng đạo
đức của con hèn kém, con sợ mình
chưa đủ đạo lực để nhận biết,
thầy ạ! Xin thầy gia ơn chỉ cho con biết
Quan Âm mà con sẽ gặp hình dáng như
thế nào? Con năn nỉ thầy mà !
- Ơ! Con sẽ gặp vị Quan
Âm đó ở miền Nam nước Việt. Khi
gặp Ngài, tâm con sẽ an ổn vui mừng, thầy
tin con sẽ nhận ra Ngài ngay kia mà !
- Xin thầy làm ơn dạy
rõ thêm chi tiết! Con sợ con sơ sót bỏ
lỡ cơ hội và nhìn không ra Ngài
được!
- Ơ ! ... đó là người
đàn bà, mặc áo lam, chân tay lem luốc,
không giày dép, tóc rối, mặt mày
vô cùng hớn hở ...
Toàn đang mừng rỡ lẩm
nhẩm ghi nhận kỹ từng chi tiết nầy, chợt
thấy vị sư già thoăn thoắt bước
đi. Chàng vội vã bước theo ngay nhưng
mới đó mà nhà sư đã mất
dạng trong đám khách hành hương
đông đảo rồi. Chừng suy nghĩ lại,
nhớ từng câu đối thoại, chàng bỗng
ngẩn người tự hỏi : “Chẳng biết
vị sư già đã đối thoại với
mình bằng thứ ngôn ngữ nào? dường
như không phải tiếng Việt, tiếng Mỹ, vậy
thì làm sao mình nghe hiểu được
kìa? chẳng lẽ mình đã mơ trong khi
đang ngắm tượng?”
Tỉnh hay mơ không cần biết,
Toàn một mực tin theo vị sư già, nên
đổi lộ trình về thẳng Saigon, chớ
không ghé Hà Nội như đã dự
định. Đến nơi, chàng nôn nóng lặn
lội khắp hang cùng ngõ hẻm trong thành
phố hàng hai tháng trời mà vẫn
không tìm đâu ra hình bóng người
đàn bà áo lam hội đủ những chi
tiết cần thiết. Kẻ mặc áo lam thì
đầu tóc, giày dép tươm tất
còn kẻ đầu bù tóc rối, chân
đất thì chẳng mặc áo lam. Điểm
quan trọng khác là chàng chẳng tìm
đâu ra được người có dung nhan vui
tươi hớn hở và có thể tạo cho
chàng niềm an lạc cả.
Toàn trở lên miền
Đông, rồi lần lượt xuống khắp
các tỉnh miền Tây, cuối cùng, về
đến Rạch Giá nhưng vị Bồ Tát
mà chàng nôn nao tầm cầu vẫn biệt
tăm. Thất vọng não nề, Toàn xách
hành lý lững thững tìm đường về
nhà mẹ. Thấy anh ngơ ngác đứng
trước cửa, Lan không tin ở mắt mình,
dụi mắt nhìn kỹ, rồi mừng rỡ
rú lên :
- Anh hai ! anh về sao không
báo tin trước để em đón!
- Hà ! Hà ! anh muốn cả
nhà ngạc nhiên kia mà! Uả! má đi
đâu vậy em?
- Mai ! thưa cậu
Hai đi con. Rồi con chạy rút, báo tin với
ngoại là cậu hai đã về nghen con!
Con bé
thưa cậu, rồi phóng lên chiếc xe đạp
đi ngay. Toàn lại lên tiếng :
- Má ở
đâu em hãy cho anh biết. Anh muốn đi đến
đó thăm má liền bây giờ!
- Má thường
trực ở chùa Thập Phương á! Chùa
cách nhà chỉ độ chừng năm
phút, nếu anh muốn gặp gấp thì em
đưa anh đi ngay.
Lan khóa cửa,
đèo anh trên chiếc xe gắn máy lái
đi. Vừa tới cổng chùa, Toàn đã
nghe tiếng bé Mai réo bà ngoại ỏm tỏi
:
- Ngoại ơi
! ngoại ! cậu Hai ở bên Mỹ về! Cậu
hai về nhà rồi ngoại ơi!
Chùa đang
có khóa hạ, ban trai soạn làm việc
khá cực nhọc. Dì Ba đang đầu
bù tóc rối hì hục rửa mớ nồi
niêu trong nhà bếp, chợt nghe tiếng cháu
ngoại reo vang, dì mừng quýnh, nước mắt
tuôn tràn, không kịp xỏ chân vào
dép, tức tốc chạy ra cổng, hớn hở
ôm con :
- Con! Con
thương của má!
Bà nắm
tay con thật chặt, chắc sợ con mình vuột mất
chăng? Toàn hiểu như vậy và xúc
động toàn thân, một cảm giác an lạc
kỳ lạ tràn ngập trong lòng. Chàng cất
tiếng gọi : “Má!”, rồi chàng ngắm
nhìn bà thật kỹ. Bà mặc chiếc
áo vạt hò màu lam cũ kỹ, chân
đất, tay dính lọ lem luốc, tóc rối lỏa
xỏa, đang rạng rỡ nhìn con không chớp
mắt. Toàn hơi sửng sốt, rồi bỗng sực
hiểu, chàng ôm chầm mẹ thổn thức :
“Thì ra Quan Âm Bồ Tát là má! Má
chính thật là Bồ Tát Quan Âm của
con, vậy mà trước kia con đui mù chẳng
biết!”. Chàng thầm nghĩ : “Khi mình
đã “mở mắt” thấy được
một hình tướng Quan Âm, thì có lẽ
mình sẽ có đủ khả năng khám
phá biết bao nhiêu Quan Âm đã hiện hữu
trong cõi đời nầy. Ờ nhỉ! đối với
mình thì Lâm chẳng phải là một
Quan Âm đã an ủi, chở che, cứu khổ, cứu
nạn mình sao?.
HUỲNH TRUNG CHÁNH
(NT sưu tầm, Võ
Ngô chuyển)