RA.CH GIÁ---------TRA(M NHÓ' NGÀN THU'O'NG 3

Home | SU'U TÂ`M TIN | SU'U TÂ`M TIN (tt) | SU'U TÂ`M TIN 1 | BÀI VIÊ'T MÓ'I | BÀI VIÊ'T MÓ'I (tt) | BÀI VIÊ'T MÓ'I 1 | BÀI VIÊ'T MÓ'I 2 | BÀI VIÊ'T MÓ'I 3 | BÀI VIÊ'T MÓ'I 4 | NU. CU'̉'I VA(N HO.C | NU. CU'̉'I VA(N HO.C (tt) | NU. CU'̉'I VA(N HO.C 1 | SU'U TÂ`M TÊÚ | SU'U TÂ`M TÊÚ (tt) | SU'U TÂ`M TÊÚ 1 | SU'U TÂ`M TÊÚ 2 | SÚ'C KHO?E | SÚ'C KHO?E (tt) | VA(N HO'A-XA~ HÔ.I | VA(N HO'A-XA~ HÔ.I (tt) | VA(N HO'A-XA~ HÔ.I [1] | VA(N HO'A-XA~ HÔ.I [2] | NU. CU'̉'I CON TRE? | SU'U TÂ`M | SU'U TÂ`M (tt) | SU'U TÂ`M tt /tt/ | SU'U TÂ`M 1 | SU'U TÂ`M 2 | NU. CU'̉'I VI TÍNH | VU LAN | VU LAN (tt) | CÁO PHÓ | CÁO PHÓ & PHÂN U'U & CA?M TA. | CÁO PHÓ & PHÂN U'U | CÁO PHÓ & PHÂN U'U [tt] | CÁO PHÓ & PHÂN U'U 1 | CÁO PHÓ & PHÂN U'U 2 | PHÂN U'U | PHÂN U'U * | PHÂN U'U ** | PHÂN U'U *** | CA?M TA. | T̀M NGU'̉'I | THÔNG TIN-LIÊN LA.C

SU'U TÂ`M (tt)

melting_ice.gif

 

 

Đưng mưa nho nh,  anh theo Ng v ..

(Hoàng Nguyên Nhuận)

 

 

         Thấp thoáng trên vùng đồi núi xanh mơ, Thu qua Đông đến, dòng thời gian lặng lờ trôi xa như con nước luân hồi.

 

          Đứng trên bờ nhìn con nước trôi qua hay bơi trong dòng sông không chừng cũng vậy thôi. Ai dám chắc bơi theo dòng thời gian là bì bõm về quá khứ hay ngụp lặn vào tương lai?

 

          Thời gian thoáng hiện mơ màng như bóng ngựa hồng qua cửa sổ. Thì cứ cho khung cửa là nêu mốc của hiện tại, và bóng ngựa là thời gian vút qua.  Nhưng bên nào khung cửa là quá khứ, bên nào là tương lai? Ngựa hồng hiện ra từ quá khứ rồi mất hút vào tương lai, hay hiện ra từ tương lai rồi vụt biến vào quá khứ? Hôm nay đi vào ngày mai hay đi về hôm qua? Thời gian và những nêu mốc của thời gian là những điều chỉ có thể cảm chứ khó nói ra, càng nói càng khó cảm, khoan nói là khó hiểu. Người Pháp bảo hiểu -connaitre, là cộng sinh - co-naitre, naitre avec, và người Anh cho rằng hiểu -understand, là bị bao trùm vây phủ bởi điều mình hiểu - stand under? Thực tại đang bao trùm Hoàng tôi hôm nay là Thu là Đông, là giáp vụ Thu-Đông.   

 

          Giá lạnh Nam cực đang choàng lên cây cảnh trong vườn chiếc áo mùa thu. Còn gì dịu hiền hơn chiếc lá lìa cành về với mai sau. Còn gì mời gọi an nghỉ hơn nệm gối sắc màu của hàng hàng lớp lớp lá úa hấp hối rụng rơi trong lất phất mưa Ngâu?

 

***

 

           Em tan trường về/ Đường mưa nho nhỏ/ Ôm nghiêng tập vở/ Tóc dài tà áo vàng bay/ Em đi dịu dàng/ Bờ vai em nhỏ/ Chim non lề đường nằm im dấu mỏ/ Anh theo Ngọ về/ Gót giày rộn rã đường quê ..

 

          Cái máy hát hình như cũng chán ngán mệt nhoài khi phải quay đi quay lại Ngày Xưa Hoàng Thị. Nhưng tôi thì không, tôi lắng nghe tiếng hát Thái Thanh như một tín đồ ngoan đạo ru hồn vào thánh nhạc Gregory. Cám ơn Phạm Thiên Thư, cám ơn Phạm Duy.

 

          Đường mưa nho nhỏ, anh theo Ngọ về .. Một thuở nào đó trong đời, ai chẳng ca na cúp núp hình bóng một Ngọ trong tim, ai không mơ màng nâng niu một nàng tiên nồng nàn như mộng, dịu hiền như thực trong mềm óng nhung tơ đài các e ấp 'theo ta lên núi v đi yêu thương' (Du Tử Lê) giữa lúc mùa Thu ngập ngừng ra đi:

 

Áo em vạt tím ngàn sim

Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ

 

          Màu tím ngàn sim hay màu nhung rêu diệu vợi núi rừng lập Đông?

 

          Trong hiện tại đã thành quá khứ và biết đâu sẽ còn trở thành tương lai, Phạm thiên Thu rưng rưng tiếc nhớ nụ cười của Ngọ:

 

Em về sương đẫm hai vai

Dấu chân là cánh lan đài nở đêm

Từ em hé nụ cười huyền

Mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa.

 

          Ngọ mỉm cười xua mùa thu đi hay gọi mùa thu trở lại? Chỉ có Ngọ biết mà thôi.

 

          Quãng đời học trò của Phạm Thiên Thư là quãng đời đẹp. Đẹp thần tiên, đẹp vớ vẩn, đẹp vẩn vơ .. Những sáng đến trường, những chiều tan học, cậu học trò nào mà chẳng một lần ngất ngơ để chiếc nón bài thơ, để tà áo phin trắng hay lụa màu nguyệt bạch trước mặt trở thành cực Bắc cho kim chỉ nam, trở thành mặt trời cho hoa hướng dương hồi hộp lẽo đẽo sau lưng như Phạm thiên Thư theo Ngọ? Ngày lại ngày, con đường đến trường trở thành con đường khổ nạn: Chân anh nng n/ lòng anh nc n/ mai vào lp hc anh còn ngn ngơ.

 

          Phạm Thiên Thư và Ngọ ngày ngày thấy nhau trên hành trình chung trường chung lớp, chung trường khác lớp, chung đường khác trường, hay khác đường khác trường hay Ngọ chỉ đến với Phạm Thiên Thư như một lằn chớp của định mệnh trong Động Hoa Vàng:

 

Tình cờ anh gặp nàng đây

Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương.

 

          Tình cờ? Cuộc tình lớn là những cuộc tình độc nhất bắt đầu một cách éo le đột ngột thế đó. Gặp nhau lần đầu là sét đánh, thấy nhau lần đầu là long trời lở đất. Phút giây địa chấn ban sơ ấy có thể chợt đến ở bất cứ nơi nào. Góc đường cuối phố. Sân trường, sân ga. Hay nơi phi trường. Định mệnh hiện tiền trong khoảnh khắc phù du của một cái nhìn, một ánh mắt, một nụ cười e ấp dã dượi bải hoải sau chuyến viễn hành vạn dặm. Cuộc hạnh ngộ tình cờ, và có khi người trong cuộc cũng chưa ý thức được đó là một tình cờ thiên thu tiền định.

 

          Người ta có thể trốn chạy thế nhân, chạy thoát ác thú nhưng không ai trốn được duyên nợ luân hồi. Cho nên, xa lạ ngỡ ngàng có khi cũng chỉ là hoài niệm về một cuộc tình dang dở từ kiếp nào:

 

Yêu nhau từ độ bao giờ

Gặp đây giả bộ hững hờ khói bay.

 

          Không thiệt tình thì tội gì phải giả bộ! Không thương mà giả bộ thương có lẽ còn dễ hơn là yêu mà giả bộ không yêu. Cho nên, càng giả lại càng thật, càng không nhìn nhau càng dễ thấy nhau. Bởi người yêu không chỉ ở ngoài đời mà còn ở trong mắt, trong mộng. Vì càng nhắm mắt càng dễ mộng mơ, càng cố quên càng nhớ, càng ngoảnh mặt quay đi càng thấy rõ!

 

          Thật mà cứ làm như giả để được gì? Chẳng được gì cả, bởi cái trò hững hờ cút bắt đó là một trò chơi mà giải thưởng có khi chỉ là một thoáng xúc động phù du hay một khấp khởi mừng khan như Nguyên Sa thú nhận: Gp mt ba, anh mng mt ba/ Gp hai hôm thành nh h ca tâm hn. Phạm Thiên Thư an phận với tơ duyên may rủi đó chứ không nóng nảy than vắn thở dài như Huy Cận: ĐĐng li dùm tôi đã mi theo sau/ Ôi! n nào sut đi đui bt nhau. Nói không dám, viết không dám, Phạm Thiên Thư chỉ tỏ tình một cách câm nín: Trao vi vàng chùm hoa mi n/ ép vào cui v muôn thu còn hương! Cả thẹn hết thuốc chữa như thế mà vẫn cứ liều ... mê Ngọ, tội nghiệp chưa!

 

***

 

          Ngọ là hình là bóng, nhưng Ngọ cũng là tất cả vì hình bóng đó bao trùm không gian hiện hữu của kẻ si tình. Và nếu có vấp ngã ê chề thì lại cũng ngây thơ đấm ngực than thầm như Xuân Diệu là cùng:Tôi kh kho lm, ngu ngơ quá/ Ch biết yêu thôi, chng hiu gì.

 

          Chỉ biết yêu thôi! Nói nghe chắc nịch nhưng chính Xuân Diệu lại cũng là người thú nhận tình yêu là điều không thể cắt nghĩa được. Không cắt nghĩa được thì lấy gì mà biết, không biết thì lấy gì mà nói. Cho nên Xuân Diệu yêu cũng như người ta uống rượu. Không cắt nghĩa được rượu - nghĩa là không viết ra được công thức của rượu nhưng lai rai hoài thì thế nào cũng xỉn, thế nào cũng lắc lư con tàu. Thật may cho những người yêu thơ. Nếu Xuân Diệu mà rành mạch cắt nghĩa được tình yêu, hoặc nếu Xuân Diệu biết chắc rằng mình chẳng biết gì về tình yêu cả thì cuộc đời nầy có thể vẫn còn bóng hồng nhưng chắc chắn không còn là bụi hồng nữa!

 

          Trò chơi cắc cớ thông thường của tình yêu là hờn giận. Không yêu thương nồng nàn hơi đâu mà giận hờn lạnh nhạt, không mê mẩn khắn khít hơi đâu mà hờ hững xa xôi. Có đủ yêu mới có thể giận, ghét, lạnh nhạt, hững hờ. Cho nên trong khi Xuân Diệu hớn hở tận hưởng giông bão của yêu thương vì Đđưc gin hn nhau sung sưng biết bao nhiêu/ thì Phạm Thiên Thư lại làm bộ em chả với mấy chữ 'thì thôi, thôi thì' tài tình như đứa trẻ nũng nịu vòi quà:

 

Thì thôi tóc ấy phù vân

Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương

Thì thôi mù phố xe đường

Thì thôi thôi nhé đoạn trường thế thôi.

 

          Giỡn hoài, đã đoạn trường thì chết chưa chắc hết, làm sao mà thôi khơi khơi thế được?! Phạm thiên Thư hình như cũng biết vậy nên có lúc đổi giọng năn nỉ:

 

Mai anh chết dưới cội đào

Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu

 

          Không là tình thiên thu thì làm sao có lệ thiên thu? Tình thiên thu có phải thường là những mối tình không trọn vẹn, một dở dang vĩnh cửu của những lứa đôi dám đùa với lửa, dám Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp? Phạm Thiên Thư đã chới với níu Ngọ sa chân lạc bước vào khổ đế của yêu thương. Chỉ đáng nói một điều là Phạm Thiên Thư không âm thầm nhấp chén đắng ân tình bằng cách Du quanh du qun ni bun mt nơi/ để ước nguyền Kiếp sau xin gi li đi cho nhau/ như Du Tử Lê mà lại ti toe làm nũng:

 

Thôi thì em chẳng yêu tôi

Leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng.

 

          Tưởng leo lên cây lấy đà nhảy xuống dòng nước oan nghiệt như Kiều định tắm lần cuối dưới sông Tiền Đường, nào dè chỉ leo lên cây để nhớ chơi! Làm như thể người yêu là chiếc bong bóng bay, leo lên cao một chút là được gần thêm một chút. Nỗi thất vọng trở thành một niềm hy vọng. 

 

          PhạmThiên Thư thất tình một cách dễ thương lạ lùng thế đó nên thơ tình của Phạm Thiên Thư lâng lâng dịu nhẹ như chính bước chân của Ngọ len lén đi vào thế giới của Ngày Xưa Hoàng Thị như bóng ngựa hồng thoáng qua khung cửa thời gian.

 

***

 

          Phạm thiên Thư là lối thoát cho thế hệ đang kẹt giữa hai lằn đạn tình cảm như chúng tôi? Một bên là thông lệ yêu thương của thời mà chúng tôi chỉ mới bắt chước Xuân Diệu để than thở Ba nay lnh mt tri đi ng sm/ Anh nh em em hi anh nh em/ là lập tức bị các bậc trưởng thượng mắng cho là hoang loạn. Một bên là nề nếp cách mạng tình ái của Tây Phương được nhập khẩu qua đài phát thanh, máy quay dĩa và nhất là qua màn ảnh lớn với những phim màu rực rỡ. Lớn lên, chúng tôi vừa từ giã những mộng mơ bên Graziella của Lamartine, dưới Những Vì Sao của Alphonse Daudet, theo Loan và Dũng của Nhất Linh, mơ màng trong Mối Tình Đầu của Hoàng công Khanh, thì lại lơ ngơ buông thả tâm tư vào những ngẩn ngơ lãng đãng của Vacances Romaines, Pinic, Bernardine, Marjorie Morningstar. Chúng tôi hơn thế hệ cha chú là có dịp thấy người ta công khai hôn nhau trên màn ảnh. Trước là hôn câm, sau là hôn thành tiếng có nhạc đệm. Thế hệ con em hơn chúng tôi là thấy người ta công khai ân ái trên màn ảnh lớn nhỏ khỏi phải vắt óc tưởng tượng như chúng tôi khi đọc Hồng Lâu Mộng, Tây Sương Ký ...

 

          Không còn trẻ nữa để hăm hở đổi đời, nhưng cũng chưa quá già lụ khụ để rửa tay gác kiếm, vậy thì theo đường nào đây? Lập đền đài linh tượng ngôi cao chín bệ cho người yêu như Chế Linh hô hào mà hậu quả là có khi xa nhau rồi mới chợt nhớ ra chưa hề hôn nhau, dù là hôn trên má, và có thể quái dị hơn nữa là chưa hề cầm tay nhau? Hay xem người yêu bằng xương bằng thịt và tiến bước xung phong vào  đường tình ái với tốc độ siêu âm?

 

          Trong thế giới cổ kính ngàn xưa, người yêu lung linh mơ hồ như hình hoa hậu chụp bằng quang tuyến X. Trong cuộc đời đương đại, người yêu hiển hiện như dung thịt mỡ trước miệng mèo, lồ lộ mật khu núi đồi hang động như Bích Khê từng nhìn thấy: Na trên em là thiên đàng, na dưi em là ha ngc. Nếu yêu là lựa chọn thì chọn một nửa thôi có được không, nếu được thì nửa nào và chỉ chọn một nửa thì đã thực yêu chưa? Trước những câu hỏi hóc búa ấy, Phạm Thiên Thư đã có một câu trả lời rất trung quán: người yêu không phải là cái nầy mà cũng không phải là cái kia! Người yêu của Phạm Thiên Thư hình như không tồn tại trong không gian ba chiều:

 

Đợi người cuộc mộng thâu đêm

Sông Ngân trở lệ dài thêm dòng nhòa

Anh nằm gối cỏ chờ hoa

Áo em bạch hạc la đà thái hư

 

          Người yêu của Phạm Thiên Thư chỉ tồn tại mơ màng trên đường chân trời diễm ảo của những quá khứ chưa bao giờ trở thành hiện thực, người ta chỉ đến được qua những phút giây phóng túng thả hồn trôi về Động Hoa Vàng của Ngày Xưa Hoàng Thị ... Đích điểm của những buông thả lãng mạn vào tâm cảnh cổ kính đài các chập chờn diễm ảo mà người yêu ở đây nếu không là

 

Mắt nàng ru chiếc nôi êm

Ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời

Em là hoa hiện dáng người

Tôi là cánh bướm cung trời về say

 

thì cũng:

Tóc em rừng ngát hương say

Tay em dài nụ hoa lay dáng ngà

 

          Theo Phạm Thiên Thư là tìm về khoảng không gian như có dây tơ  để chốc lát đắm mình vào thế giới của tưởng tượng bằng ngôn ngữ và vần điệu. Thế giới của thơ, văn.

 

          Nhưng ngày nay, hình như thơ văn đã bị tước mất độc quyền về thế giới đó rồi. Ngày xưa, làm văn làm thơ là hoạt động của một tầng lớp ngoại hạng ưu tú. Nhưng muốn gia nhập vào giai tầng ưu tú trí thức đó cũng chẳng phải khó như vào Niết Bàn hay Thiên Đàng. Chỉ cần ngòi bút và xấp giấy. Thế là tạm đủ. Ai cũng có thể là nhà văn và thơ cả. Chứ không khó khăn trầy da tróc vảy như gia nhập sân khấu, điện ảnh, hay thể thao. Mặt khác, điện ảnh, đài phát thanh, truyền hình, video, CD, CD-ROM, Internet ... có thể biến cuộc đời thực thành siêu thực, thần tiên, quái đản dễ dàng hơn là ngòi bút hay cây cọ, tạo ra những thế giới tưởng tượng mê ly hấp dẫn gấp mấy lần văn thơ! Cũng vì vậy mà người thưởng ngoạn thường chịu tốn tiền cho điện ảnh hay truyền hình hơn là cho quyển truyện quyển thơ hay bức tranh. Vì những lý do đó mà văn thơ nếu không ở trên đà tận diệt như đười ươi, cọp, beo, sư tử thì cũng có thể bị miệt thị, xuống cấp. Có những nhà văn nhà thơ - và cả những nhà làm văn học phê bình, đang muốn tự vệ trước những tấn công ồ ạt của sách báo tiêu khiển - không được kể là văn chương, và ngành giải trí điện tử - không được kể là nghệ thuật thứ bảy, bằng cách biến thơ văn thành một thứ mật ngữ kỳ bí quái dị, bắt buộc kẻ khác hoặc phải khen hay hoặc phải thú nhận là không đủ can đảm để đọc đến dòng chót.   

 

         Có người sẽ chê lối buông thả tâm tư bằng thơ tình như Phạm Thiên Thư là mê đồ cổ. Lạc hậu. Xà quần trong rong rêu quá khứ. Làm như thể con tim ngày trước và con tim hôm nay khác nhau. Bây giờ và 'từ muôn kiếp trước', rung động yêu thương có khác gì nhau? Đó là sự khác biệt về bản chất tình yêu hay chỉ là khác biệt về cách biểu lộ tình yêu và cách ghi nhận những biểu lộ của tình yêu? Hỏi cho vui vậy thôi chứ mãi đến bây giờ có ai đng ý vi ai v tình yêu là gì, thơ là gì đâu! Chưa đồng ý với nhau về tình yêu là gì, thơ là gì thì sao lại có thể vội vàng vứt những vần thơ của Phạm Thiên Thư vào sọt rác?!

 

***

 

          Đôi khi Hoàng tôi băn khoăn tự hỏi mình thích Động Hoa Vàng vì bốn trăm câu thơ đẹp như tranh thủy mạc của Phạm Thiên Thư hay thích Động Hoa Vàng vì bản nhạc với hai chục câu thơ tưởng rằng đã phủ trùm cả Động Hoa Vàng của Phạm Duy?

 

          Lục bát có vẻ như là thể thơ dễ làm nhất, nhưng vì dễ quá nên trở thành khó. Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Cung Trầm Tưởng, Phạm Thiên Thư ... Và ai nữa? Một đội ngũ tài danh lưa thưa lác đác bên cạnh dòng thác của những thiên tài vô danh đã xây dựng nên kho tàng văn chương truyền khẩu mà đại đa số là lục bát.

 

          Nếu Cung Trầm Tưởng làm mới Lục Bát với những tâm cảnh khác lạ so với thời bấy giờ: Đn em góp núi chung đi/ Thiêu nương đt lá cũng ri hoang sơ/ hay ... Thôi em xanh mt b câu/ Vàng tơ si nh xin hu kiếp sau/ thì Phạm Thiên Thư lại đã làm mới Lục Bát thêm một chút nữa bằng cách đưa Lục Bát trở về cổ kính xuân thu:

 

Đôi mày là phượng cất cao

Đôi môi chín ửng khóe đào rừng mơ

Tiếng nàng vỡ bạc thành thơ

Tụng dòng kinh tuệ trên tờ khói mây

 

hay

Em về hong tóc mùa xuân

Trăng trầm hương tỏa dưới chân một vành

 

          Phạm Thiên Thư đến sau Cung Trầm Tưởng nhưng Cung Trầm Tưởng lại gần với tâm cảm của người lưu vong như tôi hôm nay hơn. Bởi vì, dù kẹt giữa hai nếp cảm nghĩ, mắt bồ câu của Cung Trầm Tưởng gần với tôi hơn là mày phượng, môi đào rừng mơ của Phạm Thiên Thư. Nhưng làm sao cấm được Phạm Thiên Thư điêu đứng vì đôi mày phượng cũng như làm sao cấm được Xuân Diệu mê mẩn hình ảnh hây hây thục nữ mắt như thuyền !?

 

***

 

          Phạm thiên Thư cũng có thể bị chê là thoái hoá, hủ lậu, nhút nhát xưa cũ như ... những vần thơ thù tiếp sứ nhà Tống của Ngô Chân Lưu, Pháp Hiền hoặc như bài văn tế cá sấu! Phạm Thiên Thư cũng có thể bị lên án là ngoan cố, bảo cựu không chịu làm thơ mới, không chịu làm thơ tự do và không chịu tự do làm thơ ... như những người tự nhận là tiền đạo, tiền phong, đổi mới, tiên tiến, những tông đồ của cấu trúc luận, giải cấu luận, hậu cấu trúc luận, hiện đại chủ nghĩa, hậu hiện đại chủ nghĩa ... và bao nhiêu từ ngữ khác mà những nhà khoa bảng kinh viện đang muốn lập danh bằng nghề phê bình có thể bày ra để tạo sức ép đối với người sáng tác yếu bóng vía, thích làm dáng văn học.

 

          Sức ép sáng tạo nầy càng ngày càng nặng vì phê bình văn học nghệ thuật ngày càng trở thành một sinh hoạt đặc biệt chứ không phụ tùy như trước nữa. Một là vì sự xuất hiện của những nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật khoa bảng chuyên nghiệp, ăn rồi chỉ lo phê bình tựa như các nhà khoa học chỉ lo quan sát, nghiên cứu, đặt giả thuyết, chứng nghiệm. Thứ hai, một số đại học lớn đã 'đăng quang' cho các nhà phê bình bằng cách dành cho ngành phê bình văn học nghệ thuật một địa vị công khai khả kính. Thứ ba, trên đà phát triển ồ ạt để đáp ứng nhu cầu chính trị hay thương mại, báo chí, truyền thanh và truyền hình không còn tự giới hạn trong chức năng thông tin, nhưng đã gán thêm cho mình công tác nhận định, phê phán và hướng dẫn sáng tác cũng như thưởng ngoạn văn học nghệ thuật. Công tác nầy ngày càng trở nên tinh vi đến độ khó mà phân biệt thế nào là thông tin, nhận định khách quan chân thực, thế nào là ba hoa chích choè quảng cáo, hay chơi nổi chơi trội.

 

          Thành công của một số trường phái phê bình có khi chỉ là những cơn bão trong chén trà, nhất là những khuynh hướng phê bình hình thức không chấp nhận thế đứng khiêm tốn của văn học nghệ thuật đối với nhu cầu sinh hoạt tâm linh. Sở đoản khả hữu thông thường của phê bình là một đàng không chịu khó đọc chính văn, không thực sự nắm vững đối tượng phê bình như nhà khoa học bám riết đối tượng nghiên cứu và mặc khác cứ nối đuôi nhau tìm cách vẽ vời sao cho phê bình trở thành mới lạ. Hậu quả là khoa phê bình văn học đôi khi đã trở thành ngành văn học phê bình, một lề lối sáng tác cũng lấy tưởng tượng hư cấu làm nền tảng như văn thơ.

 

          Những người làm văn học phê bình nầy thường nhắm mắt niệm thần chú 'Theo mới, hoàn toàn theo mới không chút do dự!' như Hoàng Đạo đã hô hào hơn nửa thế kỷ trước đây. Nhưng đổi mới là làm mới hay theo mới ? Nhưng nếu đổi mới, theo mới là một nhu cầu cấp thiết thì ai là kẻ thực sự cảm thấy nhu cầu đó, nhà phê bình hay văn nghệ sĩ? Thực tế là thường thì nhà phê bình phải chạy theo văn nghệ sĩ chứ không phải ngược lại. Không có sản phẩm văn học nghệ thuật thì lấy gì mà phê bình văn học nghệ thuật?!

 

          Nhưng thế nào là mới với người sáng tác văn học nghệ thuật? Trừ những kẻ đạo văn hoặc nhắm mắt lặp lại ý kiến của kẻ khác một cách thuần thành mù quáng như tín đồ cuồng tín đối với kinh văn của giáo chủ, mỗi quan điểm văn học nghệ thuật được thành tựu, mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật được hoàn thành đều là những thực tại mới, ít ra cũng theo ý nghĩa mới là khác biệt! Đặt bút ký vào một bài văn, bài thơ, bức họa ... tự mình không thấy gì mới cả là đạo, là bắt chước, là cóp, là ... không có gì mà ầm ĩ. Mỗi tác phẩm đích thực là một thực tại mới, tất yếu mới. Còn mới hay hay mới không hay lại là chuyện khác.

 

***

 

          Phạm Thiên Thư đã không biết lấy kéo mà hớt câu ngắn câu dài cho lạ mắt. Không biết biến thi ca thành những mật ngữ đồng bóng khúc mắc khó hiểu, hoặc chẳng ai hiểu gì cả vì thưởng ngoạn là đồng trật sáng tạo, đọc thơ là làm thơ. Nên những vần thơ bốn chữ, năm chữ, hoặc Lục Bát của Phạm Thiên Thư có thể trở thành vật tế thần -bên cạnh những con vật tế thần khác là Thơ Mới, Thơ Đường Luật, trên bàn thờ Cái Mới một vài người đang hí hửng trật vuột dựng lên.

 

***

 

          Người làm văn học nghệ thuật hôm nay được lệnh của một vài nhà phê bình phải ly khai đường lối sáng tác cổ điển, phải từ bỏ khuynh hướng lãng mạn để theo mới. Nếu không có thể bị lên án là thống dâm, là hưởi khói nhà người cũng đủ no không cần nấu nướng gì cả, là không biết làm thơ bằng dao găm búa tạ hay cốt mìn! Nhưng mới là gì, cái gì là mới? Hiện đại chủ nghĩa, tương lai chủ nghĩa, cơ cấu luận, hậu hiện đại luận, giải cấu luận? Theo cái nào? Nếu những cái mới đó có căn bản vững vàng, có giá trị đích thực tại sao lại truất phế loại trừ nhau liền tù tì như thế và tại sao những khuynh hướng cổ điển, lãng mạn lại tái sinh?

 

          Trong lịch sử văn học nghệ thuật Âu châu, tiền đạo, tiền phong hay tiên tiến -avant garde, là tiếng thường được dùng để định danh một lối sống, một thái độ của những người làm văn học nghệ thuật muốn xóa-đi-làm-lại-hết, tabula rasa. Họ muốn tiên phong giải phóng văn học khỏi những ràng buộc của lý trí, của ý thức và của ngôn ngữ thông tục để mở đường cho cái mới lạ, cái vô thức, cái phi lý, cho những giấc mơ, những thác loạn tâm tư được phóng toả bằng những hành động sáng tác trực phát máy móc, bất chấp những ước định tối thiểu thông tục về họa, văn, thơ. Thơ chẳng hạn, thơ tiền phong thường được biết đến như là những bài văn vần không vần, những bài văn xuôi có vần, và cách trình bày thì tha hồ thay đổi theo trí tưởng tượng phong phú hay nghèo nàn, bản lãnh sáng tạo hay tài bắt chước của nhà thơ.

 

          Phong trào Tiền Đạo nầy không phải xuất hiện năm 1998 hay 1999 mà là từ 83 năm trước ở Zurich, Thụy Sĩ khi một vài nghệ sĩ cùng khuynh hướng tụm lại tìm một chữ để đặt tên cho phong trào. Vốn là những người phóng túng không câu nệ nề nếp, họ đã nhặt đại chữ DaDa theo kiểu xổ số. Trường phái DaDa được khai sinh từ đó và trở thành hồi còi tập họp quy kết những người làm văn học nghệ thuật không chấp nhận chiến tranh, chống những thế lực tôn chính đương hành đang tàn phá, bức bách, gò bó con người. Đó là một cuộc nổi loạn nhân danh tự do và nhân cách. Nhưng cương lĩnh bất thành văn của DaDa cũng đã đi quá đà trở thành là một thứ đùa dai quá trớn, đập phá lung tung, gây náo loạn vớ vẩn, lấy lố bịch chống lố bịch, lấy thị phi chống thị phi như những người trong phong trào thường tự nhận.

 

          Các văn nghệ sĩ Việt Nam thời ấy đã không có cơ hội và cũng không được khuyến khích để chạy theo cái mới. Thời kỳ phong trào Siêu thực, DaDa được khai sinh ở Âu châu cũng là thời điểm mà những nhà văn nhà thơ Việt Nam vừa chân ướt chân ráo từ bỏ chữ Nho chữ Nôm để quờ quạng mò vào thế giới của mẫu tự La Tinh ngoại lai quái ác được bi hài gọi là chữ-quốc-ngữ. Cho đến hôm nay vẫn có người trương gân cổ bảo rằng i-tờ, tờ-i-ti, a,b, c, d, đ... là đổi thay căn bản đưa Việt Nam vào con đường văn minh tiến bộ. Những kẻ đó không giải thích thêm tại sao người Nhật, Nga, Trung Hoa, Ấn Độ, Hi Lạp ... vẫn giữ 'quốc ngữ' của họ và không hề phải trở lại thời ăn lông ở lỗ. Thứ nữa, các văn nghệ sĩ Việt Nam có muốn đi vào con đường hiện đại chủ nghĩa, con đường tượng trưng, siêu thực, lập thể cũng không được chính sách văn hóa thực dân đồng hóa khuyến khích vì một lẽ dễ hiểu là không những Lãng Mạn chủ nghĩa thường dẫn đến chủ nghĩa dân tộc bài ngoại và cách mạng mà ngay cả khuynh hướng tiền phong, siêu thực cũng đưa đến những hệ quả chính trị xã hội tương tự. Cách mạng mùa Thu bùng lên, tuyệt đại đa số những người làm văn thơ Việt Nam đều đi theo con đường của Phan văn Trị, chẳng mấy ai theo vết mòn của Tôn thọ Tường. Lịch sử văn học nghệ thuật Âu châu từ sau Đại Chiến thứ Nhất cũng đã cho phép người ta nghĩ như thế.

 

          Một vài người nhắc đến Franz Kafka, James Joyce, Marcel Proust ... như những nêu mốc, những biểu tượng của cái mới. Tác phẩm được coi là đầu tiên của Kafka -truyện ngắn Hóa Thân, được hoàn thành năm 1915, tập truyện ngắn Những Người Dân Dublin của Joyce xuất hiện năm 1914 và quyển Đi Tìm Lại Thời Quá Khứ của Proust xuất hiện năm 1913. Thích những người đó là quyền tự do của người thưởng ngoạn cũng như nhà phê bình văn học. Nhưng cái quyền đó có cho phép người thưởng ngoạn hay nhà phê bình chê những ai không thích những tác giả đó, không muốn sáng tác như họ là cổ hủ, thống dâm, là không biết viết văn bằng cây búa, là thụ động hưởi khói nhà người mà đã thấy no bụng không? Tại sao các nhà văn học nghệ thuật hôm nay phải lấy những nhà văn mà tác phẩm xuất hiện cách nay đã hơn 80 năm để được tiếng là thức thời, là biết theo mới? Tại sao nhà phê bình có quyền dựa vào một vài ý tưởng của Ferdinand de Saussure, Roman Jakobson, Jean-Francois Lyotard hay Jacques Derrida ... là những cái cũ để chê kẻ khác là không biết theo mới? Đã theo cũ lại chê kẻ không chịu theo cũ như mình là ngớ ngẩn không biết theo mới, hiểu thế nào đây?

 

          Câu hỏi đặt ra cho người cầm bút không phải là có nên theo mới hay không theo mới. Câu hỏi đặt ra là họ đã thành công trong sự diễn đạt mới một nội dung cũ, hay diễn đạt cũ một nội dung mới hay họ chỉ núp sau một hình thức mới để lấp đầy cái lỗ hổng tâm cảm hay tài năng diễn đạt mà họ không thể lấp đầy hay tát cạn bằng tài năng hay bản lĩnh giới hạn của mình? Và đối với những kẻ nghĩ rằng thành công chỉ cần tài chứ không cần tâm thì câu hỏi trên lại càng khó khăn hơn. Bởi không có tâm thì lấy gì mà đặt ra câu hỏi ấy, nói gì đến tìm ra câu trả lời! Không có tâm thì viết hay vẽ chỉ là múa gậy vườn hoang. Tiên vàn, tâm là tâm lý, thứ đến mới là tâm đạo. Trong văn học nghệ thuật, chỉ có cái máy photocopy, printer mới cần tài chứ không cần tâm, tài của người sửa máy và điều khiển máy. 

 

          Đánh giá một sáng tạo hay phê bình văn học nghệ thuật có lẽ nên nghĩ đến tính cách độc đáo hơn là thành tích theo mới hay không theo mới của tác giả. Độc đáo liên hệ đến đối tượng cảm nhận, cách thức cảm nhận và hình thức diễn đạt tiến trình cảm nhận đó. Độc đáo là vô tận của mình riêng, dù cái riêng đó chỉ là một phần của kho trời chung vốn ngàn muôn năm âu cũng thế ni như Nguyễn công Trứ nói.

 

          Kho trời chung của Phạm Thiên Thư là người đàn bà, là tình yêu nam nữ. Người đàn bà đó, tình yêu đó ... ngàn năm trước hay bây giờ khác gì nhau? Khác chăng là Phạm Thiên Thư đã biến kho trời chung đó thành Ngọ của Ngày Xưa Hoàng Thị, Ngọ là vô tận của mình riêng bằng những vần thơ.

 

***

 

          Phạm Thiên Thư đạt được cõi vô-tận-của-mình-riêng ấy bằng cách quay về đốt lò hương cũ, lần theo dấu guốc dấu giày của người thương bé nhỏ để lắng mình vào thế giới thần tiên diễm ảo những hôm đường mưa nho nhỏ, anh theo Ngọ về ...

 

          Phạm Thiên Thư theo Ngọ, và thơ nhạc của Phạm Thiên Thư cũng đang vẽ ra cho Hoàng tôi một Ngọ gần kề như mộng xa xôi như thực e ấp ngập ngừng theo ta lên núi về đồi yêu thương khi Thu đến theo dòng luân hồi duyên nợ ...        

 

 

Phong Trang

HOÀNG NGUYÊN NHUN

 

(XO sưu tầm và chuyển)

 

 

melting_ice.gif

website counter