|
|
NGHỀ THẦY(Tuệ
Quang-Tôn thất Tuệ) Giữa niên khóa 1954-1955, lúc tôi
đang theo học ban Lư Hóa Sinh (PCB) ở Saigon th́ xảy ra
cuộc đụng độ giữa quân đội
Quốc Gia và lực lượng B́nh Xuyên. Ở trọ ngay
trong khu vực giao tranh, bị mất hết áo quần,
sách vở .., không có cách mưu sinh để tiếp
tục việc học, tôi quay về Huế kư hợp
đồng với Bộ Quốc Gia Giáo Dục qua Nha
Đại Diện Giáo Dục Trung Phần, nhận
nhiệm vụ Giáo Sư Khế Ước Đệ
Nhất Cấp tại trường Trung Học Thành
Nội. Đây là trường Nam trung học công lập
thứ nh́ tại Huế sau trường Khải
Định (danh xưng giai đoạn của
trường Quốc Học) và là trường trung học
đầu tiên được thành lập ở phía tả
ngạn sông Hương, đặt tại Quốc Tử
Giám trong Thành Nội. Bước vào "nghề
thầy" ở tuổi hai mươi, dự tính ban
đầu của tôi là
tạm dạy học một thời gian, kiếm tiền
để dành hầu trở lại ngành học cũ. Trung
học Thành Nội là một trường tân lập, vào
niên khóa đầu chỉ có một lớp Đệ
Lục (Lớp Bảy) và bốn lớp Đệ Thất
(Lớp Sáu) nên tôi phải phụ trách giảng dạy
nhiều môn và lên lớp cùng với học sinh sau mỗi
niên khóa. Năm 1956, theo chỉ thị
của Bộ Giáo Dục, Hội đồng Giáo Sư
được triệu tập để t́m tên chính
thức đặt cho trường. Nhận thấy
Quốc Tử Giám vốn là cơ sở giáo dục của
triều đại Nguyễn-Phước và Hàm Nghi là
vị Hoàng Đế thiếu niên anh hùng, ái quốc
thuộc ḍng họ này, tôi đề nghị xin dùng
Đế Hiệu của Ngài để đặt tên cho
trường. Đề nghị của tôi được
Bộ Giáo Dục chấp thuận. Trường Trung
Học Hàm Nghi phát triển nhanh, chỉ sau mấy năm
đă trở thành một trường trung học
đệ nhị cấp lớn, tồn tại
được 20 năm, từ 1955 đến 1975. Sau ba niên khóa gần gũi
tiếp cận lớp trẻ hồn nhiên, trong trắng (mà
giờ đây tất cả đều đă ngoại
lục tuần và một số khá đông đă trở
thành những nhân tài có tên tuổi), ư định ban
đầu là tạm sống nhờ nghề "godautre" không c̣n trong tôi
nữa ; tôi thấy yêu trường, yêu lớp, yêu phấn trắng bảng đen
.. nhận thức rơ những ư nghĩa cao đẹp
của "Nghề Thầy", nên năm 1958 khi quyết
định trở lại Đại học, tôi bỏ
ngành học cũ, chọn theo ngành mới : Sư Phạm
và Văn Khoa. Tốt nghiệp Đại
Học Sư Phạm năm 1961, tôi được bổ
nhiệm về trường Trung Học Vơ Tánh, Nha Trang. Bắt đầu dạy học
từ năm 1955 tại Huế nhưng phải nói là
tới thời điểm năm 1961 và tại miền thùy
dương cát trắng Nha Trang, tôi mới chính thức
đóng vai tṛ một nhà giáo thực thụ, thủy chung
gắn chặt đời ḿnh với "Nghề
Thầy". Bước vào "Nghề
Thầy", tôi chỉ mong thể hiện thiên chức
một nhà giáo đúng nghĩa, làm tṛn phận sự của
ḿnh khi tại nhiệm, sưu tập sách vở tài liệu
để sau khi nghỉ hưu sẽ trau giồi thêm
kiến thức và sáng tác. Không có sở trường hành
chánh và khả năng chỉ huy, tính t́nh lại vụng
về (khi nào cũng vuông như
"lỗ đồng tiền") khó làm vừa ḷng kẻ
khác, thế nên, để tránh khỏi những đụng
chạm phiền toái, tôi đă không hề dám nhận
một chức vụ điều khiển nào
được Bộ Giáo Dục ban cho. Thuộc gia đ́nh
có truyền thống Phật Giáo (mẹ tôi là một
phật tử thuần thành) nhưng tôi ít khi đi lễ
chùa, không hề thân cận các tu sĩ, không tham gia các đoàn
thể phật tử. Tôi kính ngưỡng không riêng
Phật Giáo mà tất cả mọi tôn giáo chính thống.
Không mấy thích thú "làm chính trị", tôi từ
chối gia nhập mọi đảng phái chính trị
kể cả đảng Dân Chủ của tướng
Nguyễn văn Thiệu (mà rất đông công chức và
nhà giáo đă gia nhập). Chính v́ những dữ kiện
đó mà sau cuộc "đổi đời", muốn
có lư do để buộc tội, "chế độ
mới" cáo buộc rằng tôi đă ngụy trang quá
khứ, chuẩn bị sẵn một vai tṛ "vô tội
vạ" để ở lại quê nhà hoạt
động phục vụ cho cơ quan t́nh báo Mỹ C.I.A.. Tôi bị liệt vào một trong các "tội
phạm" : C.I.A, Nợ Máu, Phượng Hoàng .. được
qui định trong điều 2 của nghị quyết
87, một nghị quyết do ông Phạm văn Đồng
kư từ trước. Gần mười lăm năm trong
"Nghề Thầy", tôi đă thực hiện nghiêm
túc, đúng đắn vai tṛ một nhà giáo, được
Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng Ḥa ghi nhận và ân
thưởng BỘI TINH VĂN HÓA GIÁO DỤC năm 1972. Và,
cũng với chứng tích này, người ta gán cho tôi
tội "tích cực đóng góp xây dựng chế
độ NGỤY". Biến cố 1975 và t́nh trạng
sống căng thẳng đầy đe dọạ trong
thời gian mấy năm tiếp theo sau đă kết
hợp thành một cường lực ly tâm vô t́nh và tàn
nhẫn, xua đẩy tôi và gia đ́nh ra khỏi ḷng mẹ
quê hương xa đến tận nửa ṿng trái đất. Trong những ngày tháng
tha hương lưu lạc đó đây, thỉnh thoảng tôi may mắn
gặp lại vài thầy giáo cũ, đôi bạn học
xưa và khá nhiều môn sinh ngày trước của ḿnh
ở Huế và Nha Trang. Để khuây nguôi bớt
những phiền muộn, để giải bày tâm sự
và để khuyến khích các bạn trẻ lưu lạc
nơi xứ người trau giồi ngôn ngữ Việt,
tôi thường tham gia xướng họa thơ trên vài
diễn đàn. Bút hiệu của tôi là Tuệ Quang, một
bạn thơ trẻ (so với tuổi của tôi) ban
đầu tưởng lầm tôi là một nhà tu hay ít
nữa là một người tu xuất ; về sau, khi
biết rơ trước kia tôi là một nhà giáo, đă gởi
cho tôi bài thơ "NHÀ GIÁO NHƯ ÔNG LÁI Đ̉" mà bạn
ấy đă viết tặng các "Thầy, Cô".
Đại ư bài thơ nói "thầy giáo giống như
người đưa đ̣ mà học tṛ là những khách
qua sông. Thầy giáo buồn v́ nghĩ rằng sau khi đă
qua sông, chẳng biết khách có c̣n tưởng nhớ
để trở lại
bến xưa thăm người lái đ̣ cũ !!!" Tôi cám ơn người bạn
thơ trên mạng lưới và chỉ xin tán đồng
một nửa ư kiến của bạn ấy rằng
"thầy giáo đúng như người đưa
đ̣, mỗi niên khóa đưa một lứa học tṛ
sang sông". Nhưng xin không đồng ư về nửa kia
: "thầy buồn v́ nghĩ rằng học tṛ sẽ
quên thầy mà không trở về thăm". Theo tôi, thầy giáo quả
thật có thấy buồn v́ cứ sau mỗi niên khóa
phải tiễn đưa một lứa học tṛ đi
vào đường đời bao la như nh́n theo những
ḍng sông chảy vào đại dương bát ngát, chẳng
biết c̣n có lần tái ngộ. Nếu nước sông có
trở về nguồn th́ cũng phải trải qua
nhiều dạng thức : bốc thành hơi, đọng
thành mây, bay về núi, tụ thành mưa rồi mới tuôn
xuống suối để chảy vào sông .. Học tṛ
cũng vậy, giă từ thầy khi mái tóc c̣n xanh, gặp
lại thầy khi tóc đă thay màu. Lúc ấy chỉ tṛ
dễ nhận ra được thầy, c̣n thầy th́ khó
ḷng nhận ra tṛ nếu không được tṛ nhắc
lại chuyện những ngày xưa cũ. Thầy bùi ngùi khi chia tay học
tṛ v́ e rằng sẽ không có
lần gặp lại chứ không phải v́ sợ tṛ
sẽ quên thầy. Người Việt ta, dù với
tín ngưỡng nào, đều có tinh thần trọng Nho,
xem nặng t́nh nghĩa thầy tṛ. Cố nhiên cũng có vài
trường hợp đặc biệt : một vài học
tṛ giận thầy, oán thầy, thậm chí ghét thầy ..
nhưng chỉ là một số rất ít, đại đa
số đều quí mến thầy. Tôi bắt đầu làm thầy
giáo vào năm 1955. Hồi đó, ở các lớp đệ
nhất cấp có những học tṛ chỉ kém tôi vài
tuổi và giờ đây tất cả đều đă quá
độ lục tuần. Một mùa hè nọ, một giáo
sư đại học ở Úc (Trần xuân D.) nhân tới
Canada tham dự hội nghị giáo dục, vào ngày cuối
cùng nghe tin tôi đang ở Montréal, trước giờ lên
máy bay trở lại Úc, đă vội vàng ghé thăm
để biết "Thầy bây giờ ra sao ?, c̣n trẻ
hay đă quá già ?, mạnh khỏe hay đau yếu ?".
Vị "Giáo sư học tṛ cũ" này đă đem
đến cho tôi một niềm vui, nhưng niềm vui
ấy chỉ đạt tới cao điểm khi tôi
được biết anh là một giáo sư giỏi và
tốt, từng làm vẻ vang cho cộng đồng
Việt Nam ở Úc. Năm 1993, trong ngày "Họp
mặt thân hữu Huế" ở Toronto, một trung niên
cao lớn vạm vỡ có nước da đen sạm, tóc
hoa râm (Nguyễn văn S.) đưa phu nhân và hai tiểu
thư tới bàn tôi chào hỏi "Thầy c̣n nhớ em
không ? Em học với thầy hồi 1955 ở Hàm Nghi. Xin
giới thiệu với thầy đây là vợ và hai con gái
của em" . Hai tiểu thư của anh phá lên
cười : "Ba khéo giỡn, thầy của ba sao
trẻ hơn ba ?". Th́ ra, sau khi thôi học, anh gia
nhập hải quân và trở thành một sĩ quan
người nhái. Từng sống với nắng mưa
miền nhiệt đới, ngâm ḿnh thường xuyên trong
biển mặn, thân h́nh anh trở thành một
"tượng đồng đen". Ngót gần bốn
mươi năm qua rồi, anh vẫn c̣n nhớ (mà tôi th́
lại quên) mấy câu thơ tôi viết thuở ấy cho
một ngướ bạn hàm thụ và đă đọc cho
lớp anh nghe : Gió Gió ơi gió măi rung
cành, Mà sao gió lại
ẩn h́nh nơi đâu ! Quen nhau nhưng
chẳng thấy nhau, T́nh ta, ư gió qua cầu
gió bay ! Cũng vào hôm ấy, tôi vui
mừng được thêm một người nữa
(Phạm hữu D.) đến nhận liên hệ thầy
tṛ. Anh là bác sĩ chuyên khoa quang tuyến X, cho biết đă
học với tôi ở
lớp Đệ Nhất A trường Vơ Tánh, Nha Trang
vào năm 1962. Thật là sung sướng có
được mấy niềm vui đến cùng lúc,
nhưng những niềm vui ấy chỉ trở nên
trọn vẹn sau khi có người cho tôi biết vị
sĩ quan người nhái kia trước đây là một
quân nhân ưu tú, dũng cảm, can trường, bất
khuất, có lập trường kiên định .. và vị
bác sĩ nọ là một lương y, hết ḷng giúp
đỡ bệnh nhân đặc biệt là đối
với các đồng hương. Giữa một tiệc
cưới ở Montréal vào năm 1995, một MC đến
từ Houston, đang thao thao trước máy vi âm, khi nh́n
về hướng tôi, anh bỗng nhiên ngưng lại, nh́n
tôi một chốc, sau khi nhận diện rơ, anh nói lớn :
"Thưa quư vị, hôm nay trong tiệc cưới này, tôi
vô cùng sung sướng không ngờ được gặp
lại một vị thầy cũ, thầy T.T.T, đă dạy tôi hồi 1964 ở
lớp Đệ Nhất trường Vơ Tánh Nha Trang. Xin
mời thầy đứng
lên để em được giới thiệu đến
các quan khách ...". Chao ôi ! C̣n chi sung sướng
bằng "tha hương ngộ cố tri", mà lại
là những cố tri thân thương đều cùng gợi
lại cho ḿnh những kỷ niệm đẹp của
một quăng đời đầy thơ mộng ! Thầy giáo chỉ thoáng buồn
nhẹ nhàng khi tiễn đưa một lứa học tṛ
qua mỗi niên khóa, nhưng
lại vui rất nhiều mỗi khi nghe tin có những
học tṛ ḿnh thành công trên đường đời,
hữu dụng cho đất nước, vượt xa
ḿnh về tài năng, về sự nghiệp : "con
hơn cha nhà có phước, tṛ hơn thầy đất
nước vinh quang". Thầy chỉ xót xa đau ḷng khi
biết được một học tṛ nào đó có
những hành vi bất xứng, không phân biệt rơ thiện
ác, chính tà .. chỉ v́ chút danh
lợi phù du mà có thể bán rẻ lương tâm, coi
nhẹ nhân cách, a ṭng tiếp tay với kẻ tàn ác, bạo
ngược rồi cam tâm trở thành một "tiểu
nhân phù thịnh". Nghề thầy về vật
chất thật rất đạm bạc, nhưng về
tinh thần th́ quá tuyệt vời. Quả là một
nghề vô cùng cao quí. Tôi thấy măn nguyện và hănh diện
về ḿnh trước kia đă quyết định
chọn lựa làm người đưa đ̣ văn
hóa. Từ nhiều năm nay ở
khắp nơi, tưng bừng như trăm hoa đua
nở, rất nhiều học sinh và nhà giáo cũ của
nhiều trường đă t́m về bên nhau bằng cách
kết hợp thành những hội ái hữu hoặc
tổ chức những buổi họp mặt qui tụ
đông đảo thầy tṛ, bạn hữu như các nhóm
liên trường Quốc Học & Đồng Khánh
của Huế, Hồ Ngọc Cẩn & Lê Văn
Duyệt của Gia Định, Ái hữu Gia Long hay Trưng
Vương của Sài G̣n, Phan Chu Trinh của Đà Nẵng
rồi Vơ Tánh & Nữ Trung Học của Nha Trang ... Những sinh hoạt đó đă
thể hiện rơ nét cao đẹp tuyệt vời của
văn hóa Việt. Không được may mắn như
nhiều dân tộc khác trên thế giới, dân tộc
Việt Nam nói chung và tập thể người Việt Nam
tại hải ngoại nói riêng, hiện đang trải qua
một giai đoạn lịch sử đặc biệt vô
cùng phức tạp, tế nhị. Trên bất cứ
một vấn đề ǵ thuộc bất cứ một
lănh vực nào : chính trị, xă hội, kinh tế, tôn giáo và
ngay cả vấn đề nhân đạo từ thiện
.., mỗi người đều có một lối nhận
định, một cách suy diễn, một phương
thức hành sử riêng, không những chỉ khác biệt mà
đôi khi c̣n đối chọi nhau gay gắt. Do đó có
nhiều sinh hoạt, ban đầu với tinh thần xây
dựng đoàn kết nhưng về sau lại sinh ra ít
nhiều đối nghịch, tranh chấp. Từ đó
khiến nhiều người tuy giàu t́nh cảm, dù
thiết tha với t́nh nghĩa bạn hữu, thầy tṛ nhưng
đă dè dặt không hăng hái ḥa nhập chỉ v́ muốn
tránh những phiền lụy cho bản thân. Nếu như
mỗi sự việc đều được
đặt đúng vào khung cảnh vị trí của nó,
chẳng hạn một diễn đàn chính trị
để dành riêng cho những ai muốn luận bàn chính
trị, một diễn đàn xă hội cho những người thích hoạt động
xă hội từ thiện, một diễn đàn tôn giáo riêng
cho mỗi tôn giáo để rao truyền phát huy giáo lư, tô
đúc đức tin ...
những đề tài qui mô lớn và tế nhị
đó nếu không được đem xen lẫn vào các
sinh hoạt thuần túy ái hữu th́ sẽ không một
cuộc hội ngộ nào xảy ra những ư kiến
bất đồng đưa đến t́nh trạng
căng thẳng mất vui. Một cuộc hội ngộ
nếu nhắm đến
mục đích chỉ gặp gỡ nhau để ôn
nhớ kỷ niệm quá khứ, gắn bó t́nh thân, hỏi
han san sẻ nhau những vui buồn của cuộc
sống cá nhân, cuộc sống gia đ́nh trong hoàn cảnh
"người c̣n, kẻ mất, đứa tha
hương", trao nhau lời an ủi, cho nhau chút niềm tin, hỗ trợ nhau
về tinh thần hay vật chất trong phạm vi nội
bộ ... th́ nhất định sẽ không có chuyện
đối nghịch mâu thuẫn đưa đến t́nh
trạng tranh căi bất ḥa và cũng chắc chắn sẽ
lôi cuốn được số đông người tham
dự, dễ dàng qui tụ được mọi cá nhân có
xu hướng, ư kiến
bất đồng. Đang lúc chờ đợi
một tương lai có đầy ánh sáng, có đủ t́nh người để có
thể vĩnh viễn về lại nơi chôn nhau cắt
rốn, th́ tạm thời qua những lần hội
ngộ, ta mơ ước có thể h́nh dung mường tượng thấy
một khung trời Việt Nam thu nhỏ, ở đó t́nh
thầy nghĩa bạn có thể biểu lộ thay thế được
phần nào t́nh tự dân tộc, t́nh tự quê hương.
Và cũng ở đó, những ai đă hiến trọn
đời ḿnh cho sứ mạng "đưa đ̣
văn hóa" sẽ thấy tự hào, hănh diện với
những chân thiện mỹ của "NGHỀ
THẦY". Montréal, 2005TUỆ QUANG-TÔN
THẤT TUỆ
CHÚ CHIÊN HIỀN LÀNH "Theo
lời kể Lê Ngọc
Quế Anh" Sáng mùa xuân năm ấy, nắng
chói chang khắp thung lũng
Hoa Vàng. Lăo Ivan bước ra sân, nh́n bà Linna đang mở
cửa chuồng cho bầy chiên và đám dê của trại
chăn nuôi của bà xuống ăn cỏ dưới chân
đồi. Như nhớ ra, lăo gọi vợ dặn ḍ: - Bà ơi, để lại cho tôi
một con chiên tơ nhá. - Chi thế ? Bà Linna hỏi. Lăo
trả lời giọng trách móc: - Bà
không nhớ mai là ngày Noel sao? Bắt một chú chiên đem
biếu gia đ́nh lăo thông giáo mới đến buôn ḿnh,
đêm mai ăn mừng Giáng Sinh ! - Ô
hay ! Bà Linna lườm ông Ivan tưởng ông nói nhầm :
"Người ta ăn gà tây hay ăn dê cũng
được, ai lại ăn chiên !? Cái ông lẩm cẩm
nầy .." Lăo
Ivan bập bập điếu thuốc xi-gà, trề môi
cười méo xệch, rồi giải bày với vợ: - Bà
biết hông ? Thầy thông Giáo nầy mới đổi
về . Ông ta bảo không ăn thịt dê. Ăn thịt
chiên thôi. Tôi nghe chính miệng ông ấy nói rơ ràng.
Ai bảo với bà tôi lẩm cẩm hử ? -
Được rồi ! Bà Linna bắt con chiên con
đi đủng đỉnh phía sau bầy nhốt vào
chiếc lồng đan bằng mây, rồi đem treo lên
cành cây kế bậc thang cửa nhà cho chồng. Nh́n đôi mắt chiên con ươn-ướt .. Bà Linna xót xa lẩm bẩm: - Một con chiên đi lạc ..
Chúa con đi t́m .. Ai lại ăn thịt cho đành. Bà Linna
vuốt tay lên bộ lông mịn của chú chiên , rồi
nhắm mắt th́ thầm: "Chúa ơi! Xin thương
xót con chiên hiền ngoan của con !" Mặt trời rực lên bên kia dăy đồi, lăo
Ivan vội vă quảy gánh bắp cải và chú chiên ra
khỏi thung lũng. Lăo băng theo một con đường
cỏ mịn dọc hết triền đồi. Cảm
thấy thấm mệt, lăo vào ngồi nghỉ trong một
túp cḥi ở cánh rừng chồi . Lăo tính là phải qua
đến 3 cánh rừng thông và một trảng cát vàng
nữa mới tới nhà thầy thông giáo mà lăo
định biếu tặng chú chiên con. Khi Lăo đến
cánh rừng thứ hai th́ trời đă đứng trưa.
Nắng nóng gắt, lăo lại ghé vào 1 túp lều của các
mục đồng, xuống khe múc nước cho chú Dê con
uống xong, lăo định
nằm nghỉ mệt, nhưng rồi ngủ quên.
Bọn trẻ chăn dê từ khe suối kéo đến
thấy con chiên bé tí bị trói chân nhốt trong chiếc
lồng để trong lều. Chúng biết là lăo Ivan
sắp đem cho người ta ăn thịt, bọn
trẻ liền chạy
về bầy bắt một con dê con đến tráo
đổi để cứu con chiên hiền lành. Mặt trời xế ngang núi, lăo
Ivan mới đến được nhà Thầy thông giáo
để tặng chú chiên làm quà Giáng Sinh. Gia đ́nh Thầy
thông giáo mừng rỡ cám ơn lăo rối rít, nhưng khi ra
nh́n vào lồng th́ thấy chú dê con bị khớp mỏ
đang nằm trong đó. Thấy thầy truyền giáo có vẻ không vui, lăo Ivan
thật thà xin lỗi và hứa trở về bắt con
chiên đem đến cho ông thông giáo ngay tối nay. - Bà
nhà tôi tệ quá, tôi bảo bắt chiên mà mụ
lại nghe dê .. Sorry ông giáo ! Lăo Ivan lại quày quả quảy
chú dê ra về. Khi Lăo đến ngang túp lều ghé nghỉ
ban trưa th́ thấm mệt, lăo lại vào nằm nghỉ,
rồi đánh thêm một giấc
nữa .. Đám mục đồng lại xuất
hiện. Chúng nhẹ nhàng bế chú chiên trả về cho lăo và thả dê ra cho nó nhập bầy. Lăo Ivan
thức dậy lật đật xách lồng chiên
bương bả leo đèo. Khi về đến nhà th́
trời đă sụp tối, thấy bà Linna đang
ngồi đốt lửa ngoài chuồng trại, lăo
lớn tiếng với vợ:
-
Bảo bà bắt chiên bà lại bắt dê ! Mụ già
lẩm cẩm .. Tôi đă nói, ông giáo muốn ăn chiên không
ăn dê . Thế mà bà cứ
bắt dê đem biếu ông ta . - Th́
tôi bắt con chiên rơ ràng . . . Có ông dê th́ có. Nghe vợ nói
giọng mai mỉa, quả quyết, lăo Ivan không dằn
được cơn bực. Lăo chỉ cái lồng
trước sân lớn tiếng: - Ra
xem đi .. Coi con ǵ trong đó hả ? Bà Linna xách đèn soi vào chiếc
lồng. Chú chiên con thấy bà, nguẩy đuôi mừng
rỡ. Bà bồng nó đưa lên trước mặt Lăo
Ivan gằn giọng: - Dê đây hả .. Đồ
điên! - Cảm ơn Chúa thương xót chú chiên hiền
lành của tôi. Lăo Ivan nh́n chiên con sửng sốt
.. nói như rên rỉ : - Sao kỳ vậy ?!! Sáng chiên,
trưa dê, chiều chiên .. Điên .. Điên hết ! Bà Linna mỉm cười nh́n
chồng: - Tôi và Chiên con yêu cưng của
tôi không có điên đâu nhé... Bà Ivan vừa nói vừa vỗ
nhẹ vào mông chú Chiên. Nó
ngỏng đuôi chạy bay
về bầy chui vào ḷng mẹ nó .. Giáng Sinh 2004 SÔNG CỬU
THƯ GỞI BẠN
Mùa thu nơi đây khi nào cũng đầy lá úa vàng và lá phong đỏ. Khung cảnh thật đẹp nhưng thật buồn, nhất là những ngày đầy sương mù, không có nắng. Mặt trời lười biếng trở dậy, nên bầu trời khi nào cũng u ám và ẩm thấp. Mùa thu ở đây làm nhớ
đến bài "C̣n
chút ǵ để nhớ": "Phố núi cao phố
núi đầy sương , .. trời thấp thật
gần .., anh khách lạ đi lên đi xuống may mà có em
đời c̣n dễ thương .." Ở bên nầy, nơi ḿnh ở,
không là phố núi cao cho tay với tới trời, nhưng
khi bước vội trên đường, mưa rơi
lất phất, sương mù giăng kín truớc sân nhà
sáng sớm hôm nay, ḿnh lại có cái cảm tuởng
"trời thấp thật gần" ấy. Ḿnh cũng
chẳng c̣n là người khách lạ đi lên, đi
xuống sau hơn 20 năm trôi theo vận nước lang
bạt xứ nguời. Vậy mà cứ mỗi khi thu
về, nh́n lá vàng rơi lả tả ngoài sân, cây cối
đă bắt đầu trụi lá, th́ cái buồn mênh mông
lại đến, lại mới toang như mùa thu
đầu tiên đặt chân nơi đây. Cái không khí lành lạnh se sắt
đă đến từ cuối tháng chín. Cái lạnh làm
người ta lười biếng không muốn trỗi
dậy đi làm khi tiếng đồng hồ báo thức
réo gọi từng hồi buổi sáng. Cái lạnh làm ḿnh
thèm ngồi dưới nắng ấm quê nhà, dưới
hàng hiên trong rẫy mà nghe mùi hoa lài, hoa nguyệt quế
thoang thoảng xa đưa, hay ra sau mà nghe sóng biển
vỗ về trong cơn gió nhè nhẹ đong đưa cây
bần rụng trái. Nhớ làm sao hàng măng cầu cây
chưa kịp đơm hoa kết trái trên luống
đất bên nhà, nhớ làm sao bước chân nhỏ
nhắn của đứa em trai 12 tuổi dẫn chị
đi dọc theo bờ đê giữa hai miếng ruộng
trong mùa mưa tháng 9. Cái câu ru em "khó đi mẹ dắt
con đi" lúc đó trở thành "khó đi em dắt
chị đi, chị đi trường học em đi
truờng đời" . Ḍ dẫm theo bước chân em,
nh́n mái tóc đen thuở nào đă vàng hoe v́ nắng cháy mà xót
xa mà ngậm ngùi cho tuổi thơ sau cái ngày bàng hoàng hụt
hẫng đó. Mỗi mùa thu về nơi đây
là nỗi nhớ nhà, nhớ quê lại tràn ngập trong
hồn, lại rưng rưng theo mưa, theo gió lạnh
của trời. Mỗi khi mùa thu lăng đăng nơi
đây là nỗi buồn bàng bạc xâm chiếm ḷng ḿnh. Các
nhỏ có nhớ bài văn hồi đệ lục mà
thầy Hải (nguời hùng Sabot) dạy và bắt học
thuộc ḷng không: " Thu năm nay tôi lại đi trên con
đuờng vắng nầy, nghe từng chiếc lá rơi
trên bờ cỏ. Nắng ở đây vẫn là nắng
ngày xưa, mà linh hồn tôi có c̣n là linh hồn tôi năm
cũ .." CA DAO
|