THƠ, TỤC-NGỮ VÀ CA-DAO LIÊN-QUAN ĐẾN
GÀ (DẬU)
Dưới đây là những câu hò, thơ, tục-ngữ,
và ca-dao liên-quan đến gà thuộc năm Dậu được
viết theo thứ tự A, B, C . . . để mọi
người dễ tham-khảo. Theo nguyên-tắc viết
thơ, các chữ đầu của các câu thơ, ca-dao, và
tục-ngũ đều phải viết hoa nên dù là
trước các câu thơ, ca-dao, và tục-ngữ, có
dấu phết, dấu chấm phết, hay dấu chấm
thì các chữ đầu của câu thơ, ca-dao, và
tục-ngữ tiếp theo vẫn phải viết hoa.
Nếu có dấu / ở giữa hai câu thơ thì những câu
thơ đó thuộc cùng một đoạn thơ, đoạn
tục-ngữ, hay đoạn ca-dao.
A. Ai qua Bà-Điểm,/
Hỏi thăm ông Tám-Khiểng,/ Chuyện nuôi giống gà đòn,/
Xuân rồi giặc đánh cuối thôn,/ Hỏi rằng gà
trống có còn hay chăng? Hò ơi! Ơi hò! (Ghi-Chú: Đây là
câu hò của những người thích chọi gà ở Hóc-Môn,
Bà-Điểm, Bình-Dương, và Lái-Thiêu nói về giống
gà đòn hay gà cù-lự thuộc loại gà trống. Ông Tám-Khiểng
ở Bà-Điểm bị chết trong dịp Tết
Mậu-Thân, 1968, vì bọn giặc Cộng-Sản tấn-công
cướp phá Miền Nam). Ao sâu nước cả khôn chài
cá, / Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà (thơ
Tam- Nguyên Yên-Đổ)
B. Bạn bè thân nhau cho gà
trống,/ Đừng phiền nhau xin giống gà mái. Bìm-bịp
bắt gà con. Bới nát đám cỏ gà. Buồn về
một nỗi tháng năm, / Chửa đặt mình nằm
gà gáy chim kêu. Bút sa gà chết. Bụt trên tòa, gà nào mở
mắt.
Biếng nhắp năm
canh chầy, / Gà đà sớm giục-giã (2 câu thơ trong bài
Đêm Mùa Hạ của Nguyễn
Khuyến).
C. Cà kê nghê ngỗng (cà và kê
đều là gà, nghê và ngỗng đều là ngỗng).
Cất lên một tiếng la-đà, / Cho chim nhớ tổ
cho gà nhớ con. Cậu Cai nón dấu lông gà, / Cổ tay đeo
nhẫn gọi là Cậu Cai. Chẳng tham nhà ngói bức bàn,
/ Trái duyên coi bẵng một gian chuồng gà. Chị kia
bới tóc đuôi gà, / Nắm đuôi chị lại,
hỏi nhà chị đâu? Chiều chiều quạ nói
với diều, / Vườn cau kia rậm lại nhiều
gà con. Chiều chiều con quạ lợp nhà, / Con cu chẻ
củi, con gà quăng tranh. Chim gà cá lợn cành cau, / Mùa nào
thức ấy giữ màu nhà quê. Cho hay tiên lại kiếm tiên,
/ Phượng-Hoàng chẳng chịu đứng chen đàn
gà. Chó cậy gần nhà,/ gà cậy gần chuồng. Chó
liền da, gà liền xương. Chó giữ nhà, gà gáy sáng.
Chó giữ nhà, gà gáy trống-canh. Chớ quen bắt chó mua dê,
/ Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng. Chơi chó, chó
liếm mặt, / Chơi gà, gà mổ mắt. Chớp đông
nhay-nháy, / Gà gáy thì mưa. Chú vịt chú gà,/ Nhắc võng ông bà,/
Trèo lên núi chiều,/ Giặc thấy đã nhiều, /
Chạy như con cút. Chuồng phân nhà, chẳng để gà
người bới. Chữ viết như gà bới.
Chuyện-trò chưa cạn tóc-tơ, / Gà đà gáy sáng,
trời vừa rạng-đông (câu thơ số 3215 và 3216 trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Có
chân mà chẳng có tay, / Có hai con mắt ăn mày dương
gian (Đây là câu đố trong tục-ngữ phong-giao có
nghĩa là con gà).
Có
duyên lấy được chồng già, / Ăn xôi bỏ cháy,
ăn gà bỏ xương. Con cà con kê (cà và kê là gà). Con cóc
nhảy xa, / Con gà ú-u. Con công ăn lẫn với gà,/
Rồng kia rắn nọ coi đà sao nên! Con chim trên núi, con gà
dưới suối, / Nó gáy giọng chầu đôi chầu
ba. Con gà tốt mã về lông,/ Răng đen về
thuốc, rượu nồng về men. Con gà con vịt
cũng không,/ Bóng tre có mát, ngoài đồng không ai. Con gà
cục-tác lá chanh, / Con lợn ủn-ỉn: mua hành cho tôi.
Con quốc kêu réo trên ngàn, / Gà rừng táo-tác gọi con tha
mồi. Con tông gà nòi (tông nghĩa là dòng họ). Cõng rắn
cắn gà nhà. Cỗ xôi, con gà. Cơm gà cá gỏi.
Cựa gà sắc không đâm giáp giặc,/ Mẹo bạc
gian khó đoạt mưu quân (thơ của Bửu-Văn
Phan Kế-Bính).
D. Da cóc mà bọc trứng
gà,/ Bổ ra thơm-phức cả nhà muốn ăn.
Dậy! Dậy! Dậy! / Bên án một tiếng gà vừa gáy
(thơ của cụ Phan Bội-Châu).
Đ. Đánh con ngựa gỗ chạy xung
quanh nhà,/ Những loài gà vịt lánh xa,/ Kẻo mà chẹt
cẳng kẻo mà rụng lông. Đã báo rạng-đông, gà sáng
gáy (thơ Đường Bá-Hồ). Đàn bà năm
bảy đàn bà,/ Chồng dặn mua gà, đi mua quốc
con. Đầu gà má lợn. Đẻ như gà. Đỏ
như mào gà.
E. Ếch tháng ba, gà tháng tám.
/ Em về thưa mẹ cùng cha, / Bắt lợn đi
cưới bắt gà đi cheo (cheo nghĩa là lễ
nộp tiền cho làng về việc cưới xin).
G. Gà ăn hơn công ăn.
Gà chê thóc chẳng bới,/ người mới chê tiền.
Gà cỏ quay mỏ về rừng. Gà con đuổi bắt
điều-hâu,/ Chim ri đuổi đánh vỡ đầu
bồ-nông (bồ-nông: loại chim mình lớn mỏ dài,
dưới cổ có bìu để đựng món ăn). Gà
con ta để ta nuôi, / Đến mai ta gả con chó
cụt đuôi cho mày. Gà cùng chuồng đá lẫn nhau. Gà
cựa dài thì thịt rắn, / Gà cựa ngắn thì
thịt mềm. Gà đẻ, gà lại cục-tác. Gà đen
chân trắng, mẹ mắng cũng mua, / Gà trắng chân chì,
mua chi giống ấy. Gà gáy canh một hỏa-tai, canh hai đạo-tặc.
Gà ghét nhau tiếng gáy. Gà khôn gà chẳng đá lang, / Gái khôn gái
chẳng bỏ làng gái đi. Gà mái gáy gở (dở,
xấu). Gà mọc lông măng. Gà nào hay bằng gà Cao-Lãnh, / Gái
nào bảnh bằng gái Nha-Mân. Gà người gáy, gà ta sáng. Gà
nhà lại bới bếp nhà. Gà què ăn quẩn cối xay.
Gà què bị chó đuổi. Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn.
Gà trống (sống) còn giò. Gà trống nuôi con. Gà tức nhau
tiếng gáy. Gà về bới nát cỏ sân, / Mèo buồn
lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài. Gái một con, gà non
một lứa. Giả ơn cái cối cái chày, / Nửa đêm
gà gáy có mày có tao. Giả ơn cái cọc bờ ao, / Nửa đêm
gà gáy có tao có mày.
Giặc sợ, giặc chạy về nhà, / Trở ra
gọi mẹ mổ gà khao quân. Giết lợn đồ xôi,
lại giết gà / Cỗ bàn xong cả từ hôm qua (thơ
Nguyễn Bính). (ghi-chú: đồ xôi nghĩa là chưng,
hấp, hay nấu xôi).
Gió
đưa cành trúc la-đà,/ Tiếng chuông Thiên-Mụ canh gà
Thọ-Xương. Giun dế ăn gà,/ Cá rô cưỡi
ngựa. Gươm gẫy gà xác.
H. Hễ bảo quét sân, đánh
chết ba gà, / Bảo đi quét nhà đánh chết ba chó. Hoài
thóc ta cho gà người bới.
K. Kể gà, kể dê,
kể ngỗng. Kể lể con cà con kê (gà). Khách đến
nhà, chẳng gà thì gỏi. Khôn-ngoan đá-đáp người
ngoài, / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Không tre mà có măng
mọc, / Không trâu cày mà có tiếng hò-reo. / Không chó có
tiếng cắn theo, / Không gà có tiếng ra chiều gọi
con (Đây là câu đố trong tục-ngữ phong-giao có
nghĩa là cái áo).
Không
như mọi Tết, người mua quà, / Chỉ mua pháo
nổ với tranh gà (thơ Nguyễn Bính).
L. Lao-xao gà gáy rạng ngày,
/ Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Lóng canh gà vừa mới gáy
tan, / Chủ đã gọi thằng chăn vội-vã ( 2 câu
trong bài thơ Trâu Kể
Công-Trạng Mình trong tác-phẩm Lục-Súc Tranh Công).
Lờ-ngờ như gà mang hòm.
M. Mã-đề
dương-cước anh hùng tận, / Thân-Dậu liên-lai
kiến thái-bình. Máu gà thì tẩm xương gà, / Máu gà đem
tẩm xương ta sao đành! Măng non nấu với gà
đồng, / Chơi nhau một trận xem chồng về
ai. Mặt tái như gà bị cắt tiết. Mâm xôi nuốt
trẻ lên mười, / Con gà, be (chai) rượu nuốt
người lao-đao. Mẹ gà con vịt. Mẹ gà con
vịt chắt-chiu, / Mấy đời Cộng-Sản có yêu
dân hiền, / Yêu chăng là nó yêu tiền,/ Đô-la gõ tới
cửa quyền mở ra. Mẹ gà con vịt chít-chiu, /
Mấy đời dì ghẻ thương yêu con chồng.
Mẹ gà đi chợ, / Con ở lại nhà,/ Vịt lén
tới nhà,/ Cắp gà con chạy,/ Gà về thấy
vậy,/ Đuổi vịt khắp nơi,/ Mổ đánh
tơi-bời,/ Vịt nhoi xuống nước. Mình
rằng: Mình muốn lấy ta,/ Ta đi xuống chợ
mua gà xem chân.
Mịt-mù dặm cát đồi cây,/ Tiếng gà điếm
nguyệt dấu giầy cầu sương (câu thơ
số 2029 và 2030 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Mong
chồng, chồng chẳng xuống cho, / Đến cơn
chồng xuống, gà o o gáy dồn,/ Cha mẹ con gà kia sao mày
gáy dồn, / Mày làm cho ta mất vía kinh-hồn về nỗi
chồng con.
Mỗi lần nắng mới hắt bên sông, / Nghe tiếng
gà trưa gáy não-nùng, / Lòng gởi(gửi) buồn theo
thời dĩ-vãng, / Chập-chờn sống lại
những ngày xuân (thơ Lưu Trọng-Lư).
Một thương tóc bỏ đua gà, / Hai thương ăn
nói mặn-mà có duyên. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa. Mùa
hè đang nắng, cỏ gà trắng thời mưa.
Muối kia đổ ruột con gà, Mẹ mình không xót
bằng ta xót mình. Mười ba trăng lặn gà kêu,/
Mười bốn trăng lặn, gà đều gáy tan.
Mướp non nấu với gà đồng.
N. Năm Ất-Dậu
(1945) tháng ba, con nhớ mãi, / Giống Lạc-Hồng
cực trải lắm đau-thương! / Những thây ma
thất-thểu đầy đường, / Rồi ngã
gục không đứng lên vì đói! / Đói tự
Bắc-Giang đói về Hà-Nội, / Đói ở Thái-Bình đói
tới Gia-Lâm (Thơ của Bàng Bá Lân).
Nếm muỗng đường om, mùi thơm vị
ngọt, / Qua thương-nhớ bậu (vợ) thức trót
canh gà. Ngàn đông khói lẫn lạc-hà, / Giọt mưa
cổ-thụ tiếng gà cô-thôn (2 câu thơ trong bài Thuyền Ngược Dòng Sông Lam của Nguyễn
Huy-Hổ). Ngẩn-ngơ như chú bán gà, / Tiền
rưỡi chẳng bán, bán ba mươi đồng. Ngây-ngô
như gà cồ, lờ-đờ như đom-đóm đực.
Ngủ-gà ngủ-gật.
Những là đo-đắn ngược xuôi, / Tiếng gà
nghe đã gáy sôi mé tường (câu thơ số 865 và 866
trong Truyên Kiều của Nguyễn Du)
Nhà
bay chết lợn, toi gà, / Năm ba ông cống đến
nhà ngày mưa. (ghi-chú: ông cống có nghĩa là người đỗ
thi-hương hay cử-nhân). Nhác trông lên, trăng đã
xế-tà, / Đêm hôm khuya-khoắt con gà đã gáy sang canh.
Nhất phao-câu, nhì đầu cánh. Nổi da gà. Nuôi gà
phải chọn giống gà, / Gà ri bé giống nhưng mà đẻ
mau, / Nhất to là giống gà nâu, / Lông to thịt béo về
sau đẻ nhiều, / Gà nâu chân thấp mình to,/ Đẻ
nhiều trứng lớn con vừa khéo nuôi. Nửa đêm gà
gáy o o, / Tao ngủ không được, tao bò tao chơi.
Nửa đêm gà gáy o o, / Của dì dì giữ, ai bò mặc ai.
O. Ông nói gà, bà nói vịt.
P. Phượng-hoàng đậu
chốn cheo-leo,/ Sa-cơ thất-thế phải theo đàn
gà.
Q. Quả thị trả bà,
/ Con gà trả ông, / Con công phần tôi. Quạ thấy gà thì đớp.
R. Ráng mỡ gà thì gió, / Ráng
mỡ chó thì mưa, / Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống
(ghi-chú: ráng nghĩa là đám mây phản-chiếu bóng mặt
trời về tảng-sáng hay xế-chiều),/ Cỏ gà màu
trắng, điềm nắng đã hết, / Mùa hè đang
nắng, có gà trắng thì mưa. Rễ cây trắng, cỏ
gà trắng: trời sắp mưa. Rung-răng rung-rẻ,/
Dắt trẻ đi chơi,/ Đến cửa nhà
trời,/ Lạy cậu lạy mợ,/ Cho cháu về quê,/
Cho dê đi học,/ Cho cóc ở nhà,/ Cho gà bới bếp.
T. Ta về ta rủ
bạn ta, / Nuôi lợn nuôi gà cày-cấy ta ăn. Thả đỉa
ba-ba,/ Làm ngỗng làm gà,/ Làm voi làm gấu,/ Làm anh cá sấu,/
Làm chị ễnh-ương. Thứ nhứt Thế-Đức
gan gà,/ Thứ hai Lưu-Bội, thứ ba Mạnh-Thần.
Tí hầu mày liệng cho tròn, / Đến mai ta gả gà con
cho mày. Tiếc con gà quạ tha. Tiền trao ra, gà bắt
lấy.
Tiếng gà nghe vọng đêm thâu, / Giật mình ngỡ
tiếng còi tầu năm xưa (thơ Nguyễn Bính).
Tiếng gà văng-vẳng gáy trên hom, / Oán-hận trông ra
khắp một chòm (2 câu thơ đầu trong bài Tự-Tình của Hồ Xuân Hương).
Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ, / Tôi
hoảng-hồn lên, giận sững-sờ (thơ Hàn
Mặc Tử).
Tiếng gà xao-xác gáy mau, /
Tiếng người đâu đã mé sau dậy-dàng (câu
thơs số 1123 và 1124 trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du)
Tóc
em buông thả đuôi gà, / Miệng em ăn nói mặn-mà có
duyên. Tội vịt chưa qua, tội gà đã đến.
Tuổi Dậu con gà vàng lông,/ Có mỏ có mồng, sáng gáy o
o! Trả ơn cái cối cái chày, / Nửa đêm gà gáy có mày
có tao. Trai thấy gái lạ như quạ thấy gà con.
Trời làm một trận phong ba, / Chồng tôi như đứa
bán gà chợ phiên.
V. Vào vườn xem
vượn hái hoa, / Xem voi đi guốc, xem gà nhuộm răng.
Vắng chủ nhà, gà bới bếp. Vắng chúa nhà, gà
mọc đuôi tôm. Vật ngon đâu đến thứ ba, /
Những trâu hạ địa cùng gà chết-toi. Vịt già,
gà to. Vịt răn, gà cúp chớ nuôi.
Vừa bằng con gà trống đỏ, thò-lõ trên cây (Đây
là câu đố trong tục-ngữ phong-giao có nghĩa là bắp chuối).
Vừa bằng quả cà, trong da ngoài nạc (Đây là câu đố
trong tục-ngữ phong-giao có nghĩa là cái mề gà).
X. Xám gan gà. Xỉa cá mè,/ Đè cá chép,/ Chân nào đẹp,/
Đi rao men,/ Chân nào đen,/ Ở nhà làm gà làm chó. Xoắn
ruột gà. Xui trẻ ăn cứt gà.
KHẢI CHÍNH PHẠM KIM THƯ