BÀI VIÊ'T (tt)

Home
CHUYÊ.N THIÊ`N
CHUYÊ.N THIÊ`N (tt)
VA(N
VA(N (tt)
VA(N 1
VA(N 2
Va(n 3
VA(N 4
VA(N 5
VA(N 6
VA(N 7
VA(N 8
VA(N 9
THO'
CHUYÊ.N LA.
TIÊ?U LUÂ.N
BÀI VIÊ'T
BÀI VIÊ'T (tt)
BÀI VIÊ'T 1
BÀI VIÊ'T 2
BÀI VIÊ'T 3
BÀI VIÊ'T 4
TA`I TU'?
VA(N TÊ'

0_agacon_trung.jpg

THƠ, TỤC-NGỮ VÀ CA-DAO LIÊN-QUAN ĐẾN GÀ (DẬU)

 

THƠ, TỤC-NGỮ VÀ CA-DAO LIÊN-QUAN ĐẾN (DẬU)

            Dưới đây là những câu hò, thơ, tục-ngữ, và ca-dao liên-quan đến thuộc năm Dậu được viết theo thứ tự A, B, C . . . để mọi người dễ tham-khảo. Theo nguyên-tắc viết thơ, các chữ đầu của các câu thơ, ca-dao, và tục-ngũ đều phải viết hoa nên dù là trước các câu thơ, ca-dao, và  tục-ngữ, có dấu phết, dấu chấm phết, hay dấu chấm thì các chữ đầu của câu thơ, ca-dao, và tục-ngữ tiếp theo vẫn phải viết hoa. Nếu có dấu / ở giữa hai câu thơ thì những câu thơ đó thuộc cùng một đoạn thơ, đoạn tục-ngữ, hay đoạn ca-dao.

        A. Ai qua Bà-Điểm,/ Hỏi thăm ông Tám-Khiểng,/ Chuyện nuôi giống gà đòn,/ Xuân rồi giặc đánh cuối thôn,/ Hỏi rằng gà trống có còn hay chăng? Hò ơi! Ơi hò! (Ghi-Chú: Đây là câu hò của những người thích chọi gà ở Hóc-Môn, Bà-Điểm, Bình-Dương, và Lái-Thiêu nói về giống gà đòn hay gà cù-lự thuộc loại gà trống. Ông Tám-Khiểng ở Bà-Điểm bị chết trong dịp Tết Mậu-Thân, 1968, vì bọn giặc Cộng-Sản tấn-công cướp phá Miền Nam). Ao sâu nước cả khôn chài cá, / Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà (thơ Tam- Nguyên Yên-Đổ)

        B. Bạn bè thân nhau cho gà trống,/ Đừng phiền nhau xin giống gà mái.  Bìm-bịp bắt gà con. Bới nát đám cỏ gà. Buồn về một nỗi tháng năm, / Chửa đặt mình nằm gà gáy chim kêu. Bút sa gà chết. Bụt trên tòa, gà nào mở mắt.

Biếng nhắp năm canh chầy, / Gà đà sớm giục-giã (2 câu thơ trong bài Đêm Mùa Hạ của Nguyễn Khuyến).

        C. Cà kê nghê ngỗng (cà và kê đều là gà, nghê và ngỗng đều là ngỗng). Cất lên một tiếng la-đà, / Cho chim nhớ tổ cho gà nhớ con. Cậu Cai nón dấu lông gà, / Cổ tay đeo nhẫn gọi là Cậu Cai. Chẳng tham nhà ngói bức bàn, / Trái duyên coi bẵng một gian chuồng gà. Chị kia bới tóc đuôi gà, / Nắm đuôi chị lại, hỏi nhà chị đâu? Chiều chiều quạ nói với diều, / Vườn cau kia rậm lại nhiều gà con. Chiều chiều con quạ lợp nhà, / Con cu chẻ củi, con gà quăng tranh. Chim gà cá lợn cành cau, / Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê. Cho hay tiên lại kiếm tiên, / Phượng-Hoàng chẳng chịu đứng chen đàn gà. Chó cậy gần nhà,/ gà cậy gần chuồng. Chó liền da, gà liền xương. Chó giữ nhà, gà gáy sáng. Chó giữ nhà, gà gáy trống-canh. Chớ quen bắt chó mua dê, / Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng. Chơi chó, chó liếm mặt, / Chơi gà, gà mổ mắt. Chớp đông nhay-nháy, / Gà gáy thì mưa. Chú vịt chú gà,/ Nhắc võng ông bà,/ Trèo lên núi chiều,/ Giặc thấy đã nhiều, / Chạy như con cút. Chuồng phân nhà, chẳng để gà người bới. Chữ viết như gà bới.

      Chuyện-trò chưa cạn tóc-tơ, / Gà đà gáy sáng, trời vừa rạng-đông (câu thơ số 3215 và 3216 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du).

      Có chân mà chẳng có tay, / Có hai con mắt ăn mày dương gian (Đây là câu đố trong tục-ngữ phong-giao có nghĩa là con gà).

      Có duyên lấy được chồng già, / Ăn xôi bỏ cháy, ăn gà bỏ xương. Con cà con kê (cà và kê là gà). Con cóc nhảy xa, / Con gà ú-u. Con công ăn lẫn với gà,/ Rồng kia rắn nọ coi đà sao nên! Con chim trên núi, con gà dưới suối, / Nó gáy giọng chầu đôi chầu ba. Con gà tốt mã về lông,/ Răng đen về thuốc, rượu nồng về men. Con gà con vịt cũng không,/ Bóng tre có mát, ngoài đồng không ai. Con gà cục-tác lá chanh, / Con lợn ủn-ỉn: mua hành cho tôi. Con quốc kêu réo trên ngàn, / Gà rừng táo-tác gọi con tha mồi. Con tông gà nòi (tông nghĩa là dòng họ). Cõng rắn cắn gà nhà. Cỗ xôi, con gà. Cơm gà cá gỏi.

      Cựa gà sắc không đâm giáp giặc,/ Mẹo bạc gian khó đoạt mưu quân (thơ của Bửu-Văn Phan Kế-Bính).

        D. Da cóc mà bọc trứng gà,/ Bổ ra thơm-phức cả nhà muốn ăn. Dậy! Dậy! Dậy! / Bên án một tiếng gà vừa gáy (thơ của cụ Phan Bội-Châu).

        Đ. Đánh con ngựa gỗ chạy xung quanh nhà,/ Những loài gà vịt lánh xa,/ Kẻo mà chẹt cẳng kẻo mà rụng lông. Đã báo rạng-đông, gà sáng gáy (thơ Đường Bá-Hồ). Đàn bà năm bảy đàn bà,/ Chồng dặn mua gà, đi mua quốc con. Đầu gà má lợn. Đẻ như gà. Đỏ như mào gà.

           E. Ếch tháng ba, gà tháng tám. / Em về thưa mẹ cùng cha, / Bắt lợn đi cưới bắt gà đi cheo (cheo nghĩa là lễ nộp tiền cho làng về việc cưới xin).

           G. Gà ăn hơn công ăn. Gà chê thóc chẳng bới,/ người mới chê tiền. Gà cỏ quay mỏ về rừng. Gà con đuổi bắt điều-hâu,/ Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ-nông (bồ-nông: loại chim mình lớn mỏ dài, dưới cổ có bìu để đựng món ăn). Gà con ta để ta nuôi, / Đến mai ta gả con chó cụt đuôi cho mày. Gà cùng chuồng đá lẫn nhau. Gà cựa dài thì thịt rắn, / Gà cựa ngắn thì thịt mềm. Gà đẻ, gà lại cục-tác. Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua, / Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy. Gà gáy canh một hỏa-tai, canh hai đạo-tặc. Gà ghét nhau tiếng gáy. Gà khôn gà chẳng đá lang, / Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi. Gà mái gáy gở (dở, xấu). Gà mọc lông măng. Gà nào hay bằng gà Cao-Lãnh, / Gái nào bảnh bằng gái Nha-Mân. Gà người gáy, gà ta sáng. Gà nhà lại bới bếp nhà. Gà què ăn quẩn cối xay. Gà què bị chó đuổi. Gà Tò, lợn Tó, vó Vạn Đồn. Gà trống (sống) còn giò. Gà trống nuôi con. Gà tức nhau tiếng gáy. Gà về bới nát cỏ sân, / Mèo buồn lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài. Gái một con, gà non một lứa. Giả ơn cái cối cái chày, / Nửa đêm gà gáy có mày có tao. Giả ơn cái cọc bờ ao, / Nửa đêm gà gáy có tao có mày.

      Giặc sợ, giặc chạy về nhà, / Trở ra gọi mẹ mổ gà khao quân. Giết lợn đồ xôi, lại giết gà / Cỗ bàn xong cả từ hôm qua (thơ Nguyễn Bính). (ghi-chú: đồ xôi nghĩa là chưng, hấp, hay nấu xôi).

      Gió đưa cành trúc la-đà,/ Tiếng chuông Thiên-Mụ canh gà Thọ-Xương. Giun dế ăn gà,/ Cá rô cưỡi ngựa. Gươm gẫy gà xác.

           H. Hễ bảo quét sân, đánh chết ba gà, / Bảo đi quét nhà đánh chết ba chó. Hoài thóc ta cho gà người bới.

           K. Kể gà, kể dê, kể ngỗng. Kể lể con cà con kê (gà). Khách đến nhà, chẳng gà thì gỏi. Khôn-ngoan đá-đáp người ngoài, / Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.      

Không tre mà có măng mọc, / Không trâu cày mà có tiếng hò-reo. / Không chó có tiếng cắn theo, / Không gà có tiếng ra chiều gọi con (Đây là câu đố trong tục-ngữ phong-giao có nghĩa là cái áo). 

      Không như mọi Tết, người mua quà, / Chỉ mua pháo nổ với tranh gà (thơ Nguyễn Bính).

            L. Lao-xao gà gáy rạng ngày, / Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Lóng canh gà vừa mới gáy tan, / Chủ đã gọi thằng chăn vội-vã ( 2 câu trong bài thơ Trâu Kể Công-Trạng Mình trong tác-phẩm Lục-Súc Tranh Công).  Lờ-ngờ như gà mang hòm. 

            M. Mã-đề dương-cước anh hùng tận, / Thân-Dậu liên-lai kiến thái-bình. Máu gà thì tẩm xương gà, / Máu gà đem tẩm xương ta sao đành! Măng non nấu với gà đồng, / Chơi nhau một trận xem chồng về ai. Mặt tái như gà bị cắt tiết. Mâm xôi nuốt trẻ lên mười, / Con gà, be (chai) rượu nuốt người lao-đao. Mẹ gà con vịt.  Mẹ gà con vịt chắt-chiu, / Mấy đời Cộng-Sản có yêu dân hiền, / Yêu chăng là nó yêu tiền,/ Đô-la gõ tới cửa quyền mở ra. Mẹ gà con vịt chít-chiu, / Mấy đời dì ghẻ thương yêu con chồng. Mẹ gà đi chợ, / Con ở lại nhà,/ Vịt lén tới nhà,/ Cắp gà con chạy,/ Gà về thấy vậy,/ Đuổi vịt khắp nơi,/ Mổ đánh tơi-bời,/ Vịt nhoi xuống nước. Mình rằng: Mình muốn lấy ta,/ Ta đi xuống chợ mua gà xem chân.

      Mịt-mù dặm cát đồi cây,/ Tiếng gà điếm nguyệt dấu giầy cầu sương (câu thơ số 2029 và 2030 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)

      Mong chồng, chồng chẳng xuống cho, / Đến cơn chồng xuống, gà o o gáy dồn,/ Cha mẹ con gà kia sao mày gáy dồn, / Mày làm cho ta mất vía kinh-hồn về nỗi chồng con.

      Mỗi lần nắng mới hắt bên sông, / Nghe tiếng gà trưa gáy não-nùng, / Lòng gởi(gửi) buồn theo thời dĩ-vãng, / Chập-chờn sống lại những ngày xuân (thơ Lưu Trọng-Lư).

      Một thương tóc bỏ đua gà, / Hai thương ăn nói mặn-mà có duyên. Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa. Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thời mưa. Muối kia đổ ruột con gà, Mẹ mình không xót bằng ta xót mình. Mười ba trăng lặn gà kêu,/ Mười bốn trăng lặn, gà đều gáy tan. Mướp non nấu với gà đồng.

            N. Năm Ất-Dậu (1945) tháng ba, con nhớ mãi, / Giống Lạc-Hồng cực trải lắm đau-thương! / Những thây ma thất-thểu đầy đường, / Rồi ngã gục không đứng lên vì đói! / Đói tự Bắc-Giang đói về Hà-Nội, / Đói ở Thái-Bình đói tới Gia-Lâm (Thơ của Bàng Bá Lân).

      Nếm muỗng đường om, mùi thơm vị ngọt, / Qua thương-nhớ bậu (vợ) thức trót canh gà. Ngàn đông khói lẫn lạc-hà, / Giọt mưa cổ-thụ tiếng gà cô-thôn (2 câu thơ trong bài Thuyền Ngược Dòng Sông Lam của Nguyễn Huy-Hổ). Ngẩn-ngơ như chú bán gà, / Tiền rưỡi chẳng bán, bán ba mươi đồng. Ngây-ngô như gà cồ, lờ-đờ như đom-đóm đực. Ngủ-gà ngủ-gật.

      Những là đo-đắn ngược xuôi, / Tiếng gà nghe đã gáy sôi mé tường (câu thơ số 865 và 866 trong Truyên Kiều của Nguyễn Du)

      Nhà bay chết lợn, toi gà, / Năm ba ông cống đến nhà ngày mưa. (ghi-chú: ông cống có nghĩa là người đỗ thi-hương hay cử-nhân).  Nhác trông lên, trăng đã xế-tà, / Đêm hôm khuya-khoắt con gà đã gáy sang canh. Nhất phao-câu, nhì đầu cánh. Nổi da gà. Nuôi gà phải chọn giống gà, / Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau, / Nhất to là giống gà nâu, / Lông to thịt béo về sau đẻ nhiều, / Gà nâu chân thấp mình to,/ Đẻ nhiều trứng lớn con vừa khéo nuôi. Nửa đêm gà gáy o o, / Tao ngủ không được, tao bò tao chơi. Nửa đêm gà gáy o o, / Của dì dì giữ, ai bò mặc ai.

            O. Ông nói gà, bà nói vịt.

            P. Phượng-hoàng đậu chốn cheo-leo,/ Sa-cơ thất-thế phải theo đàn gà.

            Q. Quả thị trả bà, / Con gà trả ông, / Con công phần tôi. Quạ thấy gà thì đớp.

            R. Ráng mỡ gà thì gió, / Ráng mỡ chó thì mưa, / Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống (ghi-chú: ráng nghĩa là đám mây phản-chiếu bóng mặt trời về tảng-sáng hay xế-chiều),/ Cỏ gà màu trắng, điềm nắng đã hết, / Mùa hè đang nắng, có gà trắng thì mưa. Rễ cây trắng, cỏ gà trắng: trời sắp mưa. Rung-răng rung-rẻ,/ Dắt trẻ đi chơi,/ Đến cửa nhà trời,/ Lạy cậu lạy mợ,/ Cho cháu về quê,/ Cho dê đi học,/ Cho cóc ở nhà,/ Cho gà bới bếp.

            T. Ta về ta rủ bạn ta, / Nuôi lợn nuôi gà cày-cấy ta ăn. Thả đỉa ba-ba,/ Làm ngỗng làm gà,/ Làm voi làm gấu,/ Làm anh cá sấu,/ Làm chị ễnh-ương. Thứ nhứt Thế-Đức gan gà,/ Thứ hai Lưu-Bội, thứ ba Mạnh-Thần. Tí hầu mày liệng cho tròn, / Đến mai ta gả gà con cho mày. Tiếc con gà quạ tha. Tiền trao ra, gà bắt lấy.

      Tiếng gà nghe vọng đêm thâu, / Giật mình ngỡ tiếng còi tầu năm xưa (thơ Nguyễn Bính).

      Tiếng gà văng-vẳng gáy trên hom, / Oán-hận trông ra khắp một chòm (2 câu thơ đầu trong bài Tự-Tình của Hồ Xuân Hương).

      Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ, / Tôi hoảng-hồn lên, giận sững-sờ (thơ Hàn Mặc Tử).

Tiếng gà xao-xác gáy mau, / Tiếng người đâu đã mé sau dậy-dàng (câu thơs số 1123 và 1124 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)

      Tóc em buông thả đuôi gà, / Miệng em ăn nói mặn-mà có duyên. Tội vịt chưa qua, tội gà đã đến. Tuổi Dậu con gà vàng lông,/ Có mỏ có mồng, sáng gáy o o! Trả ơn cái cối cái chày, / Nửa đêm gà gáy có mày có tao. Trai thấy gái lạ như quạ thấy gà con. Trời làm một trận phong ba, / Chồng tôi như đứa bán gà chợ phiên.

            V. Vào vườn xem vượn hái hoa, / Xem voi đi guốc, xem gà nhuộm răng. Vắng chủ nhà, gà bới bếp. Vắng chúa nhà, gà mọc đuôi tôm. Vật ngon đâu đến thứ ba, / Những trâu hạ địa cùng gà chết-toi. Vịt già, gà to. Vịt răn, gà cúp chớ nuôi.

      Vừa bằng con gà trống đỏ, thò-lõ trên cây (Đây là câu đố trong tục-ngữ phong-giao có nghĩa là bắp chuối).

      Vừa bằng quả cà, trong da ngoài nạc (Đây là câu đố trong tục-ngữ phong-giao có nghĩa là cái mề gà).  

         X. Xám gan gà. Xỉa cá mè,/ Đè cá chép,/ Chân nào đẹp,/ Đi rao men,/ Chân nào đen,/ Ở nhà làm gà làm chó. Xoắn ruột gà.  Xui trẻ ăn cứt gà.

KHẢI CHÍNH PHẠM KIM THƯ

website counter