Chú tên Chân Hạnh.
Thày đặt cho chú cái tên ấy v́ chú ưa chơi, ưa
ăn và ưa ngủ lắm. Nên cần phải học
hạnh ăn, hạnh chơi, hạnh ngủ. Tôi thường
gọi chú là "Sứ giả Như Lai". V́ trông chú
rất đáng yêu, khuôn mặt trắng hồng, bầu
bĩnh với đôi môi đỏ như son. Đôi mắt
trong sáng toả ra một sự ngây thơ của một
tâm hồn chưa biết ǵ về đau khổ. Nếu
chú không mặc bộ quần áo vạt mẻ của chùa
với cái đầu cạo nhẵn thín, th́ chú chỉ là
một đứa trẻ 9,10 tuổi, chẳng có ǵ
đặc biệt. Nhưng, dưới y áo của nhà chùa
và cái đầu trọc, trông mặt chú sáng như trăng
rằm. Mọi động tác thi vi chú làm, từ dáng
ngồi tụng kinh, niệm Phật, tới việc
lễ lạy và lối nói chuyện trẻ thơ, trong sáng
v.v.. Ở chú, toát ra một nét hồn nhiên lạ kỳ. V́
sự hồn nhiên ấy, nên mọi người trong chùa -
từ thày trụ tŕ xuống đến bà văi - ai ai cũng
thương chú. Nghe đâu chú cũng có nhiều cơ duyên
với Phật, nên một lần lên chùa, chú chẳng
chịu về nữa. Dỗ dành thế nào chú cũng không
nghe. Cuối cùng cha mẹ đành để chú ở
lại, hy vọng chú chơi trên chùa vài ngày chán rồi
lại đ̣i về.
Tưởng chơi
mà hoá thiệt. Chú ở trên chùa đă sáu tháng rồi mà
vẫn chưa chán. Chẳng biết trên đó có tṛ chơi
nào cám dỗ chú lâu thế mà lần nào lên lễ Phật,
tôi cũng đều gặp một khuôn mặt hớn
hở của chú. Một lần tôi hỏi chú:
- Chú ở đây
chơi có vui không ?
Chú trả lời tôi
bằng một giọng rất "người - lớn -
trẻ - con":
- Vui chứ ... Thày cho
tui đủ mọi việc để làm. Nhưng
chẳng ở không mà chơi đâu ...
- Vậy chú làm
những việc ǵ mà có vẻ quan trọng thế?
- Ồ... Tui phải
học nhiều lắm. Thày kêu tui học cho giỏi nơi
trường đời, và cho thông ở trường
đạo. Nên sáng sớm thức dậy lễ Phật
xong là phải tới trường đời. Trưa
về ngủ một chút - Chú càm ràm - Nhưng nói thiệt
nghen. Tui không có ưa ngủ buổi trưa, nó phiền
lắm! Mỗi lần nằm xuống chỉ có lim dim con
mắt thôi hà. Nằm chừng một giờ, sau đó
thức dậy học tiếp...
- Học ǵ?
- Phải làm bài
tập ở trường đó mà.... Sau đó c̣n phải
học... Phật!!
- Học Phật?
- Phải ... Học
niệm Phật đó mà...
Tôi thả một câu
thăm ḍ:
- À, niệm Phật
th́ dễ ̣m. Ai niệm chẳng được. Cần ǵ
phải học hả chú?
Chú trợn mắt
căi:
- Chị đừng
tưởng niệm Phật dễ nghe. Khó lắm đó!!
Ăn, uống, đi đứng cũng c̣n phải
học, huống hồ chi niệm Phật!! Ḿnh niệm đâu
có phải nhắm mắt cà rù, cà ŕ rồi kêu là niệm
Phật đâu...
- Thế thày dạy
chú niệm Phật ra sao ?
Chú làm ra vẻ
rất quan trọng:
- Khi niệm Phật
phải nghĩ tới Phật mà không được
nghĩ ǵ khác...
Tôi biểu
đồng t́nh:
- Ừa .... Khó
thiệt! Mỗi lần tôi niệm Phật, miệng
niệm ́ xèo mà óc th́ cứ hay nghĩ lung tung... (Đổi
giọng) C̣n chú. Mỗi lần chú niệm Phật th́ chú
nghĩ ǵ thế ?
- Tôi nghĩ
đủ thứ.. Có khi đói, tôi nghĩ tới cái ăn.
Khi buồn ngủ, tôi vừa niệm vừa ngủ
gục, nhưng nhiều khi không buồn ngủ, không
đói th́ tôi nghĩ tới cái chơi ...
- Chú nghĩ cái
chơi ra sao ?
- Tui thích chơi
mấy đồ điện tử. Nên ba má tui đem
tới nhiều lắm. Nhưng tui không có chơi
được nhiều ...
- Sao vậy ?
- V́ có ở không
đâu mà chơi ... Nội cái vụ niệm Phật
cũng đủ hết ngày rồi.(Chú nói thêm) Buổi
tối c̣n phải tụng thêm thời kinh tối
trước khi đi ngủ nữa ...
- Chà .... Chú bận quá
héng...!
Đang nói chuyện
th́ nghe có tiếng thỉnh chuông trên chánh điện. Chú Chân
Hạnh vừa ù chạy vừa nói:
- Chết tui rồi.
Tới giờ tụng kinh. Tui đi nghen.
Một lần khác
đến thăm. Tôi lại gặp chú đang quét lá sân
chùa. Nh́n thoáng, sân chùa khá sạch, chỉ có vài chiếc lá
vương văi trong sân. Nhưng chú ra cái dáng hăng hái
lắm. Người chỉ có một khúc, mà cầm cây
chổi cao hơn đầu. Muốn quét cho sạch, chú
phải cầm gần cuối cán. Cây chổi nằm ngang
phè. Chú loay hoay quét quét một cách rất chăm chú. Tôi
chạy tới đỡ cây chổi:
- Nè...., Chú để
tôi giúp chú một tay nghen.
Chú vẫn nắm
chặt lấy cán chổi:
- Được
mà.... Để tui... Chị không biết quét đâu!
- Ủa... Quét sân mà
c̣n phải học hả chú?
- Phải đó. Thày
mới dạy tui sáng mơi nè....
- Thày dạy sao ?
- Thày nói nhiều
lắm, tui hông có nhớ hết... Chỉ biết là thày kêu
khi quét sân th́ phải nghĩ là quét hết mấy cái ác
nghiệp của ḿnh đó...
- Á... Chú cũng có ác
nghiệp ha ??
- Tui đâu có
biết!. Nhưng thày dạy sao, tui nghe vậy.
- Vậy là chú đang
quét ác nghiệp của chú đó ha ??
- Phải...
Tôi chỉ một
chiếc lá đang chạy lăng quăng theo gió:
- Coi ḱa ... "Ác
nghiệp" của chú sao cứ chạy tới, chạy
lui, không để chú quét ḱa...
Chú hăng hái:
- Chị dang ra
chỗ khác cho tui quét nó coi..... Mấy cái ác nghiệp này khó
quét lắm nghe, v́ cứ hễ tui đưa cái chổi
tới là nó bay lăng xăng ra chỗ khác hà... Thiệt là
bực ḿnh hết sức .....!!
Vừa nói, chú vừa
đập cây chổi lên cái lá, kéo lê về cuối sân.
Sốt ruột. Chú dở cây chổi lên nhặt lấy
chiếc lá lon ton bỏ thẳng thùng rác...
Tôi lại chỉ
một chiếc lá khác đang rơi:
- Ḱa chú...., Lại có
một cái ác nghiệp khác đang rơi...
Chú chạy tới.
Nhưng cây chổi vướng quá, chú quăng luôn qua bên,
chạy theo cánh lá đang chao đảo trên không. Trong
bầu trời ngập nắng của sân chùa, h́nh ảnh
một chú bé với chiếc đầu trọc, mặc
bộ quần áo vạt mẻ nâu ṣng, lăng quăng
chạy theo cánh lá, vươn đôi tay như đang
nắm bắt những hoa đốm trong hư không. Trông
chú sáng ngời dưới nắng. Độ một lúc th́
chiếc lá nhẹ nhàng đậu gần chân chú. Chú
nhặt lên, nhưng ngẫm nghĩ sao lại bỏ
xuống. (Chắc v́ nhớ lời thày dạy là phải
"quét" lá). Chú chạy lon ton đi lượm cây
chổi rồi làm giống nhưtrước, ịn cây chổi trên chiếc lá kéo lê
về cuối sân, nhặt bỏ thùng rác...
Tôi đứng ngoài
vỗ tay tán thưởng:
- Hoan hô...!! Chú
giỏi quá.... Ác nghiệp của chú chui vào thùng rác hết
trơn rồi!!!
Trên trán lấm
tấm vài giọt mồ hôi, nhưng khuôn mặt chú
rạng rỡ mỉm cười, khoe khoang:
- Thiệt hả ?
(Tôi nh́n quanh sân, chẳng c̣n một chiếc lá nào cho chú quét.
Trầm trồ tán thưởng). Chà.... Chú giỏi
thiệt. Ác nghiệp của chú sạch trơn
rồi....!!! Bây giờ chú thấy trong người sạch
chưa ?
Ngây thơ, chú hỏi
lại:
- Sạch ǵ?
- Th́ sạch ác
nghiệp đó...
Chú căi:
- Trong người tui
đâu có lá mà sạch. Sân sạch thôi!
- À ....à ..... "Ác
nghiệp" chỉ có trong sân chứ không ở trong
người hả chú?
- Chị lên chùa có
chuyện chi hông? Sao chưa vô chùa lễ Phật.
Đứng xớ rớ ở đây làm chi ?
Tôi suưt ph́ cười
với cái lối nói chuyện ra dáng người lớn
đó của chú. Nhưng thấy chú rất nghiêm trang, nên
ráng nén cái cười xuống bụng và cũng nghiêm chỉnh
trả lời:
- Tôi cũng tính vô
lễ Phật rồi đó chứ. Nhưng (ra vẻ bí
mật), chưa vô trỏng được v́ tôi đang
gặp một vị "Sứ giả Như - Lai"...
Thấy chú ngơ ngác
chẳng hiểu tôi nói ǵ. Tôi bèn nắm tay chú, ngồi
xuống băng ghế đá ngoài sân chùa. Dưới
gốc cây ổi với tàn lá xum xuê và giải thích cho chú
nghe ư nghĩa của chữ "Sứ giả Như
Lai" bằng sự hiểu biết về Phật giáo
rất nông cạn của ḿnh:
- Chú biết không,
"Sứ giả Như Lai" là hoá thân của chư
Phật và chư Bồ Tát thị hiện vào trong các cơi
để độ sanh (thấp giọng). Có một điều
tôi muốn th́ thầm cho chú biết, bí mật lắm
ngheng, chú phải hứa là không được nói với ai
nghe ...
- Được. Tui
hứa, không nói ai ....
- Tôi nghĩ chú
cũng là một "Sứ giả Như Lai" đó....
Khuôn mặt chú tỏ
vẻ rất ngạc nhiên, nhưng không kém phần sung
sướng:
- Thiệt hả
chị?
- Thiệt mà ...
Bởi v́ tôi thấy chú giống lắm. Nhưng đây là
điều bí mật, chú phải giữ kín.
- Tại sao vậy ?
Tôi cũng không
hiểu tại sao, nên không có câu trả lời cho chú
một cách rơ ràng. Ngẫm nghĩ một lúc, tôi bảo:
- V́ nếu không giữ
kín th́ nó... không c̣n là bí mật nữa, lúc đó ḿnh sẽ...
trở lại người b́nh thường. Mà chỉ có
Sứ Giả Như Lai mới được ở chùa
thôi. C̣n người thường th́ phải về nhà
sống với cha mẹ. Chú muốn làm người b́nh
thường không?
Chú trả lời
không do dự:
- Không. Tôi muốn
ở chùa. Muốn làm Sứ giả Như Lai...
- Nhưng chú nhắm
có giữ được nổi cái bí mật này không?
Chú hăng hái:
- Được
chớ !
Tôi nói tiếp:
- Để tôi kể
cho chú nghe về đức Phật. Trong nhiều kiếp
Ngài đă từng là những Sứ giả Như Lai ...
SỨ GIẢ NHƯ LAI
Một trẻ,
một nhí th́ thào nói chuyện có vẻ rất tương
đắc. Chú rất thông minh. Nói tới đâu, hiểu
tới đó. Tôi kể cho chú nghe những câu chuyện tiền
thân của đức Phật. Chú nghe một cách say sưa
...
Sau lần nói
chuyện đó. Chúng tôi trở thành bạn thiết. Hỏi
ra, mới biết chú là con một trong một gia đ́nh
giầu có. Cha mẹ chú đều là thương gia, có
những cơ sở làm ăn buôn bán lớn lắm. Ban
đầu chú muốn ở chùa chỉ v́ mục đích duy
nhất là chú thích ăn chay, mà ở nhà th́ bà mẹ cứ
ép chú ăn thịt, bà nghĩ rằng, c̣n nhỏ dại,
không ăn thịt th́ không đủ chất dinh
dưỡng nuôi chú lớn. Một lần tới chùa,
ăn cơm chay ngon quá, chú không chịu về nữa. Ban
đầu bà mẹ c̣n làm dữ, nhưng thấy thằng
con cưng ḿnh khóc quá, cứ ôm cứng lấy chân thày mà
không chịu về. Chẳng đặng đừng, bà bèn
gửi con cho chùa vài ngày, thỉnh thoảng lên thăm. Ai dè,
nó đ̣i cạo trọc đầu "cho giống
thày" và tu luôn. Một vài lần lên chùa tôi có gặp
mẹ chú. Lần nào cũng thấy bà ngồi nh́n con mà khóc
thút thít... Chú càng thông minh, càng dễ thương th́ bà
lại càng tiếc nuối ... Bà có một lối suy
nghĩ rất kỳ cục là bà gần như đă
mất hẳn đứa con yêu.
Chú học rất
giỏi, tinh tấn. Thày dạy sao, chú làm y chang vậy.
Đôi khi, ở đầu óc non nớt tuổi thơ, chú
cũng có những suy nghĩ thật tức cười nhưng
cũng đầy sáng tạo bằng sự tưởng
tượng rất phong phú của chú. Chẳng hạn,
một hôm vừa bước chân vào cổng chùa. Chú
chạy lon ton ra đón tôi. Dường như chú đă mong
ngóng tôi lâu lắm rồi, nên chỉ cần thấy
thấp thoáng bóng tôi ngoài cổng là chú chạy ra ngay.
Chẳng cần chào hỏi chi. Chú nắm tay tôi lôi đi
sềnh sệch:
- Chị ra đây, tui
chỉ cho chị coi cái này...
Tôi theo chú ra sân sau
chùa. Chú ngừng lại ở một cái giếng giả,
trên trồng đầy những loại hoa bốn mùa
nở rực rỡ. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Chú đưa tôi ra
đây coi cái chi ?
Chú chỉ vào cái
giếng. Nh́n một cách lấm lét:
- Chị thấy hông?
- Thấy. Cái
giếng !?!?
Chú th́ thào, nói rất
khẽ như sợ có người nghe:
- Nhưng chị
biết trỏng có ǵ hông?
- Th́ hoa thôi chứ có
ǵ? Chú thấy có ǵ nói tôi nghe thử ?
Chú càng thấp
giọng th́ thào nói khẽ:
- Tui vừa biết
được đường xuống địa
ngục đó ...
- Hả ?
Chú kiên nhẫn
giải thích:
- Th́ chính là cái
giếng này nè. Nếu chị đào nắm đất trên
miệng giếng ra th́ cái miệng sẽ toang hoác. Đó là
con đường xuống địa ngục đó...
Tôi lại suưt ph́
cười với lối lư luận ngây thơ của chú.
Nhưng cũng thấp giọng - ra vẻ rất quan
trọng và bí mật - th́ thào trả lời:
- Thiệt không chú ?
Sao chú biết được hay quá vậy ?
- Tui mới ...
nghĩ ra sáng mơi đây thôi. Nhưng tui biết chắc
là đúng đó...
- Vậy mà tôi cứ
tưởng đường xuống địa ngục
ở đâu xa lắc. Ai dè nó gần xỉn, ngay tại
vườn sau chùa ...
Chú vội đưa
ngón tay chỏ chặn trên môi:
- Suỵttt!!! Chị
đừng nói lớn quá coi chừng có người nghe.
(Chú giải thích). Người ta biết được
họ sợ sẽ ... té giếng, không lên chùa lễ
Phật nữa...
Từ đó. Chúng tôi
có 2 điều bí mật cần bảo trọng. Một là
"Sứ giả Như Lai" của chú. Hai là cái
giếng. Những lúc lên chùa lễ Phật, thế nào tôi
cũng phải t́m chú, khi th́ tặng chú những cuốn
sách kể những chuyện về tiền thân đức Phật,
viết bằng những chữ to và đầy h́nh
ảnh, khi th́ cho chú cái nón len để chú đội trong
mùa đông, hoặc những thứ gia dụng hằng ngày.
Cái chú thích nhất là cho chú sách nói về đức
Phật, chú rất say mê đọc những câu chuyện
tiền thân của ngài. Có khi, chú kể lại cho tôi nghe
mẩu chuyện (mà chính tôi đă kể cho chú) về ḷng
từ bi của đức Phật, hy sinh mạng sống
ḿnh cho một con hổ đói mà mắt chú rưng rưng
...
*
Khoảng một
năm sau th́ tôi phải từ giă chú để dọn
về một nơi khá xa v́ công việc . Đời
sống vội vă, ḍng đời cứ tiếp tục xuôi
chảy, tôi không có nhiều cơ hội để trở
về ngôi chùa cũ thăm chú nữa....
Mười lăm
năm sau tôi trở lại ...Thấy thật bỡ
ngỡ . Ngôi chùa xưa hoàn toàn đổi mới,
vườn cây chung quanh chùa không c̣n nữa, thay vào đó là
một nền xi măng khô, nóng để làm chỗ
đậu xe . Chùa cũ bị đập sạch. Sân sau
chùa, "con đường xuống địa
ngục" cũng được san bằng, lấy
chỗ cho một ngôi chùa khác lớn hơn, đẹp
hơn, với ṿm mái cong cong. Vị sư trụ tŕ già
đi rất nhiều so với số tuổi của thày
(Có lẽ v́ nhiều chuyện phải lo toan).
Khác với năm
xưa, trong chùa nay có nhiều tín chúng ra vào tấp nập,
lúc nào cũng có những dịch vụ rộn ră, hối
hả... Duy có một điều thiếu vắng là tôi không
c̣n t́m thấy chú Chân Hạnh đâu nữa . Hỏi ra,
mới biết khoảng ba năm trước, chùa có
mời một vị thiền sư rất nổi
tiếng tới thuyết pháp và ban cho những khóa tu
tập thiền định. Sau những ngày đó. Chú xin
phép thày cho chú đi theo vị thiền sư, quyết chí
dấn thân vào con đường thiền quán. Ngoài ra, nghe
đâu chú cũng c̣n tham gia trong chương tŕnh "Thanh
Niên phụng sự xă hội", làm những thiện
nguyện viên về những nơi hẻo lánh, để
giúp những người bệnh tật, nghèo khó. Hạnh
nguyện của chú đúng như một "Sứ
giả Như Lai" - những ǵ tôi đă giải thích
năm xưa cho chú nghe - bằng sự góp nhặt những
mẩu truyện tiền thân đức Phật theo trí
nhớ rất nông cạn của ḿnh. Rất tiếc, tôi
đă không được gặp chú lần cuối
trước khi chú đi. Giả dụ, nếu tôi có cơ
duyên gặp lại, chắc tôi cũng chẳng nhận ra
được chú, nghe bà văi nói chú dạo này lớn
bộn, chú đă thọ giới tỳ kheo, và người
ta thường gọi chú bằng Đại Đức .
Tôi xin trang nghiêm
đặt một đoá hồng trên những hạnh
nguyện của Đại Đức . Nguyện cho thày
được hoàn măn trên con đường tu tập,
đem lại lợi ích cho toàn thể chúng sanh
được an vui, hạnh phúc ...
CHIÊU HOÀNG
(/O-O/
sưu tầm)
HỌC IM LẶNG ------------lời b́nh của Tung
Sơn----------
Đệ tử phái Thiên
thai thường học thiền định. Khi phái này
chưa du nhập vào Nhật bản, có bốn người
đệ tử giao hẹn nhau không nói một lời nào
trong bảy ngày.
Ngày đầu bốn
người đều im lặng. Họ chú tâm thiền
định. Nhưng khi trời tối và những ngọn
đèn dầu mờ dần, một người đệ
tử không thể giữ im lặng được nữa,
bảo người giúp việc: "hăy sửa đèn
đuốc lại đi!"
Người đệ tử thứ nh́ ngạc nhiên khi nghe
người đệ tử thứ nhất nói, anh ta bèn
nhắc bạn: "Chúng ta đă giao hẹn nhau không nói câu
nào kia mà".
Người đệ tử thứ ba nói: "Cả hai
anh đều ngu xuẩn. Tại sao các anh lại nói
chuyện?"
Người đệ tử thứ tư kết luận:
"Tôi là người duy nhất không hề nói
chuyện".
Câu chuyện thiền trên đây khiến Tung Sơn nghĩ
đến nhà xí thư viện Sorbonne. Nguyên là trên
tường nhà xí thư viện này lúc nào cũng
đầy những câu văn, những h́nh ảnh tŕnh bày
những suy tư, những cảm tưởng thuộc
t́nh tự, chính trị, triết học ... và t́nh dục
dĩ nhiên! Có lẽ v́ nhà xí là một khung cảnh thích
hợp cho sự suy tư chăng? Rất có thể v́
ở đó người ta được dịp cô
đơn để gặp gỡ chính ḿnh, đối
thoại với chính ḿnh một cách rất ư là thành
thực mà không sợ cái nh́n soi mói của người khác.
Những tư tưởng nhà xí cao siêu đó, dĩ nhiên,
như tất cả mọi tư tưởng cao siêu khác,
không làm vừa ḷng tất cả mọi người,
nhất là đối với những người cho
rằng tư tưởng là cái chi thanh cao vượt
khỏi không gian và thời gian, nhất là khi đó lại
là không gian và thời gian nhà xí, vốn chật chội,
hẹp ḥi và có hương "nồng" và không "thanh
thanh" như một nhà thơ đă tả. Sự
phẫn nộ rất chân chính nói trên được phát
biểu bằng nhiều cách khác nhau. Khi th́ đứng
đắn, nghiêm trang: "N'écrivez pas sur les murs"(1)
(dĩ nhiên chính câu này được viết trên
tường). Khi th́ bao hàm một phán đoán đạo
đức, khá tục tằn: "C'est con d'écrire de telles
conneries sur les murs" (2) (dĩ nhiên câu này cũng
được viết trên tường)... Nếu
đọc qua những tư tưởng viết trên
tường, người ta phải công nhận rằng
những nhận định trên đây là đúng. Nhưng
chúng bao hàm một mâu thuẫn lô gích trầm trọng:
viết trên tường để phản đối
sự kiện viết trên tường có nghĩa là tự
ḿnh phản đối ḿnh, cũng mâu thuẫn như
người dân đảo Crète khi anh ta tuyên bố rằng
mọi người dân đảo Crète đều nói láo!
Câu chuyện thiền trên đây cũng có một giá trị
tương tự câu chuyện nhà xí mà Tung Sơn vừa
kể. Thật vậy, các người đệ tử
thứ hai, thứ ba, thứ tư, bằng những
lời phản đối khác nhau, đều làm một
việc in hệt như người đệ tử
thứ nhất: phá vỡ sự im lặng mà đáng ra, theo
lời giao hẹn, họ phải giữ.
Câu chuyện này, về một phương diện khác,
đă diễn tả khá rơ lư thuyết nhân duyên sinh của
nhà Phật: câu nói của người thứ nhất đă
gây ra những phản ứng của ba người
bạn. Và trùng trùng duyên khởi! Ba người bạn khi
phản ứng tưởng là ḿnh đă làm một
chuyện tốt ngờ đâu cũng chỉ gây thêm ồn
ào, và không đủ khả năng thiết lập lại
sự im lặng muốn có. Câu mắng của người
đệ tử thứ ba, sự tự hào ngu xuẩn
của người đệ tử thứ tư không
khỏi làm người thức giả bật cười.
Câu chuyện c̣n đặt ra một vấn đề khó
giải quyết: trước câu nói của người
đệ tử thứ nhất, ba người đệ
tử kia phải làm ǵ để phản đối
hoặc để làm cho người này thấy
được giá trị của họ (đă im lặng)? Họ
có thể hành động nhiều cách khác nhau ngoài lời
nói. Hoặc trang nhă: bấm lưng người bạn làm
dấu nhắc anh ta phải im lặng. Hoặc bạo
động hơn: đá đít cảnh cáo anh ta đă phá
vỡ im lặng (nhưng dĩ nhiên đừng hét!) ...
Hoặc ... hoặc ...
Nhưng thật ra mọi biện pháp nói trên đều vô
ích khi người ta đặt câu hỏi: im lặng
để làm ǵ? Câu trả lời đă rành rành: im lặng để tĩnh tâm thiền
định. Ôi, tâm đă không tĩnh, đă c̣n bị
ngoại vật chi phối, đă c̣n muốn mắng
nhiếc người khác, đă c̣n muốn khoe khoang th́ im
lặng để làm ǵ?
Ôi! Nếu cái áo không làm nổi thầy tu, th́ sự im
lặng cũng không làm nổi một vị thiền
sư. Và dĩ nhiên lời nói ... !
TUNGSƠN (XO sưu tầm)
(1) đừng viết lên
tường
(2) Viết những diều ngu xuẩn như vậy lên
tường th́ thật là ngu
CHUYỆN NGƯỜI VĂN SĨ
CHUYỆN
NGƯỜI VĂN SĨ
------(Nguyễn
Tường Bách)------
Vùng nọ, có một người lữ hành
cô đơn không ai bầu bạn. Suốt mấy
mươi năm y rong ruổi từ vùng này qua vùng khác,
không chủ ư, định hướng ǵ rơ rệt.
Đời sống và hoàn cảnh đổi thay như ḍng
nước chảy mau, tâm tư y cũng thăng trầm
nhiều nỗi, nhưng dần dần đọng lại
một điều ǵ khó tả.
Một buổi sáng
nọ, trên một hoang đảo đầy nắng, trong
cơn mơ tỉnh, dường như có ai kể cho y
nghe một câu chuyện ngắn. Tỉnh dậy, y ghi lại
câu chuyện khó hiểu ấy trên giấy.Như mạch nước
được khơi, kể từ đó y bắt
đầu viết văn, tự cho ḿnh đă trở thành
văn sĩ. Như những lần rong ruổi
đường dài, y miên man trong thế giới tư
tưởng nhiều màu sắc, đầy tự do phóng
khoáng.
Truyện của y
viết ra như nỗi niềm ào ạt tự ư tuôn trào,
không trau chuốt, không giải thích. Bởi vậy không
mấy ai hiểu và yêu truyện của y. Y thầm
nghĩ: "Ư tứ của ta đối với
người hiểu rồi th́ hóa ra dư thừa, c̣n
đối với người chưa hiểu lại là
tối tăm, hoang đường giả tạo; Mi
viết ra làm chi!" Nhưng rồi, y lại tự
nhủ: "Mọi sự trên đời, từ nhận
thức đến cảm giác, đối với
người đời cũng đều như thế,
hỡi tên văn sĩ quèn, mi đừng thắc
mắc".Yêu văn
chương của y nhất lại chính là y. Viết
được một vài câu chuyện, y đóng thành
một tập truyện. Rong ruổi trên đường,
lúc nào y cũng mang theo tập sách đó trong túi đeo vai.
Những lúc nghỉ ngơi, y lấy tập truyện
đọc say mê như đọc lần đầu.
*
Đến một
ngày, chàng văn sĩ thấy ḿnh không c̣n ư tứ viết
truyện ǵ nữa. Tâm tư và quán sát nằm lạc loài
từng mảnh không sao kết hợp được. Y giở
tập truyện cũ ra đọc lại, cố t́m
thử những bí quyết văn chương. Càng
đọc, y càng yêu văn ḿnh, càng mong viết
được những chuyện tương tự ..
Ngày qua ngày,
người văn sĩ càng già yếu. Y không viết
được câu chuyện nào nữa. Rong ruổi
đường dài, đă bắt đầu gối mỏi
chân ṃn, túi vải đeo vai ngày càng nặng. Tâm tư
chỉ c̣n văng vẳng những mẩu chuyện đă
viết, y buồn rầu tự nghĩ: "Văn
nghiệp của ta chỉ chừng đó thôi ư ?" Bây
giờ y không c̣n đọc tập truyện, v́ sau nhiều
năm y đă thuộc ḷng rồi.
Một ngày kia, trên
bước đường phiêu bạt, người
văn sĩ già đến bên bờ một con sông nhỏ.
Bên kia sông, cảnh vật xanh tươi, khác hẳn con
đường đất đỏ phía bên nàỵ
Người văn sĩ bây giờ đă già yếu cực
độ, y đă vứt bỏ mọi thứ trong túi
đeo vai cho bớt nặng, chỉ c̣n giữ lại
tập truyện. Y không c̣n sức bơi qua sông, chỉ
đi lần theo bờ. Bỗng thấy xa xa một
chiếc cầu, y mừng rỡ đi nhanh tới
đầu cầu. Vừa bước lên bực thềm,
chân y run rẩy ngă sóng soài. Túi vải đập lên ngực
như một cú đấm trời giáng.Người văn sĩ già
đau đớn muốn gục. Y bỗng nổi cơn
giận dữ nh́n túi vải chỉ c̣n duy nhất tập
truyện. "Ta đă cưu mang sinh thành ra mi, không lẽ
bây giờ ta chết v́ mi!" Y lẩy bẩy mở túi
vải, lôi tập truyện ra. Lạ thay, tập truyện
đă biến thành đá tảng tự bao giờ. Nh́n
kỹ, thấy nét chữ trên b́a c̣n sắc sảo, nhưng
giấy đă biến thành đá, cân nặng chắc
cũng cả trăm cân. Người văn sĩ trân
trối nh́n tập thạch thư, không hiểu mộng hay
thực. "Th́ ra ta đă mang ḥn đá tảng này hơn
mười mấy năm qua. Ta già yếu không phải v́
tuổi tác mà chính v́ sức nặng của mi". Y dùng
hết tàn lực đẩy tập thạch thư qua
một bên. Ḥn đá rơi xuống chân cầu kêu một
tiếng như tiếng kim loại chạm nhau. Vừa nghe
tiếng kêu, người văn sĩ bỗng nhiên thấy
ḿnh mạnh khỏe như hồi niên thiếu. Y nhẹ
nhàng bước qua cầu.
Vừa bước
qua cầu, cảnh vật hoàn toàn khác hẳn. Ở đây
như có tiếng nhạc từ trên cao vọng xuống,
đâu đây sự nức hương thơm. Khắp
nơi trái cây chín đầy, lấp lánh ngũ sắc.
Đi lần thêm một đoạn, bao nhiêu cung đài nguy nga
tráng lệ hiện ra, tầng tầng lớp lớp.
Người người ra vào mặt mày hoan hỉ, như
có thần thông, nói không nghe tiếng, đi không chạm
đất.
Bỗng có tiếng ai
đi tới. Người văn sĩ quay người
lại thấy một bà cụ, trên vai với đôi quang
gánh. Nh́n kỹ, cụ bà gánh hai đầu hai cái giỏ, bên
trong sóng sánh nước. Y kinh ngạc thấy nước
không chảy ra, c̣n cụ bà đi đứng nhẹ nhàng
như không. Biết gặp thần nhân, y vái lạy,
hỏi:
- Phải chăng
đây là nơi mà người ta gọi là Niết Bàn?
Cụ bà cười
khanh khách:
- Đây chỉ là
cảnh giới tam thập tam thiên, một cơi cao hơn cơi
loài người đôi chút.
- Phải chăng các
loài sống ở đây chính là chư Phật?
Cụ bà lắc
đầu:
- Các loài thọ sinh
ở đây phần lớn có hạnh nghiệp tốt
đẹp, đặc biệt các hạnh nghiệp
thuộc phạm vi ư thức. Các giống Thanh Văn, Duyên
Giác, các giới tu tiểu thừa hay thọ sinh ở
đây, trong cảnh giới sung măn như vầy. Các loài này
c̣n cách Phật hay Bồ Tát rất xa.
- Nhưng có lẽ các
vị này cũng đă đắc đạo ?
Cụ bà cười
lớn:
- Hạnh nghiệp ư
thức của chúng th́ tốt đẹp, nhưng có
phải v́ thế mà phá được chấp ngă, phá
được vô minh đâu. Ngươi không thấy các lâu
đài nguy nga tráng lệ kia sao, đó chính là nơi ẩn
náu kiên cố của ư thức của chúng, chúng bao giờ
dám chịu rời xa, và v́ vậy không c̣n tiến bộ ..
Người văn
sĩ ngập ngừng, cụ bà nói tiếp:
- Như có
người dùng thuyền qua sông, khi tới nơi, tiếc
con thuyền, không chịu rời bỏ ḍng sông, hoặc lên
bờ tiếp tục vác chiếc thuyền đi tiếp.
Nghe tới đây,
người văn sĩ rùng ḿnh, một cảm giác
lạnh toát ập đến.
- Cũng có
người, nương theo ngón tay thấy mặt
trăng, chấp rằng ngón tay là mặt trăng. Cũng
có kẻ, được thọ sinh ở đây, không c̣n
thấy khổ đau, cho rằng đây là Niết Bàn,
lại tiếp tục chịu cảnh sinh tử. Cũng
có loài, tu được chút thần thông, thoát
được vài trói buộc của thân, đă vội cho
rằng ḿnh đắc đạo. Ôi, chấp trước
của chúng sinh thật vô cùng vô tận...
Người văn sĩ cúi đầu
ngẫm nghĩ, cụ bà nói tiếp:
- Trong mọi thứ
chấp, th́ ngă chấp là vi tế nhất, nó đeo
đuổi người học đạo tới mức
cuối cùng. Nhớ rằng, "Ngă" không phải
chỉ là thân tâm ḿnh, mà là toàn bộ nghiệp lực,
kể cả đạo nghiệp. Ngă chấp và vô minh theo
nhau như h́nh với bóng, tràn đầy khắp nơi,
ngay cả trong cơi tam thập tam thiên nàỵ
Người văn
sĩ ngẩng đầu nói:
- Nhưng dù sao các loài
sống ở đây vẫn dể hiểu đạo
hơn loài người.
Cụ bà cả
cười:
- Không phải,
kiếp người nhiều khổ đau, nhưng
cũng v́ thế mới dễ hiểu đạo. Lúc
ngươi đang mê man vui thú đọc văn
chương của chính ḿnh và lúc tập thạch thư
đau khổ rơi xuống bờ sông, lúc nào ngươi
dễ hiểu đạo hơn? V́ không thoát nổi sự
ràng buộc của chính văn chương ngươi, nên
ngươi không c̣n sáng tạo được ǵ
nữa.
Người văn
sĩ nghe xong, định nói điều ǵ, bỗng có
tiếng chân người từ bờ sông lên. Nh́n kỹ th́
đó là một nhà sư, dáng đi mạnh bạo. Nhà
sư nh́n đôi quang gánh của bà lăo, cúi đầu vái chào,
hỏi:
- Chẳng hay
người có thấy hai vị đạo sĩ áo
trắng tới đây không?
Cụ bà đáp:
- Hai vị đó
đă học xong đạo tiên, và đă rời đây
để trở về chốn cũ.
Nhà sư bỗng
nổi giận đùng đùng:
- Chúng cũng là
kẻ tu hành sao có nhị tâm! Ta giao ước với chúng
cùng chung học đạo, thế mà chúng đang tâm lừa
dối, bắt ta đợi mấy ngày trên bến sông để
chúng học lấy một ḿnh.
- Từ Đạo
Hạnh, ngươi và chúng có duyên nghiệp sâu xa. Mọi
sự đều có nhân duyên.
Nói xong, cụ bà ghé
tai Từ Đạo Hạnh nói nhỏ điều ǵ,
rồi lẳng lặng gánh nước đi tiếp.
Từ Đạo Hạnh nghe xong quầy quả
bước đi, xem chừng ḷng c̣n giận dữ.
Người văn sĩ ngơ ngác một giây xong
bước theo nhà sư. Y thấy ḿnh đi như bay, phút
chốc đă về chốn xưa.
Tới một
bụi cây nọ, bỗng Từ Đạo Hạnh lẩn
vào gốc cây, xa xa vừa có bóng người đi tới.
Nh́n kỹ, đó là hai người đạo sĩ mặc
áo trắng. Đợi họ vừa tới gốc cây,
Từ Đạo Hạnh quát lên một tiếng rất
lớn, nghe như tiếng hổ gầm, nhảy xổ
ra:
- Minh Không, Giác
Hải, các ngươi là kẻ hai ḷng, nhưng đi
đâu cho thoát tay ta.
Hai người
đạo sĩ giật ḿnh rồi cười vang
dội, người tên Minh Không cất tiếng nói:
- Từ Đạo
Hạnh, ngươi được Phật bà truyền cho
phép thu ngắn đường đi. Tưởng ǵ khác
chư ngươi muốn làm hổ th́ ngươi sẽ
được làm hổ!
Người văn
sĩ giật ḿnh đánh thót, th́ ra cụ bà chính là
Đức Quán Thế Âm. Vừa nghe tiếng đấu
phép, y chán ngán quay người bước đi, phút
chốc đă đến cây cầu cũ. Nh́n xuống
bờ sông, thạch thư vẫn c̣n đó, rêu xanh đă bám
đầỵ Y nhón một bước, đă tới
nơi, vận lực nâng ḥn đá lên. Nào ngờ thạch
thư bây giờ nhẹ như bông. Y búng ngón tay, thạch
thư biến thành tơ vàng, bay đong đưa trong gió
..
*
Tương truyền
rằng, Từ Đạo Hạnh muốn báo thù cho cha là
Từ Vinh, đi học phép tiên, cùng với Giác Hải, Minh
Không. Sau khi bất ḥa trên đường học
đạo, ba người lại chung nhau tu tập, Từ
Đạo Hạnh được tôn làm sư huynh, Minh
Không vừa là sư đệ, vừa là đệ tử.
Báo thù cha xong, giết được Đại Điên,
Từ Đạo Hạnh đi tu.Huyền sử chép, Từ Đạo Hạnh chính là
tiền kiếp của vua Lư Thần Tông, nhà vua lên ngôi
năm 1128. Đến năm 1133 Lư Thần Tông bị
bệnh, lông tóc mọc dài, kêu réo như hổ gầm. Minh
Không đợi 20 năm mới trả được
ơn thày, nấu một nồi nước, thả vào
một cây đinh cho vua tắm, vua khỏi bệnh. Lư
Thần Tông mất năm 1137