VA(N 6

Home | CHUYÊ.N THIÊ`N | CHUYÊ.N THIÊ`N (tt) | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | Va(n 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | THO' | CHUYÊ.N LA. | TIÊ?U LUÂ.N | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | TA`I TU'? | VA(N TÊ'

dantranh_quynhhuong.jpg
Tranh QUY`NH HU'O'NG

NHẬT KƯ 1975

 

NHẬT KƯ 1975
(Trần Chi Liên)

 

Năm mới 2005 là năm thứ ba mươi kể từ ngày miền Nam sụp đổ. Đây cũng là thời điểm đánh dấu ba mươi năm người Việt vượt biển t́m tự do, từ đó khai sinh cộng đồng Việt hải ngoại. Biết bao nhiêu điều không thể nào quên... Xin mời bạn cùng viết, cùng đọc.

 

Sau đây là những trang Nhật Kư 1975 của tác giả Trần Chi Liên. Bà Liên hiện là một công chức tiểu bang, đă dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với bút hiệu Thiên Ân, truyện Nửa Ḍng Máu Việt đă được tặng giải thưởng đặc biệt.

 

- Ngày 21-4-1975

 

Cả tuần nay anh Văn chạy lên chạy xuống với khuôn mặt lo lắng và hôm nay nhờ ḿnh đi mua một lô gạo xấy, chẳng biết anh đang tính toán chuyện ǵ!!! Trước giờ ăn trưa, đang cùng bạn bè trong sở bàn thảo về t́nh h́nh đang sôi động trong nước rồi phân vân không biết cuộc chiến sẽ đi về đâu th́ nhận được điện thoại của Phương: "chị Linh, về nhà gấp!!!" Vừa thu xếp giấy tờ trên bàn, vừa lo lắng, chạy vội lên pḥng an ninh dùng điện thoại quân sự gọi cho Đăng báo: "Em không biết có chuyện ǵ mà Phương gọi bảo em phải về ngay. Anh thu xếp rồi về nhà một chút xem có chuyện ǵ không nghe!"

Về đến nhà, bố với khuôn mặt trầm tư ngồi trong pḥng khách. Tuy đă lớn tuổi nhưng bố lúc nào cũng vui vẻ, năng động, chưa bao giờ ḿnh thấy bố có vẻ mặt nặng nề đến như thế. Chạy vội lên lầu, mẹ và các em đang lăng xăng bỏ vội vài bộ quần áo vào tay nải. Mẹ bảo: "Con lo thu xếp vài thứ cần thiết cho con và cu Bi. Chị Anh cho biết ḿnh sẽ đi vào trưa nay." Ḿnh hoang mang, cho dù được chị Anh cho biết là trước sau ǵ miền Nam cũng mất, nhưng không thể ngờ lại đến nhanh đến thế. Chẳng phải là họ đă đi đêm với nhau là sẽ GIAO miền Nam vào giữa Tháng Năm sao? Mang cái ǵ đây? Mấy hộp sữa Guigoz cho thằng con, quần áo của anh chàng, áo len nữa, thế đấy cũng đă đầy cả một túi xách rồi. Đăng vừa về đến nơi, tuy không ai nói ǵ nhưng đă đoán được mọi chuyện, anh bỏ thêm quyển h́nh thời thơ ấu của ḿnh vào trong túi xách cười bảo: "Bỏ thêm bảo bối này của em vào. Công mẹ mang theo từ Bắc vào Nam." Trong lúc ḿnh quưnh quáng bao nhiêu th́ Đăng lại tỉnh như người Ăng Lê bấy nhiêu. Ḿnh hỏi: "Anh có đi luôn với gia đ́nh không?" Đăng cầm tay ḿnh nắn nhẹ: "Anh đi ngay bây giờ làm sao được! Anh đang c̣n công vụ trên ḿnh mà! Đi bây giờ là đào ngũ đấy em biết không? Mang con đi trước với chị Anh cho an toàn, anh nằm trong phi trường, muốn đi lúc nào mà chẳng được. C̣n anh Công nữa, chẳng lẽ anh Công không dành cho anh một chỗ trên máy bay của anh ấy sao? Yên tâm đi cưng!!!"

Mẹ vừa lo thu xếp quần áo cho các con vừa trông ngóng hai thằng con trai. Lương vùa chạy lên đơn vị từ sáng sớm, không làm sao liên lạc được. Lam chạy đi chơi với đến giờ này vẫn chưa về. Mẹ đi ra đi vào, trông đứng trông ngồi. Ḿnh không biết phải làm sao v́ chính bản thân cũng không biết ḿnh đang làm ǵ nữa. Đăng vẫn ở bên cạnh vỗ về, yên ủi.

Một giờ đồng hồ sau, xe của bạn chị Anh đến, chở cả gia đ́nh đi. Cuối cùng Lam về đúng vào lúc xe sắp sửa lăn bánh. Trước khi đi mẹ dặn Đăng liên lạc với Lương rồi hai anh em rủ nhau mà đi sau. Đăng hứa với mẹ sẽ làm theo ư mẹ. Ḿnh cảm thấy liều lĩnh thật. Chưa có được một sự chuẩn bị nào cả. Ḿnh đi theo mọi người như một bộ máy. Bao nhiêu lần quay lại nh́n Đăng, anh chỉ cười vẫy tay chào, nh́n theo không nói thêm một lời nào. Xe chạy rồi mà thần trí ḿnh vẫn c̣n hoang mang, tưởng chừng như trong một giấc mơ. Đến điểm hẹn, căn biệt thự lại cửa đóng then cài. Một người đàn ông nhỏ nhắn, dáo dác nh́n chạy vội ra nói: "Điểm hẹn lộ rồi, chịu khó chạy lên khu Bánh Bao Bà Cả Cần." Xe lại chạy. Đi kiểu ǵ mà lén lút như thế này? Có khác ǵ chạy trốn đâu? Hỏi chỉ để tự hỏi trong ḷng mà nào dám mở miệng thành lời. Mọi người đều im lặng. Nặng nề quá đi thôi. Đến điểm hẹn mới, chao ơi, toàn người là người. Ai cũng mang cả vali theo. Nh́n lại gia đ́nh ḿnh, mỗi người chỉ có một tay nải nhỏ, chứa vài bộ quần áo. Tiền mang theo, h́nh như chỉ có đúng một trăm đồng đô la xanh. Hôm nay là lễ Tổ Hùng Vương, ngân hàng đóng cửa, làm sao mà rút tiền ra. Bao nhiêu vàng dành dụm, mẹ vừa bán ra để xây nhà. Công sức bố cả hai mươi mốt năm ở miền Nam đă không c̣n ǵ cả, bảo sao bố không lặng lẽ.

Gia đ́nh chưa ai ăn trưa nhưng không ai thấy đói. Gần hai tiếng sau, chiếc xe bít bùng - loại xe chở đồ đông lạnh - chạy đến. Mọi người được chỉ thị "yên lặng lên xe vào phi trường". Đứng trên xe như đứng trong một ḷ sát sinh, ngạt thở đến chết người. Mẹ bế thằng con - im lặng. Ḿnh lo sợ hỏi: "Mẹ ơi, cu Bi c̣n thở không vậy?" Tội nghiệp thằng con vừa hơn năm tháng của ḿnh!!! Đến phi trường mọi người đều như vừa trong pḥng tắm hơi ra. Bố gần đứt hơi, nhỏ Vi xỉu, thằng con phờ phạc không khóc nổi. Lại thấy đầy người là người ngồi lê lết dưới đất trong pḥng. Khuôn mặt người nào cũng đầy nét ưu tư. Chị Anh cho biết cấp trên Việt-Mỹ đang thảo luận với nhau về số phận những người đă vào được trong phi trường. Bên Hoa Kỳ, họ định nghĩa gia đ́nh chỉ gồm vợ chồng con cái mới được cho đi, trong khi Việt Nam ḿnh định nghĩa gia đ́nh c̣n gồm cả ông bà cha mẹ anh chị em .. Cứ thế mà bàn căi. Đến tối mọi người mới thấy mệt và đói, cũng may ḿnh mang theo một ít gạo xấy mua ban sáng cho anh Văn, lấy ra để mọi người nhấm nháp cho đỡ đói, rồi tựa lên nhau nhắm mắt tịnh thần và .. chờ đợi. Ḿnh viết vài hàng gửi một anh lính Không Quân đem ra ngoài cho Đăng và biếu anh số tiền VNCH c̣n lại trong túi. Không biết anh có t́m được Đăng mà đưa không! Chưa ǵ mà đă nhớ nhau muốn chết rồi Đăng ơi!

 

-Ngày 22-5-1975

 

Thêm một ngày dài chờ đợi, cuối cùng v́ sự an toàn của những người đă bỏ hết mọi sự CHẠY TRỐN cộng sản trước ngày họ đến, Hoa Kỳ chấp nhận cho đi hết. Ḿnh không biết có bao nhiêu chiếc DC 10 bốc cả bao nhiêu người đang nằm trong phi trường. Chiếc máy bay chở gia đ́nh ḿnh măi đến 8g30 tối mới bốc khỏi mặt đất. Số người trên máy bay quá đông nên mọi người ngồi la liệt trên sàn. Thằng con vừa đói vừa khát nên khóc ngất. Tuy có sữa nhưng không có nước sôi để pha nên cu cậu không thèm ăn. Ḿnh không biết làm sao nên cũng ngồi khóc theo con. Thành phố Sài G̣n đang xa dần ở đàng sau. Bố ngồi suy tư. Từ đầu đến cuối bố không nói một lời nào. Mẹ ôm ḿnh và thằng con vào ḷng khóc sụt sùi. Thương cho bố mẹ hai lần bỏ quê hương, tuổi già đă đến mà vẫn chưa được yên thân, giờ lại phải lưu lạc xứ người. Đăng ơi, em thật sự xa anh rồi đó. Anh nói phải giữ lời: "anh nằm trong phi trường, đi lúc nào chả được". Anh mà không theo em, em sẽ giận anh chết được đó. Chúng ḿnh đang xa dần nhau như con chim sắt đang đưa em xa dần thành phố đầy kỷ niệm của em. Em ra đi không một lời giă từ cha mẹ và gia đ́nh chồng, họ hàng, bạn bè của em. Chúng nó sẽ giận em cho mà xem. Không biết đến bao giờ em mới gặp lại mọi người?

Đến 11g khuya mọi người đến căn cứ Clark ở Phi Luật Tân. Cả một đêm thức trắng cùng chị Anh đi làm thủ tục giấy tờ đến 6g sáng hôm sau mới xong

 

- Ngày 23-5-1975

 

Sau khi xong mọi thủ tục, xe bus chở mọi người đi ăn sáng rồi đưa về khu lều tạm trú. Tuy đói lả nhưng ḿnh nuốt không trôi v́ mệt. Hai ngày qua đă làm tiêu hao quá nhiều năng lượng nên ḿnh ngủ li b́. Trong giấc ngủ vẫn mơ thấy Đăng và Lương.

 

- Ngày 25-4-1975

 

Mỗi ngày qua đi là nỗi ân hận tăng thêm. Nếu ḿnh cứ xúi Đăng bỏ đơn vị đi đại với ḿnh th́ hai đứa đă chẳng phải xa nhau như thế này. Hai ngày qua, mỗi ngày ḿnh chạy lên văn pḥng hội Hồng Thập Tự mấy lần để nhờ họ ḍ danh sách người đi có tên hai anh em Đăng không? Họ thông báo đến 11g đêm nay sẽ rời căn cứ Clark để đến khu tạm trú khác. Lại xa anh thêm một khoảng đường dài nữa. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần thương ơi là thương thằng con bé bỏng chịu thêm nhiều gió sương. Đăng ơi! Em đang buồn quá chừng chừng, anh đang ở đâu vậy?

 

-Ngày 26-4-1975

 

Hơn 2g chiều máy bay thả đám người "tỵ nạn" đến khu lều vải ở Orote Point bên đảo Guam. H́nh như đây là một khu rừng vừa được khai phá cho người tỵ nạn tạm trú v́ máy cắt, máy cầy vẫn đang tiếp tục làm việc nên bụi đất bay mù trời. Thiếu thốn đủ thứ và bẩn thỉu. Họ chỉ định lều ở cho mỗi gia đ́nh. Lượng người đến quá đông nên mỗi người phải tự đi khênh từng cái ghế bố nhà binh để nằm. Măi đến 5g chiều mới tạm gọi là ổn định và được ngả lưng sau quăng đường dài quá dài. Chung quanh là biển xanh, xanh ngắt một mầu làm ḿnh nhớ nhung thêm. Biển ở đây tuy có xanh nhưng không thơ mộng bằng biển cả của ḿnh. Tại v́ biển hay tại v́ ḷng ḿnh đang trống vắng? Mới có mấy ngày cả bố mẹ lẫn thằng con đều ốm nhom. Bố mẹ như già thêm cả chục tuổi. Nh́n đàn em nhỏ dại - thật vô tư nhưng vẫn hằn nét hoang mang. Ḿnh chỉ c̣n biết phó thác cho bề trên, cầu xin Chúa và Mẹ Maria ǵn giữ những người c̣n ở lại và tăng sức cho những người đă ra đi chấp nhận cuộc đời mới nơi xứ người.

 

- Ngày 29-4-1975

 

Mấy ngày qua, ngày nào cũng đến từng dẫy lều t́m người quen (hay t́m anh em Đăng?), nhắn tin bao nhiêu lần vẫn chưa thấy bóng dáng ai! Chúng ḿnh đang xa nhau bao nhiêu ngàn cây số trong khi t́nh h́nh Saigon mỗi lúc một nguy ngập rồi hả Đăng? Anh và Lương đă rời khỏi Saigon chưa? Những người rời Saigon sau em mấy ngày cũng đă đến đây rồi mà hai anh em vẫn chưa thấy đâu!

Sáng nay gặp anh Công cũng đang đi từng dẫy lều t́m gia đ́nh ḿnh v́ Đăng cho anh biết gia đ́nh đă đi. Anh bảo: "ngày anh đi, anh gọi chú ba lần, không lần nào có chú trong văn pḥng, đến chiều anh không thể đợi được nên phải đi thôi. Anh xin lỗi cô đă không mang chú theo." Lại một lần ḿnh khóc đẫm gối chăn. Mỗi lần mất đi một nguồn tin là ḿnh mất đi một tia hy vọng. Buổi chiều gặp Lựu, hắn nói hôm 22-4 Đăng đến xin phép cho ḿnh nghỉ và gửi lời giă từ mà rơi nước mắt. Thiên hạ đang xôn xao t́m nhau. Chờ măi vẫn chẳng thấy tên hai anh em trong danh sách, đành phải thất thểu về lều. Ḿnh buồn đến héo hắt nhưng lại không dám tỏ cùng ai ngoài việc âm thầm khóc cùng biển đen.

 

-Ngày 30-4-1975

 

Ngày tận cùng của tháng Tư cũng là ngày Saigon thất thủ. Xe tăng của những người cùng mầu da cùng tiếng nói nhưng khác chủ nghĩa đă dẵm nát Sài Ṣn của em mất rồi Đăng ơi! Anh đang ở đâu? Đơn vị của anh ra sao rồi? Huynh đệ chi binh của anh c̣n với anh hay đă tan tác mỗi người một nơi? Em nghe tin phi trường đă bị pháo vào tối 28, hai anh em anh có c̣n trong đó? Có thoát khỏi bom đạn không? Hỏi để mà hỏi, có ai cho ḿnh câu trả lời nào đâu. Ngày Quân Lực năm nào xe tăng vào thành phố để biểu dương lực lượng của quân đội VNCH, ngày này xe tăng của XHCN sẽ đem điều bất hạnh nào đến cho quê hương ḿnh đây. Họ đă đuổi ḿnh từ Bắc vào Nam, bây giờ, v́ thế lực ngoại bang, ḿnh lại phải chạy ra khỏi quê hương. Thảm thương !!!

Ḿnh nghe các cụ của lều bên cạnh than thở: "Ư Trời! Tại dân tộc ḿnh ngày xưa đă diệt chủng Chiêm Thành, Thủy Chân Lạp nên giờ bị quả báo!". Đăng ơi, em không hoàn toàn tin các cụ nói v́ ḿnh đâu có hại ai để nên nông nỗi mỗi người một ngả ? Tai Trời ách nước cũng như hợp tan của con người chẳng qua chỉ là luật tuần hoàn của Trời Đất hoặc như những Thánh Giá Chúa gửi cho mỗi người để thử thách đức tin của con Chúa mà thôi. Em xin Người cho em chút b́nh an trong tâm, can đảm chấp nhận Thánh Giá Chúa trao - nếu thật sự người muốn thế.

 

-Ngày 1-5-1975

 

Ngày đầu của Tháng Hoa cũng là ngày Sài G̣n đổi tên. Mang tên một xác người chắc chắn Sài G̣n sẽ chịu nhiều trăm ngh́n đau khổ. Trong buổi kinh tối, ḿnh nghe vang vang câu hát: "Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam. Trời u ám chiến tranh điêu tàn. Mẹ hăy giơ tay ban phúc b́nh an. Cho Việt Nam qua phút nguy nan". Dân tộc chúng con thật sự cần Mẹ đoái thương. Sài G̣n không muốn mang tên xác người, nhất là con người đầy phản trắc hại người, hại đời, phản bội quốc gia dân tộc. Mới hơn mười ngày mà sao dài như hàng bao nhiêu năm. Hàng ngày ḿnh sống trong cảnh đợi chờ, t́m kiếm, ngóng trông trong nỗi buồn chín tim chín thịt, chịu sao cho thấu! Đăng ơi, giận anh ghê lắm. Anh bỏ con nhỏ tối ngày chỉ biết vui chơi không biết lo là ǵ một ḿnh cả bao nhiêu ngày rồi đó, anh có sốt ruột mà đi t́m em không vậy? Ghét anh, ghét anh quá chừng chừng đi. Không thèm nhớ anh nữa, không thèm, không thèm ..

 

-Ngày 4-5-1975

 

Đêm nay lại phải khăn gói đến khu Asan tạm trú trước khi lên đường đi vào đất liền. Toàn cuộc hành tŕnh đều được khởi hành vào ban đêm. Không hiểu rồi cuộc đời ḿnh có măi đen tối như mầu đen của bóng đêm không ? Nỗi buồn cứ quay quắt gặm nhấm con tim. Bây giờ ḿnh mới biết thế nào là nỗi đau của hai kẻ xa nhau. Ngày xưa nghe Túy Hồng hát bài: "Mất anh rồi, xa anh rồi hoa đă tàn nhụy đă phai. Chiều hôm nay trời thanh vắng em đi về, về với ai .." ḿnh cứ cười nói với Đăng: "Cái ǵ mà thảm dữ vậy?" Thế ra đúng là thảm thật! Xa anh rồi, em về với ai? Về với thằng con bé bỏng luôn trên tay bà ngoại để mẹ có th́ giờ lang thang t́m bố về cho con? Về với cái ghế bố lỏng chỏng trong lều ôm con ngủ mà mắt ráo hoảnh trong đêm? Cầu với Chúa với Đức Mẹ, hai Người có nghe lời con kêu xin? Đă gần hai tuần trôi qua, hai tuần với cùng một câu hỏi: "Giờ này anh ở đâu?".

 

- Ngày 5-5-1975

 

Tại khu Asan tương đối dễ thở hơn. Trong khi xếp hàng chờ lănh phần ăn ḿnh gặp lại Kim. Hai đứa ôm nhau khóc ṛng rồi nhắc đến Đăng, Lương cùng đám bạn bè - Thắng, Thanh, Vân, Xuân, Quế ..  c̣n mịt mù phương nào. Tất cả h́nh như đă là quá khứ, xa xôi quá mất rồi. Kim mắng em sao nỡ bỏ anh ở lại mà đi. Đành ḷng nào mà nỡ bỏ nhau? Ra đi, anh không dám tiễn em lấy một câu mà chỉ cho em nụ cười gượng gạo trong khi em phải nuốt lệ trong ḷng mà đi. Chúng ḿnh chỉ v́ tương lai của thằng con, cho hắn chuyến đi an toàn và tương lai tốt đẹp. Bố mẹ cũng như anh đă trải qua bao nhiêu kinh nghiệm máu xương với cộng sản nên sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro. Nếu cùng ở lại, cả ba chưa chắc đă được gần nhau và biết đâu con ḿnh muôn đời sẽ xa ḿnh để thành cháu ngoan của bác. Buồn nói sao cho hết và viết được lời nào cho anh nữa đây?

 

- Ngày 10-5-1975

 

Sáng nay gặp chị Bích, chị cho biết anh Văn cũng lo cho chị và các cháu đi trước, anh ở lại với ông Giám Đốc của cơ quan để lo cho gia đ́nh nhân viên di tản, chị cũng không biết là anh Văn đă đi được chưa? Chị bảo ngày 26-4 vẫn c̣n thấy Đăng lang thang ở nhà. Lại thêm một nguồn tin không được vui. Ngày nào em cũng đi t́m anh. Đêm đêm em ra tâm sự cùng biển. Biển mênh mông, biển gào thét như muốn át đi tiếng khóc của em. Em lang thang trên băi, nghe biển gầm gừ mà khóc v́ thương v́ nhớ v́ đau v́ xót. Cả ngày dài em nuốt nước mắt trong ḷng để mọi người đừng v́ em mà xót xa thêm. Mẹ nh́n thằng cháu ngoại đă đủ đau ḷng rồi nên chỉ c̣n một cách là mỗi đêm ra khóc với biển thôi.

Trưa ngày mai gia đ́nh lại khăn gói đến phi trường Anderson nằm chờ chuyến bay vào đất liền. Ḿnh sẽ xa nhau cả một đại dương đấy Đăng ơi. Gửi lại địa chỉ của người bạn bên Mỹ cho chị Bích để liên lạc sau này. Bây giờ ḿnh chỉ c̣n biết cầu nguyện và cầu nguyện thôi. Ḿnh không biết những người không có đức tin sẽ sống như thế nào trong hoàn cảnh này?

 

- Ngày 12-5-1975

 

Năm giờ sáng gia đ́nh ra phi trường làm thủ tục, 8g30 sáng máy bay cất cánh. Lần đầu tiên trong thời gian qua ḿnh không phải làm chuyến bay đêm, hy vọng sang đến miền đất mới tương lai sẽ sáng sủa hơn. Sau tám giờ bay, phi cơ dừng lại nghỉ hai tiếng ở Hawaii, sau đó nghỉ thêm hai tiếng nữa ở California trước khi bay đến khu tạm cư ở Ft. Chaffee, Arkansas. Mười tám giờ bay chỉ toàn thấy đại dương xanh ngắt và sa mạc mênh mông. Đến nơi này, thời gian lùi lại, vẫn c̣n là ngày 11-5. Bước xuống phi cơ bố cơ hồ đứng không vững, thằng con mệt lả khóc không ra tiếng, c̣n cô Vi một lần nữa lại ngă quỵ. Để mọi chuyện cho mẹ và chị Anh, ḿnh theo trực thăng đưa Vi đến bệnh viện. Con bé trông khoẻ mạnh mà lại yếu quá sức.

Để Vi ở lại bệnh viện tịnh dưỡng ḿnh theo xe về giúp chị Anh lo thủ tục nhập trại. Sau gần hai mươi tiếng mới hoàn tất, về đến "nhà" ḿnh ngủ một giấc từ 9g sáng cho đến 4g chiều mới tỉnh. Bế thằng con lang thang t́m Kim, gặp nhau hai đứa lại ôm nhau khóc mùi. Không muốn nhắc đến Đăng nữa nhưng tên anh vẫn trên đầu môi. Căn nhà mới của gia đ́nh ở Khu I, mang số 1655, pḥng 7 tức là khu Lê Lợi.

 

- Ngày 14-5-1975

 

Sau mấy ngày vất vả gia đ́nh tương đối ổn định. Đây là trại lính của quân đội Hoa Kỳ. Nh́n bên ngoài giống như khu văn pḥng tiền chế của Hoa Kỳ ở Saigon, bên trong họ đóng ván chia thành từng khu cho mỗi gia đ́nh. Trong đây có chợ, có nhà nguyện công giáo và những dịch vụ cần thiết. Những người có vàng mang bán mua sắm thêm cho gia đ́nh. Ngày ngày dân tỵ nạn được cung cấp ba bữa ăn với đầy đủ dinh dưỡng, nếu không v́ thương nhớ trong cảnh thất lạc, quả là người Mỹ đang trả nợ dân Việt.

Sống nơi đây, ngoài "căn nhà" khiêm nhường, những tiện nghi thiếu thốn th́ cái ăn cái mặc đều không thiếu. Tuy nhiên, con người không chỉ sống v́ miếng cơm manh áo mà c̣n bao nhiêu t́nh cảm bên trong nên chi trên khuôn mặt từng người đều hằn nét ưu tư cho tương lai sau này khi xuất trại. Biết đâu là bến bờ? Biết đâu là nơi ḿnh sẽ dừng chân tạo lại cuộc đời mới?

Chiều nay gặp lại Đức, đang du học bên Louisiana cũng bay qua đây t́m gia đ́nh. Mừng quá đi thôi. Đức than: "Hè này ḿnh học xong sẽ trở về nhà, bây giờ kẹt cứng ở đây không biết tin tức ǵ của gia đ́nh cả". Tội cho hắn, tự dưng thành con bà phước bất đắc dĩ.

 

- Ngày 31-5-1975

 

Đến ngày cuối của Tháng Hoa, ngồi nghĩ lại ḿnh đă làm được điều ǵ dâng kính Đức Mẹ chưa hay chỉ là những ngày lang thang hết khu nọ đến khu kia, ngóng hết chuyến xe bus này đến chuyến kia để t́m người muốn gặp hay trực trên văn pḥng hội Hồng Thập Tự để ḍ danh sách người đi người đến. Mỗi ngày nh́n thằng con lớn khôn thêm và cha mẹ héo hắt hơn mà đau ḷng xót dạ. Ḿnh bắt đầu không c̣n hơi sức để t́m kiếm. Cả hơn tháng nay ḿnh bỏ bê thằng con cho bà ngoại không ngó ngàng ǵ. Cứ nh́n đến con lại nhớ Đăng chết được. Giống ǵ mà giống quá sức thôi! Ḿnh đành chấp nhận cuộc sống phó thác để đủ sức "chiến đấu" cho cuộc chiến sắp tới, cho cuộc sống mới. Anh ở nơi nào có nhớ mẹ con em th́ đến nhanh nhanh cho mẹ con em nhờ.

 

- Ngày 23-6-1975

 

Ngày qua ngày ḿnh sống trong nỗi nhớ khôn nguôi cho dù đă tự nhủ ḷng: "phó thác, phó thác, phó thác". Ḿnh sống như người mộng du. Mỗi chiều hai mẹ con lang thang trên đồi cỏ non mà nhớ cỏ non của Sân Cù. Anh c̣n nhớ những ngày ngồi ở đấy nh́n qua Thủy Tạ không anh? Em gửi thư đi cùng khắp thế giới để t́m anh. Gia đ́nh người ta đoàn tụ mỗi ngày nhưng gia đ́nh ḿnh th́ không. Hai anh em anh cứ mịt mù tin tức.

Tối hôm nay, có lẽ là 14 ta th́ phải v́ trăng đang tṛn dần. Ngồi bên khung cửa ngắm trăng mà ḷng buồn vô tận. Nhớ những đêm ḿnh ngồi ngắm trăng mơ chuyện tương lai và nhắc chuyện xưa hai đứa quen nhau không Đăng? Em như con chim nhỏ giữa đám "bạn trai", giống như "thằng nào" mà sao anh vẫn theo em? Tại nhân duyên do Trời định đó mà!!! Em mỉm cười cùng trăng, ḷng t́m được một chút b́nh yên. Em đang ngồi đếm sao. Con sao ngày nào của chúng ḿnh biến đâu mất rồi? Dạo đó anh vẫn chỉ cḥm sao có h́nh chữ L bảo là của em và anh chính là sao Bắc Đẩu, con sao chung của hai đứa nhỏ li ti ở gần bên cạnh sao anh. Tối nay Khánh Ly và Sỹ Phú hát cho mọi người cùng nghe, em không c̣n ḷng dạ nào ra nghe. Nhớ nhà, nhớ anh, nhớ em, nhớ mọi người quá là nhớ.

 

- Ngày 25-6-1975

 

Nhận được thư chị Văn qua địa chỉ của người bạn. Chị và các cháu đang ở Camp Pendleton bên California. Chị vẫn chưa có tin ǵ của anh Văn nên không biết anh Văn đă đi chưa. Ngày đi cũng gấp rút nên chị và các cháu cũng không một lời từ giă ông bà nội các cháu. Tội thân ông bà, hai cô con dâu để lại hai ông con trai của ông bà ở lại, dẫn hết đám cháu nội của ông bà ra đi không một lời giă từ. Con xin lỗi thầy mẹ, khi nào yên nơi yên chốn con sẽ t́m cách thư về cho thầy mẹ báo tin.

 

- Ngày 6-7-1975

 

Tối nay tiễn người bạn nhỏ cùng khu xuất trại. Ngày ḿnh chia tay, hai đứa không được một lời cho nhau, không chúc nhau được lấy một câu. Bây giờ chỉ là người xa kẻ lạ ra đi, c̣n được câu chúc may mắn của em. Buồn đến năo ḷng khi nhớ đến buổi chia tay của ḿnh. Đến nay, ḿnh đành chấp nhận xa nhau. Nếu Đăng đi được th́ đă phải đến nơi rồi chứ không thể yên lặng cho đến hôm nay.

 

- Ngày 16-7-1975

 

Mấy hôm trước ḿnh t́m gặp Đại Tá Đỉnh hỏi tin Đăng, ông cho biết không biết tư ǵ về việc anh đă đi hay ở. Đến hôm nay gia đ́nh phải chấp nhận việc đi định cư mà không có chị Anh. Chị đă quyết định kết hôn và theo chồng. Ḿnh lo lắng quá sức với gánh nặng gia đ́nh mười người. Anh ngữ của ḿnh th́ đi đong, bố mẹ đă lớn tuổi, các em c̣n nhỏ. Ngay bản thân ḿnh cũng c̣n là đứa ăn chưa no lo chưa tới. Biết làm sao đây.

Đăng ơi! Con bé fou ngày nào của anh sẽ phải như Phù Đổng Thiên Vương, bỗng một ngày chợt lớn để lo chuyện đại sự rồi đây này. Anh mà không mau tới, em sẽ vớ đại một ông trong cái đuôi đang theo em ở trong trại để làm cây thiết trượng cho em chống đỡ đó. Nhớ anh bắt chết luôn. Vợ chồng ở pḥng đối diện căi nhau, đánh nhau ngày một làm em bắt ghét. Họ có nhau mà không biết quư nhau trong khi ḿnh thương nhau muốn có nhau mà không được. Ông Trời thật oái ăm quá đi.

 

- Ngày 9-8-1975

 

Gia đ́nh ḿnh đă được một nhà thờ bên Louisiana bảo trợ. Trong khi chờ đợi ḿnh xin làm việc tự nguyện để t́m chút quên lăng. Nhận thư bác Tân cho biết hôm 28-4, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích anh em Đăng không vào phi trường được nên ngày 29 vẫn ở nhà. Em đành chấp nhận số phận không có nhau để nh́n về tương lai của thằng con và thấy đời ḿnh trong bàn tay của hắn. Thằng con ḿnh đă biết rất nhiều thứ, không có ai cho em khoe niềm vui ngọt ngào đó. Tương lai gần, chị Anh theo chồng về một tiểu bang khác. Tương lai của gia đ́nh sẽ đen hay trắng em chưa biết được, chỉ c̣n biết phó thác nơi Đấng Quan Pḥng thôi.

 

- Ngày 15-8-1975

 

Hôm nay kính Lễ Đức Mẹ Lên Trời cũng là sinh nhật của Đăng. Đi dự lễ một ḿnh với nước mắt hoen mi, buổi tối chia xẻ sinh nhật với Đăng trong bóng đêm âm thầm lặng lẽ bằng lời cầu xin cho anh và Lương luôn b́nh an. Giấy tờ xuất trại đă kư đúng vào ngày Lễ chỉ chờ có chuyến bay là lên đường về miền đất hứa? Bây giờ em không có quyền sống như con bé fou ngày xưa rồi Đăng ơi. Em không biết ḿnh có thể chu toàn bổn phận làm chị cả trong gia đ́nh hay không? Lo quá mất thôi.

 

- Ngày 21-8-1975

 

Hôm nay là ngày trọng đại của gia đ́nh. Ngày rời trại tạm cư để đến vùng đất mới - Baton Rouge, Louisiana. Gia đ́nh ḿnh đến thành phố xa lạ này vào một chiều mưa, cơn mưa tầm tă. Những người đến đón gia đ́nh - không cùng mầu da, không cùng tiếng nói. Trắng có, đen có. Họ vồn vă nhưng h́nh như trong ánh mắt của họ ánh lên một điều ngạc nhiên thích thú khi nh́n đám người tỵ nạn nhỏ bé đang run rẩy trong cái lạnh và ướt. Họ che dù, ồn ào nói thứ ngôn ngữ ḿnh nghe chữ được chữ không. Đă nói Anh ngữ của ḿnh đi đong mà. Viết th́ hay lắm nhưng nghe và nói th́ .. chao ơi là xấu hổ. Cũng may họ khá kiên nhẫn nghe ḿnh rặn ra từng chữ để hiểu những ǵ ḿnh muốn nói. Chẳng qua chỉ là những lời cảm tạ và biết ơn. Thế đấy mà cũng phải đánh vật với chữ nghĩa. Nếu có chị Anh th́ hay biết mấy, ḿnh sẽ khoẻ re.

Có một người rất là vô duyên khi hỏi: "where is your husband?" làm ḿnh tủi thân phát khóc. Bộ ông không đọc "tiểu sử" của gia đ́nh tui hả? Hỏi chi mà ác nhân vậy? Hỏi xong mới sorry, sorry, sorry. Sau bữa cơm tối, họ đưa về căn nhà ba pḥng ngủ nhà thờ thuê sẵn và hẹn ngày mai gặp lại đưa gia đ́nh đi lo giấy tờ. Đêm nay được nằm ngủ trên nệm ấm chăn êm mà sao giấc ngủ vẫn không đến. Lo sao là lo cho những tháng năm dài trước mặt. Ḷng tự nhủ ḷng tập quên đi mà sống, tập quên đi mà chạy đua với thời gian. Không c̣n chồng để ỷ lại. Con chim vành khuyên ngày nào của anh không c̣n líu lo. Kỷ niệm đẹp, hạnh phúc hồng .. tất cả là quá khứ. Hăy ngủ ngon, một giấc ngủ không mộng mị ..

 

- Ngày 23-8-1975

 

Đêm nay trăng tṛn, to và gần ơi là gần, chưa bao giờ ḿnh thấy trăng gần với đất như vậy. Đêm trăng hôm nay làm ḿnh nhớ buổi họp bất ngờ hôm nào trên sân cát gần nhà nhỏ Xuân. Bốn người, ḿnh, Đăng, Xuân và Kim đứng nói chuyện tầm phào, giờ mỗi người một phương. Nói sao cho bằng hết nỗi chán chường!!! Ḿnh không biết cuộc sống mới này sẽ ra sao? "Biết ra sao ngày sau?". Đức cũng đang ở nơi đây chờ việc làm mới. Có lẽ phải nghe theo lời Đức - tạm quên Đăng để lo cho cuộc sống c̣n hàng ngày. Nhà thờ không nuôi ḿnh suốt đời. Họ chỉ có bổn phận lo cho ḿnh yên nơi yên chỗ rồi ḿnh cũng phải tự lực cánh sinh thôi.

Nước mắt em vẫn c̣n đầy và sẵn sàng tuôn rơi đấy Đăng, nhưng em phải để dành cho ngày gặp lại nhau tha hồ mà khóc. Em sẽ tự chế ngự bản thân để sống v́ con, v́ cha mẹ già và đàn em dại. Em sẽ gấp lại những trang nhật kư, mong rằng thời gian và sự thành tựu của các em sẽ xoa dịu cơn đau trong tâm hồn của em. Em sẽ giữ nỗi nhớ thương trong ḷng. Em sẽ nghe lời anh "bẻ bút" không làm kiếp tằm tơ xây những lâu đài huyễn mộng nữa. Giă từ giấy bút đă là bạn đường trong những tháng ngày qua.

 

Buồn ơi ta xin chào mi, mi hăy để ḷng ta yên mà vui sống .. chờ đợi và giữ nỗi nhớ thương trong ḷng ..


TRẦN CHI LIÊN

(VIỆT NAM THI ĐÀN chuyển)

BẢN TRƯỜNG CA THĂM NUÔI

BẢN TRƯỜNG CA THĂM NUÔI

(Viết để kính tặng Má)

 

* KAREN N. NGUYỄN là trưởng nữ một gia đ́nh H.O, tác giả đă được tặng giải thưởng bán kết Viết Về Nước Mỹ năm thứ tư (2003-2004). Cô hiện là một Dược Sĩ làm việc tại Virginia. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm Tháng Tư 1975-2005, cô vừa hoàn tất loạt truyện kể đặc biệt sau đây về một thời không thể quên của những gia đ́nh H.O. Loạt bài đăng nhiều kỳ.

 

**

Chỉ hơn một tháng sau ngày Saigon sụp đổ, tháng 6 năm 1975 chế độ quân quản ban bố lệnh tập trung học tập cải tạo, người đi học mang theo đồ dùng mọi thứ kể cả đồ lạnh, để tiêu xài trong một tháng đi đường, vâng, đọc kỹ có chữ đi đường trong thông cáo, phải tuân theo hành lệnh kỳ hạn trong 3 ngày từ lúc công bố.

Một số người tinh thông bấm độn, đoán số rỉ tai tôi  nói đừng để người thân "vướng bận thê noa", hăy

hối thúc chồng tôi đi tŕnh diện ngày thứ sáu 13 tháng 6 năm 1975, ngày ấy rơi vào ngày mùng 5 âm lịch tháng nào th́ tôi quên mất rồi, đi ngày xấu ấy sẽ tránh được nhiều tai ương hoạn nạn.

Chiều tối hôm đó, chồng tôi cùng đi tŕnh diện với anh H., bạn cùng binh chủng, cùng cấp bậc, cùng có 4 đứa con như chúng tôi, nhà ở Bà Chiểu, Gia Định. Anh H. đi bộ mang ba lô qua nhà tôi bên Tân Định để cùng chồng tôi đi tŕnh diện tại địa điểm tập trung là Đại học xá Minh Mạng ở trên Ngă Bảy Chợ Lớn.

Hai người bạn cùng đi du học ở Pháp, cùng phục vụ trong một binh chủng, cùng ở một đơn vị chỉ huy, cùng ở Ság̣n, được 2 người vợ tiễn đưa hai kiểu khác nhau. Chị H., dũng cảm, kiên quyết, mặc quần đen áo bà ba trắng đi xe đạp sườn ngang (xe của anh hay của con trai anh ?), nói là chị sẽ ngủ nhờ ở nhà một người bạn có tiệm buôn đồ gỗ ở ngă bảy gần cổng Đại Học Xá Minh Mạng để tiễn chồng. C̣n tôi , ngược lại, yếu đuối, hay khóc lóc, được chồng dặn ḍ theo lối cổ điển: "Em ơi, em ở lại nhà, em ơi..." Không có vườn dâu em đốn , mà có mẹ già và các con thơ dại em trông .. Đầu óc tôi nặng trĩu ảnh hưởng của sách tố cộng đọc thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm thời Đệ Nhất Cộng Ḥa. Lúc c̣n là sinh viên, tôi đă đọc ngấu nghiến những quyển sách như "Chúng tôi muốn sống", và tôi vẫn c̣n nhớ rành rành cuốn "Ba người con gái của Lương phu nhân" của văn hào Pearl Buck. Tôi tiễn chồng ra cửa khóc và thốt lời vĩnh biệt chàng với quyết tâm "em phải sống !" Sống để lo cho mẹ đă trên 70 tuổi, để lo cho đàn con thơ 4 đứa mà đứa lớn nhất chỉ mới có 12 tuổi và đứa nhỏ nhất chỉ mới biết đi chập chững bi bô gọi "ba, ba .."

Ra đến cửa, cái ba lô hành trang chứa mền, mùng , quần áo, đồ dùng, và cả một cái chiếu nhỏ nặng trĩu trên lưng, chàng quay lại dặn tôi: "Nhà ḿnh đơn chiếc, em nhớ chăm sóc mẹ và lo nuôi dạy các con, chắc lâu lắm may ra c̣n sống sót th́ anh sẽ được về ! Em nhớ tối thả hai con chó ra sân cho tụi nó giữ nhà. Đừng lo ǵ cho anh cả. Nhớ khoá chặt cửa trong và cửa rào."

Trong ánh chiều tà, tôi và mấy đứa con đứng nh́n theo dáng chồng tôi và anh H đi xa dần, chị H dắt chiếc xe đạp đi phía sau. Bóng tối ập xuống như một tấm màn đen nặng nề, đầy đe dọa .. Tôi nh́n h́nh bóng chồng tôi nhỏ dần, nhỏ dần rồi mất hẳn ở đầu ngơ, nước mắt dằn xuống không chảy ra khóe mắt mà chảy ngược vào ḷng đau nhói, không muốn nghĩ rằng đây là lần cuối cùng được nh́n thấy người thương.

Chàng đi .. Tối hôm đó, vào khoảng 1 giờ khuya, mọi người đang yên giấc th́ bỗng có tiếng chó sủa vang, có  tiếng thét hung tợn như tiếng cướp ở ngoài cửa: "Mở cửa! Mở cửa! Không mở sẽ bắn bỏ!" Tiếng đập cửa bằng vật cứng vào cửa hàng rào sắt tưởng như sắp sập cửa đến nơi: "Rầm! Rầm!" Tôi bước xuống gường, tỉnh táo nhưng hai chân tự nhiên sụm xuống, có lẽ v́ trong đời chưa bao giờ bị đe doạ đến như vậy. Tôi vén màn cửa sổ trên lầu ngó ra cổng thấy lố nhố rất đông người, vô số ṇng súng AK lấp lánh dưới ánh đèn vàng của đèn đường và của ngọn đèn nhỏ trước cổng nhà.

"Sao bất tuân không chịu mở cửa ?". Có tiếng người gằn giọng hỏi tôi khi tôi bước ra cửa. "Thưa giữa đêm, chó sủa tôi tưởng trộm, sợ không dám ra.

Tay run lẩy bẩy một hồi rồi tôi cũng mở được khóa cổng. Nh́n đoàn người đằng đằng hung tợn, súng lên ṇng, chân đi dép râu hay đi chân đất, tôi hối tiếc sao ḿnh lại dám mở cửa, nhưng tiếc th́ cũng đă muộn. Họ tràn vào sân, rồi tiến vào pḥng khách. Mẹ già đau yếu ḷ ḍ bước ra nh́n run sợ, 4 đứa con từ 12 đến chưa đầy 2 tuổi lấm lét đứng bên cạnh bà nh́n những người xa lạ có cái vẻ "ào ào như sôi".

"Tên ngụy quân nhà này ở đâu ? Ra mau!" Mẹ tôi khóc ̣a lên "Rể tôi đă tuân lệnh đi tŕnh diện từ sớm mà bây giờ các ông bỏ nó ở đâu rồi lại đi kiếm nó? Hu hu hu ..!" Bà té ngất xuống chiếc ghế dài,

mấy đứa con tôi chạy lại ôm lấy bà gọi "Bà ngoại, bà ngoại, tỉnh dậy ngoại ơi ..!

Trong cơn bấn loạn tôi chợt tỉnh người và hỏi xin cho phép coi lệnh xét nhà. Tôi nghĩ tổ tiên nhà đă phù hộ nên tự nhiên những người hùng hổ vào nhà tôi lại ngó nhau rồi có một tên cầm súng hất hàm ra lệnh cho cả bọn rút ra cửa. Tôi vội vàng đóng cửa nhà lại. Mẹ từ từ tỉnh lại. Chưa bao giờ tôi thấy lạc lơng như vậy, lạc lơng trong một xă hội hoàn toàn xa lạ không có an ninh trật tự ǵ cả với bao nỗi đe doạ khủng khiếp không ngờ trước được.

Hai ngày sau chị H đến nhà tôi báo tin "các ông ấy đă được chở đi hết rồi, có người nói đoàn xe đi về

hướng Long Thành, Long Khánh." Chị H hỏi tôi sao tôi có vẻ lơ là với tin tức chị báo, tôi ngập ngừng nói dối tôi bị bệnh hôm trước nên người hơi lừ nhừ, xin chị bỏ qua cho. Từ đó chị H ít thích đến gặp tôi v́ thấy tôi thiếu nhuệ khí , có vẻ thụ động chờ thời.

*

Thành phố Saigon sau đợt tŕnh diện học tập cho "ngụy quân ngụy quyền cao cấp" th́ đến lệnh tŕnh diện cho quân đội cũ các cấp úy, cấp hạ sĩ quan, học ngắn hạn cho binh lính. Cả Saigon đi "học tập." Sau đó đến giới buôn bán chịu hoạn nạn, nào đấu tranh diệt tư sản ngoại bản, nào cải tạo công thương nghiệp, tiểu thương tiểu chủ, đến các tiệm buôn bán hàng tạp hóa tương chao trong xóm cũng bị kiểm kê.

Sống trong cảnh ngày ngày gặp những "đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi" người Sài G̣n sợ hăi len lén rủ nhau đi vượt biên, bảo nhau tượng Đức thánh Trần ở Bến Bạch Đằng đưa tay chỉ ra phía sông có nghĩa là chỉ đường ra khơi và phải có Bác tức có tiền mới ra đi lén lút được. Đi vượt biên bị bắt th́ phạm tội phản quốc, bị bỏ tù.

Đổi tiền đợt đầu, 500 đồng h́nh Đức Thánh Trần Hưng Đạo đổi ra 1 đồng mới, mỗi hộ chỉ được đổi

200 đồng mới. Dân Sài G̣n sau đợt đổi tiền vẫn c̣n tiền, nhà nhà chưa được nghèo b́nh đẳng như nhau nên lâu lâu lại có đợt đổi tiền nữa. Lương thực thực phẩm nhu yếu phẩm đều được phân phối theo đầu người có đăng kư hộ khẩu thành phố, rồi phân phối theo chế độ cho cán bộ công nhân viên nhà nước. Nhà nhà xếp hàng dài dài mua gạo mục, khoai sùng , bo bo cứng ngắc. Ngày xưa bà mẹ ghẻ chỉ trộn lẫn lúa và gạo cho nàng Tấm lựa, ngày nay dân Sài G̣n phải lựa thóc, lựa sạn, lựa bông cỏ, lựa những con sâu gạo mập ú béo tṛn ra khỏi phần gạo nhà nước bán, lựa gạo tháng này qua tháng khác sức lao động bỏ ra gấp bội so với cô Tấm ngày xưa.

Người dân có sức lao động dư thừa vậy th́ nên đi lao động xây dựng vùng kinh tế mới, nhà nước nhận xét và khuyến khích. " Có sức người sỏi đá cũng thành cơm". Đất khô cằn th́ phải làm thủy lợi, "Con kênh ta đào có anh và có em", không có người khỏe th́ phải có tiền mướn người đi làm thủy lợi, đi lao động dùm. "Lao động là vinh quang", đâu đâu cũng thấy treo khẩu hiệu như vậy. Mọi người phải vào đoàn thể học tập. Bô lăo, phụ nữ, bà con trong tổ dân phố, sinh viên học sinh, nhi đồng đều có hội họp. Nhà nhà và người người đi họp. Bị quay cuồng trong bộ máy sàng lọc của chính quyền mới, bề ngoài nhiều gia đ́nh có vẻ không c̣n sức nghĩ tới những người thân đang ở trong trại cải tạo, nhưng thật ra vết thương chỉ có vẻ hàn trên da chứ bên trong vẫn đau đớn không lành.

Mấy năm sau, người trong trại cải tạo mới được tiếp hơi. Tôi nhận được thư chồng đóng mộc bưu điện ở Yên Bái. Lâu lâu chàng lại được phép gởi cái phiếu quà thăm nuôi về cho gia đ́nh, cái phiếu nhỏ xíu chưa đến nửa bàn tay in trên giấy vàng khè, lúc đầu phải đợi người thân gởi về ở nhà mới gởi quà ra được, về sau mua chợ đen lén lút ở ngoài bưu điện Saigon, mua mấy phiếu cũng có, kỹ thuật in và loại giấy giống như phiếu thiệt.

*

Kỷ niêm nào đáng nhớ hơn là chuyến làm khách của đoàn tàu Thống Nhất mùa hè năm 1979 của tôi. Để đi ra Bắc, tôi phải ra ga xe lửa B́nh Triệu. Đừng bao giờ thắc mắc v́ sao cảnh leo lên con tàu ra Bắc luôn luôn diễn ra vào chập choạng tối! Cổng vào ga là một cái cổng nhỏ đầy kẽm gai mở một chút xíu đủ để một người xách giỏ hay gánh hàng luồn lách qua, nếu có bị chen th́ thế nào cũng bị té nhào vào kẽm gai xé người, rách áo, tét tay chảy máu, giày dép rớt rơi, tóc tai sút sổ, chưa kể bị móc túi, lắc dây chuyền, mất đồ đạc. Qua được cổng thở hắt ra và mệt nhoài, tôi không hiểu sao ḿnh vẫn chưa hóa kiếp sau khi bị đẩy một cái té nhào, rồi phải đứng dậy chạy ra xe lửa để c̣n giành chỗ nhét hành lư trên và dưới chỗ ngồi trên tàu. Biết thân yếu, tôi đă xin các chị có con trai nhờ cậy theo ủng hộ và bảo vệ như trong chuyện ngày xưa. Sao đi xe lửa trả tiền mà khổ thế.

Chuyến đi thăm nuôi lần đầu tiên ngoài Bắc, tôi tập tành kinh nghiệm đi buôn gọi là buôn-chuyến trên đường xe lửa. Tôi tự an ủi cố gắng đừng để bị cụt vốn v́ trộm cắp, chứ tôi làm ǵ biết sành buôn bán để có lời. Trong xách tay tôi mang theo thức ăn nấu chín như cơm vắt, thịt chà bông, quà bánh khô ăn đi đường, và một cái "can" nhựa 4 lít đựng nước uống với một cái ly nhựa nhỏ, khăn mặt quần áo để tới Đà Nẵng tắm tẩy trần bụi đường xa. Ngoài ra trong túi xách tôi c̣n có 3 gói cau khô mua ở đường Vơ Di Nguy ngay dọc Cầu Kiệu bên Phú Nhuận để làm quà tặng cho các cụ già ở Hà Nội ăn trầu, theo lời khuyên của các chị bạn, c̣n nếu không quen ai th́ sẽ đem bán ở Vinh (Thanh Hóa). Các bạn tôi nói các cụ miền Bắc ăn trầu chỉ ăn vỏ cau khô, khác với các cụ trong Nam ăn hột cau. Các chị bạn tôi c̣n dặn nhớ mua quài cau tươi ở ga B́nh Triệu hay cùng lắm là ở ga Mường Mán để bán, nhớ lựa quài nhiều trái tṛn tươi, nhớ treo ở gần cửa sổ cho cau tươi. Buôn bán cho vui 3 ngày 4 đêm ngồi trên xe lửa, tôi tự nhủ, chứ lời lăi ǵ các thứ quà rẻ tiền.

Chen hụt hơi qua cổng, lội bộ trong bóng đêm rồi leo lên tàu chen măi đến cuối toa mới có số ghế của ḿnh, tôi thấy chỗ trên kệ để hành lư đă chật, chỗ dưới chân cũng chật luôn. Có một bà cụ người Bắc ngồi phân nửa cái ghế gỗ, tôi khẽ gật đầu chào bà cho gọi là có phép rồi ngồi xuống, để giỏ đồ tùy thân dưới chân. Ngay sau đó, có một chú bộ đội kéo một cái ba lô to đùng để phịch xuống, ngồi lấn vào bà cụ. Thế là cái băng ghế 2 người ngồi giờ có thật sự 3 hành khách, tôi là người bị lép vế bị lấn trào ra ngồi không có chỗ tựa lưng. Tôi thầm nghĩ ngồi như thế này làm sao đi đến Hà Nội, quay qua nói với chú bộ đội chỗ ngồi này là của tôi. Chú bộ đội hất hàm, gằn giọng phách lối " Chị nói chỗ này là của chị à, c̣n tôi nói chỗ này là của tôi !"Mọi người ngồi trên xe lửa đều êm re. Một bà người Nam đi tranh chỗ ngồi với một "yên hùng" bộ đội về phép, bậy quá, bậy quá !!! Đến khi một người có nhiệm vụ trên tàu mặc đồng phục hỏa xa đi qua, tôi tŕnh vé đi Hà Nội và cố phân trần về chuyện chỗ ngồi. Người này có vẻ yếu đuối, sợ tay bộ đội ra mặt, nói với tôi "chị hăy đợi tôi sẽ gọi người đến giải quyết". Chờ cả hơn thế kỷ mới thấy một chú công an đường sắt xuất hiện và hỏi giấy chú bộ đội. Sau khi coi giấy xong chú công an đường sắt bỏ đi mất ! Chắc công an đường sắt không muốn đụng độ với bộ đội biên pḥng về phép ! C̣n tôi đi thăm nuôi ngồi sao cũng được, ông công an đường sắt không hề đoái hoài hỏi xét vé của tôi, chỉ không đuổi tôi khỏi toa v́ tôi có giấy tờ hợp lệ.

Không khí trên xe lửa nặng nề làm sao, nặng c̣n hơn tải trọng của 3 người ngồi chen chúc trên chiếc băng gỗ nhỏ xíu. Ai cũng có vé, vậy là cứ ngồi, xe cứ chạy. Đến tối xe lửa sắp sửa vào Long Khánh, mọi người chuẩn bị ngủ đêm đầu tiên trên xe lửa. Chú bộ đội lấy chiếc vơng cột một đầu vào thành ghế dựa, đầu kia th́ chú nh́n quanh nh́n quất t́m chỗ để cột. Ở cuối toa có một cái cần màu đỏ trên vách để kéo c̣i báo động khi cần kíp, chú liền cho đầu vơng vào tay cầm của cần báo động, cột thật chặt. Tôi nh́n thấy như vậy th́ hết hồn , nhưng không dám nói, cứ để yên cho chú bộ đội làm. Ánh mắt tôi có vẻ làm cho chú khó chịu, nhưng chú vẫn ngang nhiên leo lên vơng nằm. Chú bộ đội vừa ngả lưng xuống vơng th́ c̣i hụ báo động vang lên điếc cả tai, đoàn xe lửa đang chạy ngừng lại, tỏa khói khét nghẹt.

Đoàn tàu tắt máy. Mọi người nhốn nháo. Công an đường sắt chạy rầm rập tới toa, sau khi nh́n ra cớ sự liền mời chú bộ đội qua toa công an để nói chuyện. Chú bộ đội đi khỏi, tôi ngồi ngả lưng xuống kế bà cụ già. Xe vẫn ngừng. Một số hành khách leo xuống xe hóng mát. Có mấy người thợ đường sắt xuống xem bánh xe và lắc đầu. Một lúc sau chú bộ đội trở lại, mở chiếc vơng ra gói vào ba lô, có công an đường sắt theo hộ tống. Tôi ngồi dựa lưng vào ghế, nhắm mắt ngủ gà ngủ gật. Đến sáng th́ thắng nguội, hết dính vào đường rầy, xe lửa mới bắt đầu chạy được.

Ra đến Quảng Ngăi, tôi bắt chước mấy người trên xe mua đường. Đường bán bao 10 kư, phải coi chừng người bán để mặt đường trắng, phiá dưới là đường vàng, mỡ gà! C̣n nhiều loại đường khác như đường phổi, đường phèn, mạch nha, nhiều loại kẹo như kẹo đậu phọng, kẹo gừng , kẹo mè trắng mè đen, mặc sức mà mua cho người học tập!

Qua ga Gà, hành khách ăn miến gà, gà luộc chấm muối tiêu, muối ớt, mua cả con rẻ rề, xé ăn với xôi gà để lấy sức ngồi trên xe lửa nghe tiếng bánh xe chạy trên đường sắt rùm,rùm, rùm .. người ngồi trên xe lửa đến ga Gà vào chập tối chỉ thấy một điệu múa mâm nhôm trắng bạc chạy dài theo ga dọc theo các toa tàu, trên mâm có những tô phở gà hay miến gà bốc khói, có tô điểm cọng hành xanh, trái ớt đỏ, miếng gà vàng, vàng ghê, thêm bởi ánh đèn cầy lung linh trong gió đêm. Ăn phải trả tiền trước v́ người bán pḥng hờ xe chạy không đ̣i được tiền, mất vốn. Nhiều chuyến xe lửa ra Bắc vào Nam gặp nhau ở ga này, người buôn bán chạy bước chân nghe huỳnh huỵch, giấy bạc nhồi vào túi áo trào ra, bạc cắc xu hào rơi rớt phải ḥ hét đám con nít đi lượm mót, tiếng người la hét ồn ào náo động cả

sân ga.

Đến ga Đồng Hới, có một thứ để mua: trứng luộc, rất rẻ, 1 chục 16 trứng. Trứng gà, tôi c̣n nhớ ngày xưa đọc "Trống Mái" của Tự Lực Văn Đoàn, có nói đến cô bán hàng mời mua "Trấng", đến ga này tôi nghe lời phát âm y như trong sách văn học đọc hồi ấu thơ, mời mua "trấng" (trứng), mua "chúi"(chuối).

À c̣n chuyện mua dừa Tam Quan:

"Công đâu công uổng công thừa

Công đâu xách nước tưới dừa Tam Quan".

Người ra miền Bắc hay mua dừa rám khô đập bỏ nước, ăn cơm dừa ḍn ḍn, beo béo, ngọt ngọt. Tôi chỉ nh́n hành khách xung quanh ăn dừa v́ tôi không có sức khoẻ đập bể trái dừa khô. Bâng khuâng nhớ đến quê nhà lục tỉnh Hậu Giang, uống nước dừa xiêm nạo, c̣n dừa khô nạo nhuyễn vắt nước cốt làm thức ăn mặn hay ngọt như chè bánh, .. ít ăn xác dừa ..

Tàu đến ga Đà Nẵng, hành khách kéo nhau đi mua nước tẩy trần. Các bạn tôi dặn nên mặc đồ màu tối, ngồi lựa chỗ lộ thiên khuất vừa vừa rửa sơ sơ mặt mũi tay chân, không nên mắc cỡ, xấu hổ đi vào những nơi vắng coi chừng bị mất bóp, mất tiền, mất vé xe lửa, chú trọng chuyện sạch sẽ quá e sẽ gặp họa vào thân!

Xe lửa ra Bắc đi qua 3 đèo, đèo Cả, đèo Hải Vân, và đèo Ngang. Đèo Cả dài nhất. Tôi phải khâm phục những người làm ngành đường sắt đă làm con đường hầm xuyên sơn phá thạch cả trăm năm về trước xây dựng đường xe lửa xuyên Đông Dương chạy nhanh nhất express có 2 ngày 2 đêm từ Saigon ra Hà Nội lên Lào cai. Vậy mà bây giờ năm 1979 xe đi 2 ngày 2 đêm đi chưa được nửa phần chiều dài của quê hương! Tiện nghi không thấy đâu, chỉ thấy toàn thắc thảm lo âu khi xe lửa bắt đầu vào đường hầm.

Qua đèo Cả, tôi đă trở thành người đấu vơ rừng bất đắc dĩ chống kẻ cướp giật trong bóng đêm. Bà cụ già người Hà Nội ngồi cạnh tôi vào Saigon để lănh một số quà tặng của thân nhân trước khi người này đi định cư ở ngoại quốc. Trong bóng tối của đường hầm có một bóng người lẻn vào đứng trước mặt tôi, đưa tay kéo mấy túi đồ. Tôi sợ quá, chợt nghĩ rủi tên trộm lấy nhầm gói đồ các bạn bè tôi gởi cho thân nhân th́ làm sao ? Tôi lấy hết sức dùng móng tay cấu mạnh vào cánh tay tên trộm, chân tôi mang đôi sa bô gỗ đạp túi bụi vào chân kẻ lạ đứng trước mặt tôi, c̣n bà cụ kéo giỏ đồ lại, la lớn "Cướp, cướp!" Có ánh đèn vàng chớp lóe lên một tia nhỏ trong toa xe lửa, trong xe hỗn loạn, tôi sợ điếng người. Lúc xe sắp ra khỏi đường hầm, tên cướp bỏ chạy sau khi đấm cho tôi một cú vào mặt đau thấu trời xanh, mái tóc tôi cột gọn ghẽ bị sổ tung toé. Lúc xe lửa ra khỏi đường hầm, trong ánh đèn lù mù của toa xe lửa là h́nh ảnh của tôi, đầu bù tóc rối, mặt đỏ ké sau khi bị một cú đấm vào mặt.

Sau khi làm người bảo vệ bất đắc dĩ cho người già cô đơn, tôi được bà cụ ngồi kế bên nh́n với ánh mắt thân t́nh. Thế là trên quăng dường c̣n lại đi Hà Nội tôi có bạn đồng hành để tṛ chuyện. Bà cụ thấy tôi hay ngắm nh́n phong cảnh và hay mua sắm quà lặt vặt nên đổi cho tôi được ngồi kế cửa sổ. Tới ga Đà Nẵng bà cụ cùng tôi chia nhau coi hành lư để mua nước tẩy trần bụi đường xa, mua cơm mua nước uống thoải mái để tiếp tục cuộc viễn hành.

Xe vào ga đổi đầu máy kéo và một đầu máy đẩy để qua đèo. Xe lửa chạy chầm chậm như người già đi bộ nhờ vậy tôi có nhiều thời gian để ngắm phong cảnh quê hương, cảnh sơn thủy hữu t́nh của dăy Trường Sơn và của biển Đông. Bên núi, bên biển, phong cảnh hữu t́nh bát ngát ngh́n trùng sóng vỗ nh́n từ đỉnh đèo cao nhất của quê hương: đèo Hải Vân . Mây trắng bao phủ đèo Hải Vân tùy thời điểm xê dịch qua lại như chiếc khăn quàng cổ bay bay, làm dáng cho nàng tiên núi. Dăy Trường Sơn trải dài như cột sống của đất nước, một dăy b́nh phong có sắc xanh đậm nhạt khác nhau.

Xe lửa đến B́nh Trị Thiên. Các món ăn của Huế của Thừa Thiên được các cô bán hàng gánh đến ga, các cô mặc áo dài nâu tứ thân, nón lá yểu điệu như trong tranh vẽ ngày xưa; cháo cá, ḿ quảng, bánh ít lá gai .. Phong cảnh Thừa Thiên êm ả, nước sông trong vắt. Có một người mù ôm cây đàn guitar đi trên sân ga, hát một bản t́nh ca thời xưa về những đồi hoa sim tím .. "Sim đây ! Sim tím đây!" tiếng rao hàng làm tôi chạnh nhớ câu ca dao: "Đói ḷng ăn nửa trái sim, Uống lưng bát nước đi t́m người thương".

Từ Đà Nẵng tới đây đă bắt đầu xài tiền miền Bắc, tôi muốn xài thử mà chưa rơ giá trị đối với  vật giá ra sao, bảo cô bé bán cho tôi một đồng sim. Cô bé bán hàng ngước mặt lên cửa sổ toa xe tôi ngồi, nói to: "Hăy đưa cái ǵ đựng sim cho mau, xe sắp chạy rồi!" Ngồi trên xe gần cửa sổ, nh́n quanh nh́n quất tôi thấy chỉ có cái nón lá bài thơ để đội lúc đi đường vào trại v́ các bạn tôi nói xe xích lô ở Hà Nội không có mui, không có nệm giống chiếc xe ba gác. Tôi đưa cái nón bài thơ cho cô bé, nghe tiếng đổ rào rào, cái nón bài thơ nặng trĩu trên tay tôi, có tiếng niềng tre mỏng manh găy răng rắc ḍn tan. Tôi đă xài hớ tiền để mua những quả sim rừng tím mộng mơ và đă làm đau cái nón lá bài thơ, cái nón mà các cô gái đất thần kinh chỉ dùng để che nghiêng mặt chữ điền !

Xe lửa đến đèo Ngang, đèo nằm ở dăy núi mọc ngang đất nước, dăy Hoành Sơn, tôi c̣n nhớ giọng các thầy dạy Văn, Sử ngày nào dơng dạc đọc lời sấm tiên tri của người xưa. "Hoành Sơn nhất đới, Vạn đại dung thân"

Tới đèo Ngang xe lửa chỉ có một đường rầy nhỏ gập ghềnh chạy theo triền núi, qua đèo phải ngừng để ưu tiên cho xe từ miền bắc vào. Xe ngừng trời chập choạng tối, tôi chạnh nhớ mấy câu thơ cổ:

"Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa.."

Chỉ có thơ của Nữ Sĩ Thanh Quan mới lột tả được cái đẹp tự nhiên thơ mộng của núi rừng cùng tâm trạng "mảnh t́nh riêng ta với ta" của người xưa ..

Xe lửa qua cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17 phân chia đất nước từ hiệp định Geneve 1954. Qua khỏi cầu Hiền Lương, địa phận buồn thiu, không c̣n cảnh buôn thúng bán bưng các đặc sản vùng quê, không c̣n cảnh ăn uống dọc đường ́ xèo, xe lửa đă vào phía đất nước xây dựng xă hội chủ nghĩa chính quy mấy chục năm. Thức ăn khô đem theo đă mốc meo, thiu thúi v́ trời nóng hầm hập, người ngồi trên xe chật như nêm. Uống nước mới thấy thở được, trời nóng tôi uống cạn trong chớp mắt can nước đem theo.

Tôi nếm vài trái sim chát c̣n sót lại trong chiếc nón, vị sim chát lại đắng và bắt đầu có mùi thui thúi .. tôi len lén bóc vỏ từ từ từng trái sim tím đen bẩn bằng 2 đầu ngón tay, vừa ngẫm nghĩ người xưa v́ sao chỉ dám ăn có nửa trái sim, uống lưng bát nước, c̣n tôi ăn cả nón sim, uống không biết bao nhiêu lít nước trên đường xe lửa Thống Nhất để đi t́m người thương của ḿnh!!!

Gió lào thổi sang nóng hầm hập, tôi lại nhớ đến ngọn gió tây mà cụ nghè Tam nguyên Yên Đỗ đă tả:

" Cái nóng nung người nóng nóng ghê

Mong được Nồm Nam cơn gíó thổi

Đàn ta, ta gảy khúc Nam nghe!"

Xe đến Vịnh. Nhưng hố bom đă được thiên nhiên hàn lại bằng những thảm cỏ xanh. Cỏ ở đây khác với cỏ ở miền Nam v́ mọc trên vùng đất khô của đá vôi. Vùng Thanh Nghệ Tĩnh, người đông nhưng có nét ḍ xét, đăm chiêu, không buôn bán xởi lởi, không vui vẻ chút nào! Xe vào Nam Định, Phủ lư, khởi sự náo nhiệt hẳn lên. Lời nói có âm thanh L, N đặc biệt nghe vui tai nhưng nhanh có lúc khó hiểu.

Xe lửa vào đến ga Hàng Cỏ, Hà Nội cũng vào lúc tối trời. Người trên tàu ào ào đẩy những kiện hàng lậu trốn thuế xuống các bụi rậm dọc đường sắt. Bà cụ ngồi kế bên tôi nói nhỏ với tôi:"Coi chừng hành lư nghe!". Xe lửa từ từ vào sân ga, đèn đuốc trong sân ga sáng trưng, công nhân đường sắt ăn mặc tề chỉnh, có huy hiệu trên áo, đội nón kết viền đỏ. Trong ga không có người dỡ hàng thuê. Tôi đang phân vân không biết làm sao kéo đồ xuống khỏi xe lửa th́ có một người đàn ông đi Hà Nội ngồi cùng toa nói:" Tôi sẽ phụ chị kéo hàng xuống xe và kéo qua cổng, cảm phiền chị cầm dùm tôi một chiếc quạt điện, tôi mua một cái ở Sài G̣n và được tặng một cái, nếu ra cửa 2 cái quạt điện sẽ bị thuế." Tôi mừng như được phao cấp cứu. Hè hụi, ́ ạch rồi tôi cũng ra được cửa ga hàng cỏ lúc gần 9 giờ đêm.

Tôi có nói với bà cụ ngồi gần tôi là tôi sẽ hợp đồng xe xích lô để hai người đi chung. Tôi sẽ xuống trước khi đến khách sạn Đường Thành, và bà sẽ được phu xích lô chở về nhà, giá cả tôi sẽ trả. Bà cụ đồng ư. Thân nhân của bà cụ đến đón, bà cụ nói nhỏ chi với họ, họ liếc nh́n tôi rồi hăm hở d́u bà cụ cùng hành lư của bà ra cổng sau khi ném một cái nh́n đầy nghi nghờ về phía tôi y như tôi đă dụ dỗ người già ! Ông khách nhờ tôi xách cái quạt điện ra khỏi ga cũng có thân nhân đến đón. Giă từ đường ai nấy đi. Chỉ c̣n có tôi ngồi với đống quà trước sân ga Hàng Cỏ, càng về khuya vắng càng thấy nó nặng và to sồ.

Một người công an kinh tế đến mời tôi đi đóng thuế buôn chuyến. Tôi nh́n mớ quà thăm nuôi, ḷng đau xót kể như sắp mất trắng vào tay các quan thu thuế. May quá có người ra hỏi và tôi vụt nhớ lời chị C đă đi thăm nuôi dặn tôi ai hỏi th́ nói đi tiếp tế. Tôi cố hết sức lịch sự nói:"Thưa cán bộ, tôi đi tiếp tế." Mấy chữ "tiếp tế" mới kỳ diệu làm sao, cán bộ đường sắt hỏi tôi chị đi tiếp tế ở đâu. "Dạ đi Hà Tây." Cho lănh hàng ra ! Miễn thu thuế.

Tôi về đến khách sạn Đường Thành lúc 1 giờ khuya, mệt nhoài. Không thể nào hát nổi tâm sự cuả một người tha thiết nhớ nhung Hà Nội: "Tôi xa Hà Nội khi tôi mười tám khi vừa biết yêu .."

Đến Hà Nội sau gần 4 ngày trời trên xe lửa, tôi không mơ t́m thấy bầu trời Hà Nội về đêm, thành Đại La có rồng vàng bay lên để có biệt danh mà sử sách một thuở c̣n ghi: Thăng Long Thành!

Hà Nội đă trở thành xa xôi vô cùng trong tôi. Giấc mơ đi du học ở thủ đô như các bậc cha chú của tôi đă biến mất từ 1954. Năm 1979, sau một phần tư thế kỷ tôi đến thủ đô không phải là du học sinh, không phải là du khách, mà là người đi nuôi tù cải tạo từ Nam ra Bắc!

Mệt mỏi chán chường, đường xá trơ trọi quạnh hiu, không một người thân! Tôi bước vào khách sạn. Nhờ được các chị bạn đi thăm nuôi giới thiệu nên tôi được người ở quầy ghi khách đến tiếp đăi niềm

nở, đưa ch́a khóa pḥng, xách hộ quà vào pḥng, chỉ dẫn nơi giặt giũ, tẩy bụi đường xa .. Sau gần 4 ngày trên xe lửa, sau những giấc ngủ chập chờn trên băng ghế, bây giờ tôi mới có dịp ngă lưng xuống để ngủ tai tôi vẫn c̣n nghe tiếng xe lửa chạy trên đường rầy rùm, rùm, rùm ..

.. .. ..

Trong óc tưởng tượng của tôi, Hà Nội vẫn là Hà Nội 36 phố phường với những cô bán hàng duyên dáng trong tác phẩm của Thạch Lam. Ra tới cửa Đông, tôi lại nhớ đến chuyện người đẹp trong tranh, nàng tiên Giáng Kiều của chàng thư sinh phong nhă Tú Uyên ..

Tôi đi chợ Hà Nội, không phải với tâm trạng phụ nữ thời xưa:

"Một quan tiền tốt mang đi

Nàng mua những ǵ mà tính chẳng ra .."

Trái lại, tôi có mang theo danh sách gửi và chỉ dẫn nơi mua với giá ước lượng để khỏi mua lầm. Quà khô, thuốc men đă gói sẵn theo rồi, giờ tôi chỉ mua sắm nhanh, đủ để mang vào trại Hà Tây. Tôi chỉ cần mua quà tươi và nhu yếu phẩm. Đặt mua bánh ḿ xong, tôi ra chợ hàng Gà để mua vải thiều . Tôi định mua bánh chưng th́ có một người đi chợ nói nhỏ với tôi bánh này chị không để dành ăn lâu được đâu. Tôi hỏi vậy chứ bánh chưng đặc biệt của người miền Bắc th́ mua ở đâu, thế là tôi được chỉ đường ra cửa nam chợ Đồng Xuân.

Trên đường ra chợ Đồng Xuân, tôi giở cẩm nang đi đường mang theo, thấy ra đó có thể mua nhăn nhục cho người thân. Đến chợ tôi gặp 1 cảnh khó quên: Mấy hàng thịt chó bày bán y như mấy hàng thịt heo quay ở Chợ Cũ. Tôi an ủi th́ giống như Ngă Ba Ông Tạ vậy chứ ǵ, đâu có ǵ phải lo lắng ngạc nhiên. Thật ra từ nhỏ tôi chỉ thấy mấy hàng thịt chó từ xa xa chứ đâu có dịp len lỏi đến gần và được chào mời như bây giờ ! Tôi vụt nhớ một bài ca dao xưa:

"Con gà mà gáy ó o

Đi chưa đến chợ đă lo ăn quà

Bánh nếp chen lẫn bánh đa

Củ từ, khoai mỡ, nào là cháo kê

Ăn rồi ngả nón ra về

Thấy hàng chả chó lại lê chân vào

Chả này bà bán làm sao

Ba đồng một mớ lẽ nào không mua

Nói dối rằng mua cho chồng

Đi ra quăng đồng ngả nón ngồi ăn

Về nhà c̣n khóc băn khoăn

Nào mẹ đi chợ có ăn quà ǵ!"

Tôi thấy có ông dắt con chó con nhỏ tṛn trĩnh tung tăng chạy theo chủ, lưỡi hồng thè ra, mắt đen tṛn xoe, đuôi cong cong, có đeo lục lạc leng keng. Vụt có tiếng nói, 150 đồng, có tiếng trả giá 200 đồng. Tôi nh́n con vật đáng yêu và vội vă rời khỏi chợ Đồng Xuân, hết thiết tha đi mua sắm ở chợ Bát Hoa kế bên.

Tôi ra phố Hàng Buồm, dặn xe xích lô như lời chị C giới thiệu. Đi qua phố Hàng Ngang, buôn bán đông đúc, có một địa chỉ em của người bạn, tôi đến gần hỏi thăm th́ thấy mặt tiền là chỗ người ta buôn bán. Dăy nhà kiến trúc thời xưa có nhà kho, nhà bếp nhà gia nhân, bây giờ phần trong cùng chật hẹp của ngôi nhà là nơi chủ nhân xưa kia của toàn bộ căn nhà cư ngụ, không hiểu sao một gia đ́nh đông đúc sống chật chội như vậy mà chịu nổi! Ở một góc nhà tôi nh́n thấy có một số sách chưởng Kim Dung bị liệt kê vào loại sách "đồi trụy" nay nằm ở góc giải trí cùng một số băng "nhạc vàng". Diện tích nhà quá chật hẹp nên điều kiện vệ sinh quá thô sơ, không dám nhớ tới!

Đi qua phố Hàng Bè có em của bà cụ láng giềng ở Sài G̣n để nhắn lời bà cụ thăm hỏi và để được có người giúp đỡ nếu tôi cần, không ngờ đi đến phố ấy tôi gặp rắc rối. Vào nhà chào hỏi, tôi được ông cụ chủ nhà mời uống trà xă giao. Ông cụ là người khiếm thị nhưng rành đường phố Hà Nội, tôi hỏi ông và được chỉ đường rơ ràng, tôi chép vào 1 tờ giấy để nhớ.

Ra khỏi nhà tôi bị 2 người công an kè về đồn, xét hỏi giấy tờ, bóp, tiền trong người. Sau vài tiếng đồng hồ tôi được trả tự do, bảng vẽ đường ghi chép bị tịch thu. Sau này về Sài G̣n tôi thuật lại và các bạn tôi nói tôi đă dại dột đi vào khu buôn bán tiền, vàng nên mới ra nông nỗi!

Tờ mờ sáng hôm sau chú X chạy xe xích lô đến đúng hẹn và tôi hợp đồng một số tiền hậu hĩ kèm ba bữa ăn sáng trưa, chiều cho chú. Tôi nói ghé chỗ nào kha khá, ăn được th́ chú ghé ăn và tôi cùng ăn, tôi trả tiền. Xe chạy đường ṿng né tránh các trạm thuế đến Hà Đông th́ hừng sáng. Nhà cửa vùng này khá khang trang, nhà xây cao có ḥn non bộ, trồng hoa kiểng, có bậc thang giữa vào cửa chính, có tam cấp hai bên , có cửa sắt và lan can hoa văn trang trí rất đẹp, có cả giếng nước trước nhà.

Chú X ghé hàng phở chui, bán cho người lao động đến sáng là hết. Phở rất ngon hay tôi đói ? Ăn xong bà chủ bán đưa tăm xỉa răng. Tôi hỏi bà có ǵ uống không? Có ạ, bà nói, tôi ngồi đợi và thấy bà dọn ra một b́nh rượu ba xi đế hâm nóng với cái chung rượu nhỏ xíu đính kèm. Tôi trả tiền phở và rượu v́ lỡ kêu. Chú xích lô hỏi bà chị không uống thật à. Tôi gật đầu và mời chú uống phần rượu nếu chú thích. Lúc ra xe tôi mới thấy lời mời của ḿnh là tai hại khi phải ngồi trên xe xích lô của một ông chếnh choáng hơi men, đạp nhanh như gió, nói chuyện râm ran khó hiểu và ca hát huyên thuyên.

Rút kinh nghiệm, đến khi ăn trưa tôi không hé miệng kêu thức uống. Có một bà cụ ở căn nhà kế bên cho một cô bé lễ phép mời tôi qua cho bà cụ gặp mặt. Tôi hơi sợ, nhưng bác bán cơm và chú xích lô nói dân Hà Đông vậy chứ hiền lắm, đừng sợ. Tôi đi, gặp một bà cụ mặc đồ lụa trắng, vấn tóc ngồi trên ghế không di chuyển được. Bà rất đẹp lăo, gọi tôi lại gần, vừa vuốt trán tôi, vừa lẩm bẩm "những tưởng .. nào ngờ .. mợ c̣n trẻ quá ..!" tôi lắp bắp lí nhí lời chào hỏi sức khỏe, thấy ḿnh rơ thật vô duyên v́ không hợp t́nh cảnh, rồi cúi chào bà và nói ḿnh phải đi kẻo trễ. Xe đi ngang qua bưu điện, đi ngang qua bệnh viện Hà Sơn B́nh rất lớn. Một hồi sau xe hết chạy trên đường tráng nhựa, chỉ c̣n đường đá, rồi đến đường đất gập ghềnh. Đường càng lúc càng xấu và nhỏ hẹp, dân cư thưa thớt

dần.

Xe đi ngang một bảng nhỏ đề tên Thường Tín. Tôi vụt nhớ quê bà Huyện Thanh Quan, và bài "Thăng Long Thành Hoài Cổ" vụt hiện lên trong trí tôi:

"Tạo hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoát mấy tinh sương

Dấu xưa xe ngựa, hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương"

Tôi thấy một ngôi nhà thờ có rào chắn chung quanh, nh́n vào có tượng Saint Michel diệt con ác quỷ, ngôi nhà thờ có lẽ c̣n sót lại từ thời Pháp thuộc. Có bóng mấy cụ già lặng lẽ đi lễ sớm ở một ngôi nhà gần đó ..

Dấn dần không c̣n nhà của dân cư, đường đất cỏ may mọc đầy chứng tỏ không ai qua lại. Tôi leo xuống đi bộ. Chú xích lô có vẻ mừng v́ đỡ được trên 40 kư lô trên đường nhiều mô đất hố trũng gập ghềnh. Bông cỏ may vương đầy, tôi lại chạnh nhớ một bài hát ngày nào: "nhũng ngày chưa nhập ngũ, anh hay đón em về vùng ngoại ô có cỏ bông may .."

Gần đến trại tôi thấy có đường rải đá trắng trên nền đất đỏ. Nh́n hai màu trắng toát và đỏ đậm dưới chân tôi cảm thấy thương sức những người trong trại cải tạo đă đổ bao mồ hôi công sức làm đường này. Chưa bao giờ biết trại tù, tôi thấy cổng trại nghèo nhưng có trồng hoa kiểng, có nền cao lót gạch nung, có chút tường vôi khá chắc chắn. Chú xích lô không được vào, chỉ đem đồ đến gần tới cổng rồi chỉ hướng chú sẽ gặp tôi khi tôi thăm thân nhân xong. Tôi bắt đầu kéo lê đồ vào trại từ từ theo lối kiến tha ..

Tôi vào tŕnh giấy tờ. Văn pḥng chính treo lá cờ đỏ sao vàng to tướng và khẩu hiệu "không có ǵ quư hơn độc lập và tự do" , tôi nh́n là cảm thấy chóng mặt.

Tôi vào trại sớm nên được thấy các đội lao động, từng đội có một người công an cầm súng đi trước, đoàn người hàng một đi từ từ, sau cùng có một người công an bồng súng AK đi theo. Một tổ lao động đi ra cổng, bắt đầu làm việc sau nhà khách viếng, người lặng lẽ toả ra các hướng, một ḍng người câm nín không có chút âm thanh. Tôi nhớ cảnh lao động ở Tây Bá Lợi Á trong phim Doctor Zhivago, khác chăng là khí hậu nóng của Hà Tây và khí hậu băng giá của Liên Sô .. Những người tù vẫn vậy, điển h́nh trong bộ quần áo sọc xanh đậm nhạt không đều, quần áo rộng răi v́ người tù nào cũng ốm o nhỏ hơn chuẩn đồ phát, dép lê, xách lon "gô" đựng nước, đội nón vải, nón lá đủ thứ loại để che nắng. Có những đội có người cầm đ̣n gánh và cái thùng rỗng để xách nước. Có người đẩy cái xe cút kít mà tôi nhớ hồi lâu lắm rồi thời 1945 có vài đội tù đi làm đường đẩy ngang nhà ở lục tỉnh quê

trong Nam. Tôi nhớ đến những người tù trong trại Auschwitz thời Đức Quốc Xă, những quân nhân Mỹ bị cầm tù ở "khách sạn Hilton", hỏa ḷ Hà Nội .. Đều mặc đồ tù mà tôi đang thấy ở trước mắt ḿnh.

Lúc tôi đang lo sợ, thấy rơi vào tuyệt vọng, nước mắt sắp tràn ra th́ có tiếng kêu tên tôi vào gặp cán bộ quản giáo trại. Người này dáng dấp nhỏ thó, khô đét, "mặt sắt xanh dờn ", nghe các chị đă đi thăm nuôi dặn tôi phải không được khóc, đừng bao giờ lộ nét bi ai, khóc lóc sẽ bị cán bộ đuổi ra, giờ thăm sẽ bị rút ngắn. Cũng theo lời các chị bạn tôi, người cán bộ quản giáo này là một anh hùnh chiến sĩ Điện Biên v́ lên cơn ghen đă lỡ tay "làm chết vợ" nên bị đày lên khiển tù lao động ở nơi hoang vắng nàỵ

Tôi chào cán bộ, được hỏi ngay là chị từ miền Nam ra, có biết chính sách của đảng và nhà nước hay không. Thế là người cán bộ ào ào trả bài về ba ḍng thác cách mạng, về sự tất thắng của cách mạng ở chiến trường miền nam, về chuyện hạt thóc hạt gạo cắn làm ba, nghĩa vụ quốc tế cao cả ở chiến trường Tây Nam, tinh thần quốc tế cao cả, vv .. và vv .. Tôi ngồi mở mắt nh́n, không phải là nh́n người nói, mà nh́n phong cảnh ngoài cửa sổ sau lưng người cán bộ, giống như học sinh lơ đăng, có ngồi có nh́n chăm chú nghe lời giảng bài, nhưng thật sự tôi đang thả hồn ra cửa "tinh thần ở ngoài lao"!!! Chuyện biết rồi khổ lắm nói măi.

Có một đội người già, ốm yếu thấy rơ so với các đội đi lao động hồi năy, ra dọn dẹp quanh nhà khách, xách nước tưới kiểng, làm cỏ, dọn cỏ, chỉ nghe âm thanh dụng cụ lao động như cuốc xẻng, c̣n người lặng lẽ như những cái máy.

Sau đợt công tác tư tưởng đả thông đường lối của đảng và nhà nước, cán bộ nói đến phần học tập nội

quy gặp thân nhân, tóm tắt dúng như lời các chị bạn tôi đă ra thăm người thân từ tết 79 là không được khóc, không được hôn chồng, nếu không tuân theo sẽ không được thăm 20 phút!!! Lư do không khóc th́ c̣n hiểu nổi v́ phải tỏ tinh thần cách mạng hồ hởi, phấn khởi, c̣n lư do thứ nh́ th́ phải hiểu theo lời cán bộ trại, đó là thái độ không đúng, biểu hiện t́nh cảm của tiểu tư sản mại bản!!! Nói chuyện lúc thăm gặp phải nói to, để cho cán bộ ngồi cuối bàn thăm nuôi nghe kỹ !!!!

Sau phần nghe giảng chính trị và chờ đợi vài tiếng đồng hồ, đến hơn 11 giờ trưa th́ tôi được báo có thân nhân ra gặp. Hồi hộp v́ sợ nước mắt tuôn rơi, tôi vội nh́n vào vách tường vôi vàng vàng ngang tầm mắt, tay bấm chặt đầu ngón taycái như lúc c̣n nhỏ sợ bóng tối phải bấm tay niệm chú trừ tà! Tôi đă sắp xếp trong đầu chuyện phải kể cho chồng, kể từ hỏi thăm sức khoẻ chồng, những ǵ anh cần, chuyện mẹ già, chuyện các con từ đứa lớn tới đứa nhỏ, c̣n chuyện của bản thân ḿnh sau cùng v́ sợ hết giờ thăm.

Tôi nghe tiếng chân bước lên thềm, tiếng nói "chào cán bộ", giọng nói trầm ấm của chồng tôi. Tôi quay lại nh́n thấy chàng, người ốm đi, da đen hơn, mặc quần áo tù không có số. Ánh mắt chàng tŕu mến pha lẫn ngạc nhiên như thầm hỏi: "Làm sao em ra được nơi đây, không một ai quen ở ngoài Bắc hết .." Chàng định hôn tôi, cái hôn thân ái thông thường của vợ chồng, nhưng tôi liếc nh́n thấy tên cán bộ quản giáo đang ngó chúng tôi trừng trừng, vội khều tay chàng và nói anh ngồi xuống tụi ḿnh nói chuyện cho nhau nghe. Bao nhiêu chuyện từ lúc xa cách nhau năm 1975, nay tôi chỉ có 20 phút để nói với chồng.

Tôi không c̣n nhớ ḿnh đă nói những ǵ, chỉ nghe chồng hỏi rồi vâng dạ, chứ không theo quy tŕnh dự tính ban đầu kể chuyện cho chồng nghe. Chiếc bàn thăm nuôi sao bỗng trở nên dài vô tận như gịng sông Tương: "Quân tại tương giang đầu, Thiếp tại tương giang vĩ". Cùng thấy nhau mà ngh́n trùng xa cách bởi bao nhiêu điều cấm đoán vô lối !!!

Giờ thăm nuôi đúng 20 phút thăm nuôi đă hết, tôi hỏi chàng được một câu "sao anh không có số" chàng nói tù thường phạm có án áo mới có số! Giă từ mắt chàng đỏ hoe, tôi nói nhỏ với chàng là em không được khóc, để về Nam em sẽ khóc. Trái tim tôi quặn thắt khi tôi nh́n chàng đẩy quà thăm nuôi trên chiếc xe bù ệt một bánh gọi là xe cải tiến, tôi dơi theo bóng chàng đến khi chàng đi khuất ở khúc quanh gần nhà thăm nuôi.

Trên đường ra chỗ hẹn với xe xích lô để về Hà Nội, tôi cất bước mà nước mắt lă chă tuôn rơi, người tôi mệt nhoài, ră rời. Có một đội đi lao động về, có một người gầy yếu ngồi nghỉ ở một viên đá ven đường, thấy tôi đi gần đến th́ vỗ vỗ vào viên đá rồi đứng lên theo đội hướng về trại tù. Tôi hội ư, cố quăng chiếc nón lá đội đầu cho bay về hướng viên đá, lượm chiếc nón , ngồi lên chỗ người tù hồi năy như nghỉ mệt, lấy khăn tay lau nước mắt. Tôi liếc nh́n thấy một xấp thơ viết có bao và không bao lộn xộn nhưng cột chặt để dưới viên đá, tôi cúi xuống vờ như sửa dép, rồi đẩy mớ thư vào xắc tay để dưới chiếc nón lá, không đội nón lá lên đầu dù trời chiều c̣n nắng chói chang ! Hồi hộp nhưng tôi thầm nghĩ về khách sạn tôi sẽ lựa thư, một số bỏ bưu điện Hà Nội, một số đem về Sài G̣n bỏ tiếp. Nghĩ lại, nếu bị bắt chắc không có dịp trở về nhà mà bị đi cải tạo ở một trại tù khác nơi chồng ở lắm.

Tôi về tới khách sạn th́ trời đă tối, vừa nghỉ một chập th́ có người lên báo là có một đôi vợ chồng nói là người quen muốn gặp. Tôi ngạc nhiên định nói không quen ai , nhưng tọc mạch muốn coi ai ở Hà Nội mà biết ḿnh nên bước ra xem, hoá ra đó là ông khách đi cùng chuyến xe lửa ra Bắc, người nhờ tôi cầm hộ chiếc quạt máy lúc xuống ga Hàng Cỏ. Ông ấy giải thích là muốn cho cô vợ chưa cưới của ḿnh, cô nàng là văn công rất xinh xắn, được biết một người phụ nữ Sài G̣n đă vượt đường xa lặn lội thăm chồng ở trại Hà Tây. Hai người mời tôi đi ăn ở một tiệm ăn của giới nghệ sĩ thủ đô. Đúng là có "lộc thực" ! Hà Nội có chút xíu, đi bộ một chốc là tới nơi, ăn uống, kể chuyện và giă từ, không hẹn gặp lại ! Có nhà hàng ở khá gần mà tôi không biết, v́ kể ra ḿnh không có tiêu chuẩn để vào ăn!

Tôi về đến khách sạn nghỉ đêm khóc sưng vù cả hai mắt ..

Tờ mờ sáng ngày hôm sau, nghe tiếng xe điện chạy, tôi vội chạy ra đón để ra ga Hàng Cỏ cho sớm. Pḥng bán vé chưa mở cửa nhưng đă có nhiều người nằm la liệt ở ga từ lúc nào! Tôi ngồi xuống tam cấp ga và chờ pḥng vé mở cửa giống bao người khác, ḷng bỗng nhớ đến những chuyện bạn tôi nói khi ḿnh không quen ai mà không dám mua vé chợ đen v́ sợ vé giả th́ chỉ có cách xếp hàng và có thể kẹt ở Hà Nội cả tháng trời!!!

Khi pḥng vé vừa mở cửa, chỉ mới có ánh đèn vàng hiện lên bên trong pḥng vé chứ chưa bắt đầu bán vé th́ mọi người rần rần chạy đến, chen lấn để sắp hàng dài từ chỗ bán vé tới cuối sân ga. Tôi thấy ḿnh đứng trong vài người cuối!!! Mùa hè trời sáng rất nhanh, ḍng người xếp hàng không thấy nhúc nhích, tôi nghĩ chắc ḿnh sẽ ở Hà Nội dài dài, ḷng chán ngán đến cùng cực .. Có bao giờ ḿnh gặp tiên như trong cổ tích!

Nàng tiên hiện ra, một cô bé người Nam lễ phép lại gần nói nhỏ với tôi, má cháu mời bác lên trên kia để cùng mua vé, sao bác ra trễ vậy, má cháu đợi hoài bây giờ bác mới tới! Hội ư chớp nhoáng với "nàng tiên" đời nay của tôi, con gái của chị Th., theo mẹ ra Bắc thăm bố ở trại Hà Tây, tôi vội vàng đi nhanh đến đứng cạnh chị Th. Chị Th vừa bấm tay tôi vừa phân bua với mọi người xung quanh là "em tôi đi lạc đường mới đến ga!".

Tôi chỉ mua được vé ngồi, c̣n má con chị Th với tài ngoại gia khéo léo và đứng được sát quầy vé đă mua được vé couchette, Nắm được chiếc vé xe lửa bé xíu mua bằng tiền miền Bắc để về Nam, tôi cứ ngỡ ḿnh nằm mơ, ḷng vô cùng cảm tạ chị Th đă thương người đồng hội đồng thuyền. Tôi giă từ sau khi cám ơn chị Th và con gái đă giúp tôi phương tiện trở về nhà. Sau này chúng tôi vẫn c̣n gặp nhau mấy lần khi đi thăm nuôi và tôi gặp lại chị Th định cư ở Mỹ tại tiểu bang Virginia.

C̣n chút thời gian, tôi quyết định đi viếng thủ đô theo lối express! Tôi ghé nhà chú lái xích lô hôm qua, nói chú chở tôi đi dạo Hà Nội một ṿng v́ đến chiều tối tôi sẽ trở lại Sài G̣n. Kiến trúc của thủ đô Hà Nội và của thành phố Sài G̣n sao có nhiều nét tương đồng, tôi tự hỏi ngày xưa có lẽ chỉ dùng một bản vẽ thiết kế đô thị cho đỡ tốn kém hay không? Tôi đi ngang nhà hát lớn, toà đô chính bưu điện . Trường Bưởi làm cho tôi vụt nhớ đến người đẹp nuôi chồng thời xa xưa trong "Gánh hàng Hoa" của Nhất Linh và Khái Hưng .. Chú xích lô đưa tôi ra quảng trường Ba Đ́nh, được biết "lăng bác" đang đóng cửa để chỉnh trang. Tôi ở miền Nam mà không được "thăm lăng bác", mùa hè nóng nực, lăng đóng cửachỉnh trang hay v́ mở cửa cho khách viếng không đủ khí lạnh sợ hư xác ướp? Tôi biết minh không được xếp vào diện cháu ngoan Bác Hồ, nên đến chết không nh́n nhau!

Tôi thăm khu Hoàn Kiếm, có Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc ..  lúc đang nghĩ sao cầu Thê Húc nhỏ quá, tôi vụt nhớ lời người giáo sư dạy Sử ngày xưa dặn chúng tôi có nh́n công tŕnh lịch sử của đất nước th́ phải nhớ nh́n với con mắt của lịch sử .. Tôi cố thu vào óc những cảnh ḿnh thấy, và mơ về thời Lê Lợi được thần Rùa trao gươm báu để giết giặc ngoại xâm, sau khi chiến thắng trở về th́ thần Rùa nổi lên lấy lại kiếm báu, lặn sâu xuống nước, một giai thoại thần kỳ oai hùng biết bao trong sử Việt Nam. Từ lúc nhỏ, tôi vẫn mơ về Hồ Hoàn Kiếm trong ảnh của Nguyễn An Ninh, đẹp như tranh vẽ, in trong tạp chí Revue du Sud-East Asiatique, bây giờ mới có dịp thấy tận mắt.

Qua khu Đống Đa tôi nhớ đến Quang Trung đại phá quân Thanh nhưng thấy ḿnh khó h́nh dung giai đoạn lịch sử này v́ g̣ thấp quá ! Tôi đến nh́n sông Hồng, nghĩ đến tác phẩm "Vỡ Đê" đọc ngày nào, tưởng tượng đê đập kiên cố chứ nào ngờ ngoài đời bờ đất dễ trôi, dân cư sống và trồng trọt rau màu giữa đê chính và đê phụ .. Tôi thấy cầu Thăng Long đă xây xong nhưng do chiến tranh biên giới ViệtTtrung lúc bấy giờ nên không xử dụng ..

"Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ

Bến thu phong đứng rũ tà huy .."

Tôi vào bưu điện Hoàn Kiếm để gởi thơ vào trại Hà Tây, báo tin cho chồng là tôi đă mua được vé xe lửa trở về. Tôi mua một số tem và phong b́ bỏ một số thơ nhắn tin ở miền Bắc, sao chép địa chỉ viết trên những tờ giấy đủ cỡ viết lên bao thư, thư của những người tôi không hề quen biết, chỉ biết là cùng chung số phận ở Hà Tây như người thân của tôi .. Thử xem điện tín đánh từ thủ đô ở bưu điện Hoàn Kiếm có đến Sài G̣n nhanh hay không, tôi điện về:"Mẹ về nhà chuyến tàu Thống Nhất ngày .. tháng 7 năm 1979." Cái thú thử tṛ truyền tin điện tử này c̣n hại tôi dài dài, tôi sẽ kể ở phần sau.

Chiều tôi vào ga Hàng Cỏ, chen lấn tưởng chết ngộp, may là không có hành lư nhiều như lúc đi, cũng c̣n lách được vào toa tàu. Vé tự mua, không có ai tranh chỗ, nhưng chỗ ngồi gần pḥng vệ sinh của toa "thơm lừng"

Trên đường về 3 ngày 4 đêm, ngồi nh́n phong cảnh dọc theo cửa sổ xe lửa, tôi nhớ bài hát phổ nhạc từ thơ Hồ Dzếnh:

"Trên đường về nhớ đầy

Chiều chậm đưa chân ngày

Tiếng buồn vang trong mây .."

Tôi nhớ chồng sống đọa đày lao khổ trong trại tù Hà Tây, nhớ Hà Nội, vụt nhớ 2 câu thơ Bà Huyện Thanh Quan:

"Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường."

Về nhà, mẹ tôi hỏi con đi Hà Nội thấy ở đó ra sao, thăm chồng con thấy nó thế nào. Tôi đáp thấy cảnh Hà Nội đẹp, mẹ tôi hứ một tiếng , con này mới đi Hà Nội mà đă mê lậm!

Tôi nhớ hai câu thơ của Trần Dần trong Nhân Văn Giai Phẩm:

"Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ .."

Tôi thầm nghĩ, tôi đi Hà Nội thấy phố xá cũ x́, công an đầy dẫy, cuộc sống người Hà Nội che dấu, nhưng cũng c̣n có người Hà Nội tốt .. Tôi mếu máo ôm chầm lấy mẹ tôi và nói:"Mẹ ơi, chồng con là tù không án không số, biết bao giờ ra!!!

Mẹ tôi vuốt tóc tôi, lau nước mắt trên mặt tôi, an ủi tôi "Rồi con sẽ đi thăm nuôi nữa, hè sang năm ráng thu xếp cho mấy đứa nhỏ đi thăm ba tụi nó."

Sau ba ngày 4 đêm đi xe lửa tôi về tới nhà, cái điện tín gởi từ bưu điện Hoàn Kiếm vẫn không thấy đâu

cả. Một ngày sau khi tôi về tới nhà, điện tín tới, nhưng tôi bận đi chợ không có ở nhà, về nhà thấy

trong thùng thơ có giấy báo ra bưu điện Sài G̣n nhận bưu tín! Tôi ṿ bỏ, nghĩ điện tín chậm như rùa ḅ, không thèm lănh v́ chính tôi gởi. Không ngờ vài hôm sau có giấy báo của công an phường bảo tôi lên gấp hỏi tại sao không đi lănh điện tín gởi từ Hà Nội! Tôi tŕnh bày cớ sự, chú công an phường nói à, chị quả là có xin phép ra Bắc, thôi chị về nhà nghỉ ngơi ! Về nhà tôi tâm sự với ngưới hàng xóm gốc Hà Nội, các bác bên hàng xóm nói với tôi sao chị không biết chuyện dân Sài G̣n có gốc ở Bắc đă ra ngoài ấy cùng bà con đi vượt biên, nghe nói dễ đi hơn trong Nam, mấy trại tỵ nạn ở Hồng Kông tràn ngập người là người!

Chuyến thăm nuôi về sau nhờ có kinh nghiệm nên không có ǵ đáng kể. Thân t́nh của những người vợ, người con đi thăm nuôi ngày càng thắt chặt, tạo thành một mạng lưới của giới "thân nhân học tập cải tạo". Tháng này chị A đi thăm chồng ở Hà Tây, tháng tới cô X ra thăm bố, người nào đi th́ nhận mang quà của những người khác. Tin tức từ trại nhắn về, người ở nhà biết được những thứ cần phải gởi, những thứ không dùng được, người tù sống được là do gia đ́nh muôi, trại tù không có ǵ phải lo lắng nên cứ giữ tù dài dài.

Sau gần năm năm trời đi thăm nuôi ở miền Bắc, chồng tôi được chuyển vào Nam gia đ́nh tôi đi thăm nuôi ở Long Khánh. Qua đèo Mẹ Bồng Con của núi Chứa Chan th́ tới, đi bằng xe hơi bao đón ở B́nh thạnh, An Đông .., đưa rước cả chuyến đi vào trại. Về Sài G̣n chúng tôi thường đùa với nhau theo giọng người Nam: núi chứa chan, chán chưa ? Chưa chán cho nên tháng nào cũng ráng gởi quà hoặc ráng đi thăm theo phép trại để cho thân nhân đỡ sống thiếu thốn. Năm 1987 trại cải tạo thả một số tù về với gia đ́nh, trong số đó có chồng tôi, chấm dứt 13 năm trời thăm nuôi.

 

Năm 1991 gia đ́nh tôi được định cư ở Mỹ theo diện HO. Tôi lại sống đời đi thăm nuôi, không phải vất vả nuôi chồng ở trại cải tạo mà cùng chồng đi thăm các con ở các trường đại học, rồi sau đó khi các con thành tài, lập gia đ́nh , th́ đi thăm con , thăm dâu thăm rể, thăm các cháu. Tính ra cũng đă gần 14 năm trên đất Mỹ, cuộc đời chỉ có niềm vui vươn lên, chứ không tràn đầy nước mắt tủi hờn bị đọa đày của một thời 13 năm trời đi nuôi chồng từ Bắc vào Nam của một người vợ HO.

 

Kính tặng má của chúng con

 

KAREN N. NGUYỄN

(/O-O/ sưu tầm)

website counter