BÀI VIÊ'T 2

Home
CHUYÊ.N THIÊ`N
CHUYÊ.N THIÊ`N (tt)
VA(N
VA(N (tt)
VA(N 1
VA(N 2
Va(n 3
VA(N 4
VA(N 5
VA(N 6
VA(N 7
VA(N 8
VA(N 9
THO'
CHUYÊ.N LA.
TIÊ?U LUÂ.N
BÀI VIÊ'T
BÀI VIÊ'T (tt)
BÀI VIÊ'T 1
BÀI VIÊ'T 2
BÀI VIÊ'T 3
BÀI VIÊ'T 4
TA`I TU'?
VA(N TÊ'

0_cothukho_bongbong.jpg

Con Em Chúng Ta:

 

Con Em Chúng Ta:

TRẺ THƠ VIỆT NAM TRÊN QUÊ HƯƠNG MỚI

(Tản bút của Hoàng Ngọc Liên)

Cách đây khoảng gần năm năm, tôi đến khu  Nations Ford, thành phố Charlotte thuộc Tiểu Bang North Carolina, thăm gia đ́nh Kim Dung, con gái bà bạn đồng nghiệp "gơ đầu trẻ" cùng thời với tôi ở Việt Nam trước 1975. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe Nancy, con gái Kim Dung, lúc đó mới mấy tuổi, đọc vanh vách:
- Công Cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một ḷng thờ Mẹ, kính Cha,
Cho tṛn chữ Hiếu, mới là đạo con!

Chẳng những thuộc nhiều ca dao, bé Nancy c̣n biết kể chuyện cổ tích cho tôi nghe:

- Ngày xưa, có anh Trương Chi,
Người th́ thật xấu, hát th́ thật hay.
Cô Mỵ Nương ở Lầu Tây,
Con quan Thừa Tướng, ngày rầy cấm cung ..

và:

Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị Em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân ..

Tôi làm bạn với Nancy cả ngày để nghe Bé đọc ca dao và xen vào những bài hát, như Quốc Ca Việt Nam:

- Này Công Dân ơi! Đứng lên đáp lời Sông Núi ..

Như :
- Khỏe v́ nước, kiến thiết quốc gia ..

Tôi c̣n ngạc nhiên v́ Nancy thuộc cả thơ .. Bút Tre:

- Tin đâu như sét đánh ngang,
Bác Hồ đang sống, chuyển sang từ trần!

....

Th́ ra, do bà Ngoại cháu dạy. Bà bạn tôi ở đây, khi bé mới được sanh ra vào đúng ngày 25 tháng 12, cho đến nay (1994). Bà ru cháu bằng Ca Dao, như đă từng ru Mẹ cháu, d́ và cậu của cháu. Bà ru đi, ru lại, à ơi. Cháu nghe măi rồi thuộc ḷng, cả những câu cháu không hiểu nghĩa:

- Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua, bần hàn.
Thương người quan, quả, cô đan ..
Thương người đói rét, nằm ran kêu đường.
Thấy ai đói, rét th́ thương,
Rét thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân ..

"Birthday" của cháu là 25 tháng 12, nên cháu vẫn khoe với các bạn:

- Nen-Xỳ là em của Chúa!

*

"Cô Bé" tí nị thứ hai mà tôi mới gặp, là cháu nội của bạn tôi (Anh Ba Bà Chúa Xứ),: cháu Nguyễn Phi Yến, bốn tuổi.

Tôi ngồi bên cạnh Phi Yến, nghe cháu nói:

- Thăm Nội rồi, cũng đi thăm Ngoại nữa!

Cảm ơn bố mẹ cháu, cảm ơn ông bà Nội, ông bà Ngoại cháu và những người thân của cháu, đă cho tôi niềm hạnh phúc được nghe cháu nói tiếng Việt.

Bà Nội cháu kể:

- Có lần Phi Yến nói sai, khi hỏi tôi: "Bà là vợ của Ông Nội, phải không?"

Tôi trừng mắt nh́n cháu. Nó sợ quá, níu lưỡi:

- Cháu nói sai rồi ?

Tôi gật đầu:

- Đúng là cháu nói sai. Không bao giờ cháu được nói .. vợ của Ông Nội, mà phải nói là .. Bà Nội.

*

Thêm một Cô Bé nhỏ tuổi hơn: mới ba tuổi: Nguyễn Thị Duyên Anh, cháu ngoại Phan Trọng Sinh, tiếng Việt rành rẽ. Xin theo dơi câu chuyện giữa hai bà cháu, như dưới đây:

- Mặt bé giống mặt bà Phú!

- Cháu không thích Bà Ngoại nói vậy!

- Tại sao ?

- Cái mặt của cháu là cái mặt của cháu!

- Giống ai?

- Giống Mẹ!

Một cậu bé mười tuổi, cháu ngoại của ông bạn tôi ở Seattle, WA, cúi đầu, khoanh tay chào tôi, sau khi được ông bạn tôi nói với cháu, tôi là bạn của ông từ xa đến thăm:

- Thưa Ông, cháu mừng ông mới tới.

Tôi xoa đầu cháu:

- Ngoan, ai dạy cháu nói tiếng Việt sơi vậy ?

Cháu lễ phép:

- Thưa ông, Bà Nội cháu dạy cháu.

*

Đó là những trẻ em có được Bà nội hay Bà Ngoại bên cạnh, hay là Mẹ của Bé không đi làm.

Cách đây ít năm, khi được tin hiệu sách VN của ông bạn Trần Long Hồ ở Virginia không c̣n hoạt động nữa, tôi nghe xót xa trong ḷng. Tôi có lo xa quá không, khi nghĩ rằng, chỉ khoảng vài chục năm sau, có thể sẽ không c̣n hiệu sách VN nữa!

Nhưng người Việt c̣n, th́ Tiếng Việt, chữ Việt c̣n, như vậy sách báo chữ Việt ở các Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại sẽ không bao giờ thiếu. Mà chữ Việt, tiếng Việt c̣n là do chúng ta, những người Việt Hải Ngoại mang theo Quê Hương và Văn Hóa Việt trải rộng khắp các nơi trên Hoàn Vũ, truyền đạt cho Trẻ Thơ Việt để măi măi Văn Hóa Việt được bảo tồn và phát huy.

Thực ra, hy vọng này của tôi chớm nở từ lần gặp một thiếu niên Việt trong Thư Viện của thành phố Portland, Tiểu bang Oregon.

Hôm ấy, nhờ tấm thẻ của con gái, tôi được sử dụng một PC 60 phút. Trong khi chờ máy khởi động, tôi nh́n qua người bên cạnh, cậu ta đang chăm chú nh́n ecran: chuỗi h́nh thành phố Huế với Ngọ Môn, điện Thái Ḥa.

Tôi buột miệng:

- Cháu là người Việt Nam?

- Cháu tên Ḥa, chào ông!

Tôi vui vẻ:

- Chào cháu. Tôi thiệt vui mừng được nói tiếng Việt với cháu.

Ḥa nh́n tôi chăm chú:

- Cháu chưa gặp ông lần nào. Ông ở xa mới tới?

Tôi gật đầu:

- Phải rồi. Tôi ở Cali lên đây thăm các con.

- Chúc mừng ông đến Portland. Thành phố chúng cháu hầu như quanh năm ít khi thấy mặt trời. Mùa Đông thường có tuyết. Nhiều khi lạnh cắt da. Nhưng chúng cháu ở măi cũng quen ..

Rồi cậu ta ngập ngừng:

- Ông có th́ giờ không? Xin vui ḷng cho cháu biết vài điều mà cháu không hỏi ai được!

Tôi vui vẻ:

- Cháu cứ nói đi!

- Vậy ông cháu ḿnh tắt máy. Cháu mời ông ra pḥng khách để cháu tiện thưa chuyện.

Nói xong, Ḥa thân mật cầm tay tôi kéo đi.

Sau khi kêu hai ly nước lạnh, Ḥa bắt đầu tâm sự:

- Thưa ông, cháu được sanh ra và lớn lên ở thành phố này. Ngoài Ba Mẹ, cháu không nói tiếng Việt với ai nữa. Trường học tuy có bạn người Việt, nhưng chẳng ai nói được tiếng Việt. Nhà trường không dạy cháu địa lư Việt Nam, nhưng có chỉ qua về quốc kỳ của nhiều nước. Cờ VN nền đỏ, có ngôi sao vàng chính giữa. Nhưng ở trước cửa nhà cháu lại treo cờ Mỹ và một cờ nền vàng ba sọc đỏ. Mẹ cháu nói đó là cờ Việt Nam! Điều này khiến cháu không hiểu. Cháu có hỏi, nhưng Mẹ cháu nói để bữa nào rảnh, Ba cháu sẽ kể chuyện Việt Nam cho cháu nghe, cả chuyện tại sao gia đ́nh cháu lại đang sống ở Hoa Kỳ? Nhưng rồi hầu như ba cháu chẳng bao giờ rảnh, nên cho đến hôm nay, cháu cũng chưa được biết ǵ về Việt Nam! Mong ông chỉ dạy cho cháu ..

*

Ông cháu chúng tôi nói chuyện khá lâu, cho đến giờ Thư Viện đóng cửa mới chia tay. Tôi kể cho Ḥa nghe sơ lược về cuộc chiến Việt Nam, nguyên nhân cuộc di tản vĩ đại t́m Tự Do trong các năm 1975 1979.. và c̣n kéo dài nhiều năm sau đó ..

Ḥa có xin địa chỉ của tôi để liên lạc, nhưng cho đến hơn một năm sau, tôi mới nhận được tin của Cậu bé:

Portland, ngày ..

Thưa Ông,

Cháu kính thăm Ông an mạnh. Hơn năm nay, sau khi được ông chỉ dạy, cháu đă t́m đọc thêm sách báo Việt ngữ để hiểu tường tận, lư do tại sao Ba Mẹ cháu lại vượt biển t́m Tự Do, để gia đ́nh cháu có được cuộc sống hôm nay tại đất nước tuyệt vời này.

Cháu cũng đă lên Mạng Lưới Toàn cầu để biết rơ về cuộc sống không có Tự Do của người Việt trong Nước.

Cháu biết ơn Hoa Kỳ, đă hào phóng cho gia đ́nh cháu được nhận "nơi này làm quê hương thứ hai", do vậy mà cháu được học hành nên người có ích cho bản thân cháu, và cho xă hội đang bao dung cháu.

Để đền đáp công ơn của Cha Bác, cháu nguyện sẽ cùng gia đ́nh, bè bạn và những thân hữu, hết sức, gắng công bảo tồn và phát huy Văn Hóa Việt trên Quê Hương Mới, để Chữ Việt, Tiếng Việt măi măi tồn tại trong ḍng Sử Việt của tất cả những người Việt Nam Hải Ngoại.

Trong niềm tin tưởng ấy, cháu chân thành kính chúc Ông sống lâu và hạnh phúc.

Trân trọng
Chàu Vơ Đức Ḥa, Portland, Oregon.

 

Tôi nhận thư trên vào một ngày đầu Năm Mới 2005. Bức thư của cháu đối với tôi, đúng là nguồn an ủi và hạnh phúc.

 

HOÀNG NGỌC LIÊN

(Sưu tầm liên mạng chuyển)

NGHIA~ TRANG QUÂN -DÔ.I (Thu? -Du*'c)
0_nghiatrangthuduc3.jpg
(TÔ' NGUYÊN su'u tâ`m)

HAI BÀI THƠ,

 

HAI BÀI THƠ,

(một cho tử thần, một cho bằng hữu của TRẦN THÚC VŨ)

 

 

NSVN, 19/4/05: Kỷ niệm 30 năm ngày Miền Nam và Quân Lực VN Cộng Hoà bị bức tử.

 

Nhóm Nguyệt San VN, nhân kỷ niệm ngày tang thương của đất nước, trân trọng giới thiệu đến quư chiến hữu QLVNCH và bà con VN trong và ngoài nước hai bài thơ mới nhất của nhà thơ Trần Thúc Vũ - thuộc nhóm Nhà Văn Quân Đội, người 2 lần tù 17 năm trong tay giặc, khi anh bất ngờ được bác sĩ báo cho anh biết t́nh trạng "suy yếu sức khỏe" của anh.

 

Trước đây vài năm, trên Nguyệt San VN, chúng tôi có chạy bài viết của anh kể lại chuyện anh bị hôn mê trong tù khi chân anh c̣n bị cùm, y sĩ VC khám bệnh và "phán" anh đă chết. Họ cho anh em tù khiêng anh đi chôn ngoài b́a rừng.

 

Huyệt chôn anh đă đào, chuẩn bị bỏ xác xuống chôn, anh biết ḿnh c̣n sống, sắp bị chôn sống nhưng không đủ hơi sức lên tiếng. Bất ngờ, trại bị cháy, kẻng trại gơ vang, bộ đội VC bỏ xác anh lại bên hố chôn và kéo tù về trại chữa cháy. Sương đêm làm anh tỉnh lại và anh ḅ vào một đám rẫy của người Dao, trốn trong một hốc cây mục. Khi bộ đội VC chữa cháy xong, dắt một số anh em tù quay trở lại chôn anh th́ xác anh đă biến mất, họ nghĩ cọp đă tha xác anh, t́m không ra, họ trở về trại.

 

Sáng hôm sau anh được cặp vợ chồng người Dao cứu đem về một gian nhà sàn. Anh được tắm rửa, cho ăn cháo, hồi tỉnh và b́nh phục dần sau một tuần. Sau đó, không thể dấu anh măi, họ báo trại giam, và anh bị áp tải trở lại trại.

 

Gần 25 năm sau, anh lê phần đời c̣n lại trên đất khách, vọng nhớ cố hương, xót đau vận nước. Khi nhận được tin bác sĩ cho biết t́nh trạng sức khỏe của ḿnh, không biết rồi mai sẽ ra sao, nhưng trong anh bỗng như bùng lên sức sống, ngạo nghễ đối diện, thách thức với tử thần. Trong 2 ngày sau đó, anh đă viết hai bài thơ lẫm liệt, một cho Tử Thần, một cho bằng hữu một thời trong chiến trận ..

 

* NÀY TỬ THẦN

 

Ngươi đă đến, đứng làm chi ngoài ngơ ?

Vào, cùng ta chơi nốt cuộc tồn sinh

Cờ đă sẵn, đây cuộc cờ định số

Ta bật hồng rọi thấu cơi u minh

 

Ta đă sống, tất nhiên rồi sẽ hóa

Tội cho ngươi lén lút những mê cung

Ta như lửa sá ǵ ngươi hù dọa

Thuở binh đao, sinh tử đă bằng không

 

Ta dũng sĩ, ôm mối hờn quốc nhục

Lạnh căm căm, lửa bốc những canh khuya

Thân c̣n nợ núi sông chưa báo đáp

Mới đành cam lưu luyến buổi phân ĺa

 

Này tử thần, hăy chờ ta bước nữa

Cơi trăm năm khoảnh khắc có là bao ?

Hăy ngồi đó nhâm nhi, và hăy ngủ

Choán thiên thu bằn bặt những thương đau

 

Xong việc nước, ta lay người thức dậy

Rủ ngươi về thiên cổ một phen chơi.

 

Trần Thúc Vũ

13/4/2005

 

 

* BẰNG HỮU

 

Bạn ta thuở trước c̣n những ai

Thoát chốc đó 50 năm mộng mị

(Năm mươi năm mộng mị tang thương)

Cơn gió xoáy những điêu linh vận nước

 

Bạn ta đó, kẻ bỏ ta bất chợt

Nay anh linh u uẩn nơi đâu

Năm mươi năm ai c̣n ai mất

Năm mươi năm thoắt cũng như không

 

Vẫn c̣n đó những dấu chân trên cát

Này Lữ, này Đông, này Linh, này Thức

Này Hào, này Châu ..

Nửa đêm, trời bật khóc.

Kẻ c̣n lại lênh đênh phiêu dạt

Góc biển chân trời

Cười ra nước mắt

 

Nước mắt mặn trên môi người đă khuất

Nụ cười ai như trận âm phong.

Giữa hai bờ tử sinh lạnh buốt

Nương náu nơi đâu

 

Giờ c̣n lại quanh ta t́nh thâm hơn cốt nhục

Những trẻ thơ

Tóc đă sương pha

Thều thào câu chuyện cũ...

 

Trần Thúc Vũ

Anaheim 14/4/05

(Tặng bằng hữu c̣n lại, đă qua,

và riêng cho Lê Khắc Anh Hào)

 

(/O-O/ sưu tầm)

0_nguoithuongbinh_con.jpg
(H́nh: PHÓ HÔ`NG VIÊ.T BA(`NG)

30 NĂM NH̀N LẠI CHIẾN TRANH

30 NĂM NH̀N LẠI CHIẾN TRANH

(TRẦN TRUNG ĐẠO)

 

Thỉnh thoảng tôi đọc trong Internet một vài lá thư có nội dung bày tỏ thái độ không đồng ư của người viết đối với số chính sách của đảng và nhà nước, được gởi ra từ trong nước. Các tác giả của những lá thư đó tuy khác nhau ở tên họ, địa chỉ, nhưng thường kư chung dưới một tên gọi là "các cựu chiến binh lăo thành". Những lá thư như thế chắc không phải được viết bằng máy vi tính hiện đại như tôi đang sử dụng mà có lẽ bằng những cây viết có ruột cao su mềm, bơm mực bằng tay được cất giữ kỹ lưỡng từ lâu lắm. Nh́n vào tên tuổi và chức vụ, tôi biết các cụ thuộc thế hệ Điện Biên và không ít là người của thời mùa thu 1945 c̣n lại. Địa chỉ của các cụ tuy khác nhau nhưng giống như lá thư tập thể, phần đông sống trong các khu nhà cũng có tên chung là Khu Tập Thể.

 

Trong suốt bảy, tám mươi năm của đời ḿnh, các cụ sống, làm việc và được rèn luyện để thừa hành chỉ thị của cấp trên chứ không quen đặt vấn đề, các cụ tập chịu đựng đau đớn chứ không được phép rên la. Và v́ thế, viết một lá thư đă là một việc khó khăn, gởi lá thư đó đến các cấp đảng và nhà nước trung ương là một can đảm chưa từng nghĩ đến và phổ biến lá thư rộng răi ngoài quần chúng quả thật là một hành động phi thường. So với việc ôm ngọn tầm vông vót nhọn lao vào pḥng tuyến thực dân trong những ngày c̣n trai trẻ, hành động viết lá thư gởi lên trung ương đảng ngày nay có thể c̣n nguy hiểm hơn nhiều. Những kẻ mà các cụ lo sợ sẽ trả thù, dèm pha, nghi kỵ không phải bọn thực dân mắt xanh, mũi lơ dễ phân biệt mà là những người cùng tổ chức, cùng đảng, cùng gọi nhau là đồng chí và ngay cả những kẻ c̣n thuộc hàng con cháu các cụ.

 

Tôi h́nh dung cái đêm các cụ tập trung nhau ở nhà một người nào đó trong nhóm để thảo lá thư, chắc phải bí mật, hồi hộp hơn cả giờ ra trận và xúc động hơn cả đêm cuối cùng bên cạnh vợ con trước ngày lên đường đi Lai Châu, Hà Nam, Hà Bắc không biết có ngày trở lại, của mấy chục năm về trước. Các cụ lo sợ là phải. Những kẻ mà các cụ chống đối ngày nay, không những biết rơ nơi ăn chốn ở mà c̣n là người quyết định các chỉ tiêu lương thực, thực phẩm, tiền hưu trí, phụ cấp nhà ở của các cụ. Những kẻ đó không những nắm quyền sinh sát cho đoạn đời ngắn ngủi c̣n lại của các cụ mà cũng có luôn cả quyền xóa bỏ quá khứ mà các cụ vô cùng trân quư.

 

Tôi nghĩ đến các cụ và thương các cụ rất nhiều. Không phải sau khi đọc những lá thư được gởi từ các khu nhà tập thể, không phải sau khi đă ra được nước ngoài mà ngay cả từ thời mới lớn tại miền Nam trước 1975, h́nh ảnh các cụ vẫn rất đẹp trong ḷng tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ tất cả những người Việt Nam sống bên kia sông Bến Hải là cộng sản, trái lại tin rằng ẩn khuất sau đám mây đen độc tài đảng trị đó vẫn có những tấm gương sáng của ḷng yêu nước chân thành. Dân tộc nào trên thế giới cũng yêu thương và gắn bó với đất nước của họ, nhưng tôi vẫn có một niềm tin chủ quan rằng con người Việt Nam nặng ḷng với quê hương đất nước nhiều hơn các giống dân khác. Bởi v́ không có một đất nước nào, ở đó, mỗi ngọn núi, mỗi ḍng sông, mỗi con đường đă được ǵn giữ bằng một giá đắt như ông bà chúng ta đă phải hy sinh trong suốt ḍng lịch sử.

 

Những ngày c̣n ở trung học, tôi học thuộc ḷng bài thơ "Nhà tôi" của Yên Thao và "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm. Cả hai bài thơ được đăng trong tạp chí Bách Khoa ở Sài G̣n, trong đó có những câu làm tôi rơi nước mắt:

Đêm buông xuống ḍng sông Đuống
- Con là ai?
Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi t́nh mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng.
 ("Bên kia sông Đuống", Hoàng Cầm)

hay là:

Đêm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh sao lưa thưa
Ống quần nâu đă vá mụn giang hồ
Chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi đấy bên trại thù quạnh quẽ
T
rông im ĺm như một nấm mồ ma
Có c̣n không! Em hỡi mẹ tôi già?
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa.
("Nhà tôi", Yên Thao)

 

Tôi thường tự nhủ, nếu được sinh ra cùng thời với các cụ và có đủ can đảm, con đường đẹp nhất mà tôi chọn có lẽ cũng là con đường mà các cụ đă đi:

 

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy 
("Đất nước", Nguyễn Đ́nh Thi)

 

Sau 1975, nghe bài hát "Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tư viết trong thời chống Pháp, tôi cũng vô cùng cảm động: "Tấm áo ấy bấy lâu nay con quư hơn cơm gạo, người mẹ nghèo trong áo rách, áo rách nên thương, áo rách nên thương, các con ra đi đă mấy chiến trường, mang theo cả t́nh thương của mẹ." Trong h́nh ảnh nghèo nàn, đau xót đó đă toát lên một vẻ đẹp thiêng liêng của t́nh mẹ và t́nh đất nước.

 

Năm ngoái, trong một buổi thảo luận với các bạn trẻ, t́nh cờ trùng hợp với thời gian Việt Nam đang kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ, một bạn đă hỏi cảm tưởng của tôi đối với những người ngă xuống trên pḥng tuyến Điện Biên Phủ trên đường tấn công vào sào huyệt của tướng De Castries. Tôi đă trả lời người bạn trẻ rằng tôi rất có cảm t́nh và kính trọng những người chết trên đường đánh vào bộ chỉ huy của tướng De Catries.

 

Trả lời như vậy không phải v́ tôi chưa suy nghĩ kỹ. Thật ra, từ khi biết nghĩ về đất nước, tôi đă suy nghĩ về cái chết của những người Việt Nam đó rất nhiều.

 

Khi nói cảm t́nh với những người chết khi tấn công vào Điện Biên Phủ không phải tôi không biết rằng trong thời điểm đó đă có mặt một chính phủ khác, h́nh thành như kết quả của hiệp ước Hạ Long 1948 và sau đó trong hiệp ước kư kết tại điện Élysée giữa Bảo Đại và Tổng Thống Pháp Vincent Auriol năm 1949. Theo nội dung chính của cả hai hiệp ước, Pháp công nhận "nền độc lập" của Việt Nam. Thật ra, đó chỉ là chiếc bánh vẽ mà dân Việt Nam chẳng thể nào ăn được. Sử gia Phạm Văn Sơn ở miền Nam đă viết trong Việt sử toàn thư: "Nhưng sau 80 năm sống dưới quyền Pháp, nhân dân Việt Nam đă hiểu rơ người Pháp quá nhiều, lại nh́n vào Bảo Đại và thành phần chính của chính phủ Bảo Đại, nhân dân cũng hết tin tưởng, v́ vậy mà cây bài quốc gia tức cây bài Bảo Đại không có hiệu quả." Là một sĩ quan cấp đại tá, phụ trách pḥng quân sử thuộc Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng Ḥa, lẽ ra ông phải viết khác đi cho thích hợp với bối cảnh chính trị Việt Nam sau hiệp định Geneva, nhưng không, sử gia Phạm Văn Sơn đă có một cái nh́n sáng suốt. Ông viết từ trái tim yêu nước và viết cho hàng trăm năm sau chứ không phải để thoả măn các nhu cầu chính trị nhất thời. Đại tá Phạm Văn Sơn, người đă chết trong trại tù Vĩnh Phú năm 1980, đă ví các nỗ lực của thực dân nhằm tiêu diệt ḷng yêu nước bền bỉ của nhân dân Việt Nam chẳng khác ǵ là việc "cầm dao chém nước", chẳng thể nào chẻ được ḷng yêu nước của người Việt Nam.

 

Khi nói cảm t́nh với những người lính chết trên đường tấn công vào Điện Biên Phủ không có nghĩa tôi không biết rằng ông Hồ Chí Minh là một cán bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản và những người lănh đạo phong trào Việt Minh phần lớn là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương. Lenin đă khẳng định cuộc cách mạng chống thực dân là một bộ phận của cách mạng xă hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới và cũng chính Lenin cho rằng các nước thuộc địa lạc hậu có khả năng nhảy vọt lên chủ nghĩa xă hội mà không cần thông qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Ngay từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tư tưởng đó luôn luôn là tư tưởng chỉ đạo cho cuộc cách mạng xă hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

 

Tôi kính trọng và quư mến những người đă ngă xuống, đơn giản bởi v́ họ là những người yêu nước. T́nh yêu họ dành cho nơi chôn nhau cắt rốn là một t́nh yêu thuần khiết và vô cùng trong sáng. Ḷng yêu nước của họ không nhập từ đâu cả nhưng được hun đúc bằng xương máu từ nhiều ngàn năm lịch sử, lớn lên trong lời dạy bảo của cha và lời ru của mẹ.

 

Trong cuộc phỏng vấn ngày 26 tháng 2 năm 2005 của đài BBC, nhà thơ Hoàng Cầm cũng đă xác nhận: "Lúc ấy tôi c̣n trẻ (đỗ tú tài năm 1940), tham gia cách mạng là v́ tinh thần yêu nước chứ cũng không biết ǵ về các chủ nghĩa. Tôi viết các vở kịch mang chất lịch sử, xuất phát từ ḷng yêu nước." Một người như nhà thơ Hoàng Cầm, có bằng tú tài, một tŕnh độ giáo dục được xem là cấp cao của thời bấy giờ, vẫn không biết ǵ về chủ nghĩa Mác-Lê th́ hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu tâm hồn nông dân chơn chất Việt Nam khác làm sao hiểu được thế nào là duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, giá trị thặng dư, thời kỳ quá độ và họ chắc cũng chẳng quan tâm đến các ông Các Mác râu xồm hay ông Lê-nin trán hói là ai.

 

Tôi tin tuyệt đại đa số những người đă chết trong cuộc chiến chống thực dân là những người hy sinh cho độc lập, tự do đúng nghĩa. Họ ngă xuống cho thanh b́nh sớm được văn hồi trên quê hương khổ đau và bất hạnh Việt Nam. Họ ngă xuống trong nụ cười, bởi v́ ngay cả khi nhắm mắt ĺa đời họ vẫn tin rằng họ đang chết cho Tổ Quốc, đang chết cho tương lai dân tộc như tổ tiên họ đă chết trên sông Bạch Đằng, trên bến Chương Dương, trong đầm Dạ Trạch, giữa núi rừng Yên Thế. Họ chết đi trong giấc mơ tuyệt đẹp về một đất nước tương lai, một đất nước của Hùng Vương thương yêu và giàu mạnh. Tuyệt đại đa số, nếu không muốn nói rằng tất cả, đều tin như thế.

 

Tôi không tin một người Việt Nam nào có thể lấy thân mạng ḿnh lấp vào ổ súng thực dân hay lấy thân ḿnh làm đ̣n kê để khẩu pháo khỏi rơi xuống hố sâu chỉ để mong một ngày đất nước Việt Nam sẽ biến thành một thiên đường, ở đó con người làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, muốn ǵ có nấy như đă khẳng định trong kinh điển Mác-Lê. Không! Những nông dân Việt Nam yêu nước từ bỏ ruộng vườn ra đi theo tiếng gọi của non sông như một thời vang vọng từ Chí Linh, Lam Sơn, Bạch Đằng, từ bốn ngàn năm lịch sử. Họ đă từng ôm lấy nhau mà hát "V́ nước, ruộng nương anh gửi bạn thân cày, gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay... Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, miệng c̣n cười buốt giá chân không giày, thương nhau, tay nắm lấy bàn tay". Không ai gần gũi với đất nước hơn là nông dân và cũng không ai yêu đất nước hơn người nông dân. Cả đời họ gắn liền với bờ ao, ruộng lúa. Họ đánh Tây chỉ v́ một lư do đơn giản, để được sống thanh b́nh, tự do trong căn nhà tranh, bên bờ ao thửa ruộng của họ. Ư nghĩa của quê hương trong ḷng người nông dân trong sáng như thế đó.

 

Và cho dù những người nông dân áo vải thô đó có tham gia vào đảng cộng sản đi nữa, việc tham gia của họ cũng chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn mà thôi. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long họ sẽ gia nhập Dân xă Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Trong ư thức đơn sơ của người dân Việt, các tổ chức chống thực dân là những chiếc phao họ bám để sang bờ độc lập. Người dân hiền lành ngày đó làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt cuộc đời họ cho đến ngày nay.

 

Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam nhưng tôi nh́n lịch sử từ hướng con tim và bằng lư trí chứ không nh́n từ điện Kremlin, White House, khu Trung Nam Hải Bắc Kinh hay bằng những kiến thức và lư luận một chiều. Tôi học để hiểu rằng cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp là cuộc chiến tranh chính nghĩa. Đó là cuộc chiến giữa dân tộc Việt Nam bị trị chống lại thực dân Pháp bóc lột và nô lệ đất nước chúng ta. Cuộc chiến đó bắt đầu khi tiếng đại bác của tướng thực dân Rigault de Genouilly bắn vào Đà Nẵng năm 1859 chính thức phát động cuộc chiến tranh xâm lược cho đến khi chúng rút ra khỏi Việt Nam vào năm 1954. Trong gần một trăm năm đó, máu của hàng triệu người Việt Nam đă đổ xuống khắp ba miền, từ ruộng lúa Tiền Giang đến châu thổ sông Hồng, từ Côn Đảo đến Réunion, từ dải Trường Sơn trùng điệp đến núi rừng âm u Việt Bắc. Bên tai tôi như vẫn c̣n nghe tiếng hô "Việt Nam vạn tuế" của Nguyễn Thái Học, lời dặn ḍ của Phan Chu Trinh, tiếng gào thống thiết của Nguyễn An Ninh, lá thư viết bằng máu của Phan Bội Châu, giọng thơ hùng tráng của Lư Đông A, tiếng sóng Châu Giang vỗ vào thân xác của Phạm Hồng Thái. Người yêu nước bằng t́nh yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ư thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lăng quên.

 

Khoảng cách giữa thương nước và hại nước không phải là một chiếc cầu dài mà trái lại, rất ngắn và mỏng như sợi tóc. Chiếc cầu nhận thức đó ngắn đến nỗi nếu chỉ bước thêm một bước nữa, một người yêu nước sẽ tức khắc trở thành kẻ bán nước. Đó là thực chất của cuộc chiến gọi là "Chống Mỹ cứu nước" sau 1954 đến 30 tháng 4 năm 1975.

 

Nhiều người nh́n cuộc chiến Việt Nam như nh́n vào màu nước biển. Tùy theo thời gian và chỗ đứng của mỗi người, nước biển có một màu sắc khác nhau. Nhưng màu thật sự của giọt nuớc không thay đổi dù sáng, trưa, chiều, tối, trong bờ hay ngoài khơi.

 

Tương tự, cuộc chiến Việt Nam đă được gọi bằng nhiều tên gọi: nội chiến, chống đế quốc, ủy nhiệm, đánh thuê v.v, nhưng bản chất của cuộc chiến vẫn chỉ là một mà thôi. Như vậy, bản chất của cuộc chiến từ 1954 đến 1975 là ǵ?

 

Trong các định nghĩa về chiến tranh, tôi vẫn đồng ư với định nghĩa của Karl von Clausewitz nhất, "chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những phương tiện khác" (War is the continuation of politics by other means). Và từ định nghĩa đó, nh́n lại cuộc chiến Việt Nam, thay v́ đi t́m nhăn hiệu quốc gia nào trên từng vỏ đạn, trên mỗi chiến xa hay thử nghiệm DNA, màu da, chủng tộc của từng xác chết, có lẽ chúng ta phải t́m hiểu nguyên nhân và mục đích của cuộc chiến đă xảy ra trên đất nước ḿnh, không phải trong thời chiến mà ngay cả trước và sau cuộc chiến.

Nói về mục đích chiến tranh, khoảng năm 1970, tôi có đọc một cuốn sách của giáo sư Nguyễn Văn Trung

 Nói về mục đích chiến tranh, khoảng năm 1970, tôi có đọc một cuốn sách của giáo sư Nguyễn Văn Trung. Tôi không nhớ chính xác tên của tác phẩm nhưng nhớ rất rơ giáo sư đă dành nguyên trang đầu để viết mỗi một câu: "Nói cho cùng, cuộc chiến Việt Nam vẫn là cuộc chiến tranh ư thức hệ". Câu nói đó kích thích sự t́m hiểu của tôi rất nhiều về bản chất và mục đích của cuộc chiến Việt Nam mà các bên tham dự đang nhắm đến.

 

Ở miền Nam, chúng tôi lớn lên với nhiều câu hỏi và rất ít câu trả lời, trong khi đó, thế hệ trẻ miền Bắc lớn lên có tất cả câu trả lời chờ sẵn mà không cần đợi hỏi. Nếu ai hỏi một trăm em, hay thậm chí một ngàn em học sinh Việt Nam tốt nghiệp phổ thông về lư do của cuộc chiến tranh được mệnh danh là "giải phóng miền Nam", tôi tin người hỏi sẽ nhận về những câu trả lời giống hệt nhau, đó là "chống giặc Mỹ xâm lược để thống nhất đất nước". Giặc Mỹ xâm lược ? Phải chăng v́ "giặc Mỹ xâm lược" Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Tây Đức nên ngày nay các quốc gia này mới trở nên những nước giàu có nhất nh́ trên thế giới. Thống nhất đất nước? Vâng, không một người Việt Nam nào muốn cắt đi phần da thịt của ḿnh hay muốn đất nước ḿnh phải chia đôi, chia ba, nhưng nếu để đổi sự thống nhất bằng sinh mạng nhiều triệu người dân vô tội, nhiều trăm ngàn người Việt Nam vẫn c̣n đang mất tích, hàng vạn cô gái Trường Sơn đă đánh mất tuổi xuân trong rừng sâu núi thẳm, một nền kinh tế đi sau nhân loại hàng thế kỷ, phải chăng là một giá nên đổi ? Độc ác như Kim Nhật Thành nhưng sau cuộc thử lửa 1950 đă không c̣n nuôi giấc mộng xâm chiếm Nam Hàn lần nữa. Bạo chúa cỡ Erich Honecker cũng chưa bao giờ dám nghĩ chuyện phiêu lưu thống nhất nước Đức bằng con đường vơ lực.

 

Trước 1975, tôi nghe rất nhiều về quốc gia, cộng sản nhưng ai cũng bận đánh nhau, chẳng bao nhiêu người dành thời gian nghiên cứu kỹ càng và phổ biến rộng răi về thế nào là quốc gia và thế nào là cộng sản. Một số không ít các nhà lănh đạo miền Nam từng là sĩ quan trong quân đội Pháp hay đă phục vụ trong chính quyền thuộc địa Pháp nên cũng không thích nghe quá nhiều những mẩu chuyện khơi dậy ḷng yêu nước chống thực dân và họ cũng không đặt nặng việc xây dựng một hệ ư thức quốc gia dân tộc nào hoàn chỉnh. Một số người được gọi là trí thức trong xă hội miền Nam th́ xem việc chống chính phủ, chống Mỹ là một thời trang, mặc dù nhiều trong số họ ăn lương Mỹ. Xă hội miền Nam trước 1975 hẳn nhiên không phải là một xă hội lư tưởng. Miền Nam có tham nhũng, có cậy quyền, có lũng đoạn, có độc tài, có tham ô, có lăng phí, nói chung có đủ các biến chứng tiêu cực của một đất nước vừa thoát ra khỏi ách phong kiến và thực dân. Nhưng đồng thời miền Nam cũng có các điều kiện và nhân tố cần thiết để xây dựng một xă hội dân chủ pháp trị. Giống như việc trồng cây ăn trái, những hạt mầm dân chủ cũng phải được gieo, phân bón, tưới nước, chịu đựng nắng mưa, gió băo, truớc khi đâm chồi, nẩy lộc, đơm hoa và kết trái. Mặc dù đang chập chững trên hành tŕnh dân chủ hóa như thế, không có nghĩa là hàng triệu người lính miền Nam chiến đấu không lư tưởng. Một người lính nghĩa quân gác chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt sập cũng là một biểu hiện hùng hồn của lư tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng, là vẻ đẹp của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống c̣n mà người lính nghĩa quân phải làm cho bằng được. Lư tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng vĩ đại bao nhiêu cũng bắt nguồn từ những h́nh ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ư nghĩa đó.

 

Trong suốt 20 năm từ sau 1954, nhân dân miền Nam, không có một con đường nào khác hơn là phải chiến đấu để bảo vệ quyền được sống trong một xă hội họ đă chọn lựa. Phát xuất từ chính sách chia để trị của thực dân và hoàn cảnh trưởng thành, không ít nhà lănh đạo miền Nam đă bắt đầu cuộc đời chính trị hay binh nghiệp trong hàng ngũ Pháp, nhưng giống như hàng triệu người dân miền Nam khác, họ đă chung lưng nhau chiến đấu để bảo vệ quyền được nói những điều họ nghĩ, quyền được sống nơi họ muốn sống, quyền đi nhà thờ, đi chùa họ chọn, quyền được hát bài hát họ thích. Dù quá khứ khác nhau nhưng họ đều ngă xuống như những người yêu nước. Trong trái tim của nhân dân Việt Nam, Phạm Hồng Thái, Lương Ngọc Quyến hay Đội Cấn, Đội Cung đều là những anh hùng dân tộc. Đừng quên, những người bị gọi là "Ngụy", là "theo Tây", "theo Mỹ" kia không chỉ phải bảo vệ miền Nam mà c̣n phải chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn để giữ từng cù lao, từng khoảng không gian của vùng trời, từng hải lư của vùng biển Việt Nam. Hạt cát Hoàng Sa vẫn c̣n đỏ màu máu của họ.

 

Thế nhưng, số phận các quốc gia nhược tiểu th́ ở đâu và thời nào cũng vậy, nếu tương hợp với quyền lợi của đế quốc th́ sống và ngược lại th́ chết. Bởi v́ mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam rất tương hợp với quyền lợi của Liên-Xô và Trung Quốc nên "vinh quang này thuộc về Đảng Lao động Việt Nam" như Lê Duẩn nói, trong lúc nhiều cấp lănh đạo miền Nam phải tự sát hay sắp hàng đi vào tù bởi v́ quyền lợi của nhân dân miền Nam (chiến đấu để bảo vệ và xây dựng các nền móng tự do dân chủ riêng ở miền Nam) không c̣n tương hợp với sách lược thế giới của tổng thống Richard Nixon. Thật ra, không phải đợi đến khi tổng thống Nixon thay đổi đường lối chiến tranh mới dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam, chính sách của Mỹ tại Việt Nam đă thất bại ngay từ trong trứng. Đánh nhau với ba nước tiên phong và hùng hổ nhất trong khối cộng sản quốc tế (Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô) mà chỉ nhằm bảo vệ miền Nam Việt Nam th́ sự thất bại là vấn đề thời gian mà thôi. Danh tướng Đức Erwin Rommel chẳng từng viết "Pḥng thủ là tự sát" đó sao. Trong chiến tranh Đại Hàn, nếu quân đội đồng minh không đổ bộ Ichon, giải phóng Seoul, vượt vĩ tuyến 38, chiếm cả thủ đô B́nh Nhưỡng của Bắc Hàn, mà chỉ lo pḥng thủ miền Nam th́ số phận Nam Hàn chưa biết sẽ ra sao.

 

Sau 1975, chính ông bí thư thứ nhất Lê Duẩn đă xác định cuộc chiến từ sau 1954 đến 1975 là chiến tranh ư thức hệ giữa cộng sản và tự do. Trong diễn văn chào mừng chiến thắng vào đầu tháng 5 năm 1975, ông Lê Duẩn không c̣n che giấu tham vọng nhuộm đỏ cả nước Việt Nam khi tuyên bố: "Vinh quang này thuộc về Đảng Lao động Việt Nam quang vinh, người lănh đạo của giai cấp công nhân, giai cấp tiền phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xă hội". Câu nói "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc..." đă trở thành một trong những câu khẩu hiệu phổ biến nhất trong thời kỳ đó. Câu khẩu hiệu dài ḷng tḥng này đă làm tốn nhiều vải và mực nhất trong những năm mà người dân không có áo mặc sau 1975. Ngoài ra, trong tác phẩm được xem như là kinh điển, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, ông Lê Duẩn cũng nhiều lần khẳng định mục đích cuối cùng của cách mạng tại Việt Nam là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xă hội hiện đại (công nghiệp, nông nghiệp và khoa học kỹ thuật), tạo điều kiện vững chắc cho chủ nghĩa cộng sản khoa học trong tương lai. Nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều tên gọi (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục đích chính trị.

 

Người đọc sẽ thắc mắc, thế th́ công sức của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ nhưng cũng rất vinh quang đó là ǵ?

 

Xin thưa, từ nhỏ tôi được dạy rằng khi giúp đỡ ai th́ đừng cầu ơn phước, v́ giúp người chỉ để mưu cầu lợi lộc riêng tư th́ không phải giúp người mà chỉ là một hành động đầu tư trên sự khổ đau của kẻ khác mà thôi. Từ khi thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương cho đến 1954, giới lănh đạo cộng sản đă chiến đấu trong hàng ngũ người Việt yêu nước, vâng, nhưng mục đích cuối cùng của họ không phải là độc lập dân tộc hay thống nhất đất nước. Ba mươi năm, kể từ 1975, một khoảng thời gian đủ dài và một vết chém đủ đau để nhân dân Việt Nam ư thức ra rằng thống nhất đất nước chỉ là điều kiện tiền đề cho mục đích cộng sản hóa toàn cơi Việt Nam. Hành động đốt sách vở một cách không phân biệt, xóa bỏ mọi tàn tích văn hóa cũ, đổi tiền năm bảy lượt, bỏ tù hàng trăm ngàn người, đày đi kinh tế mới hàng triệu đồng bào là những bằng chứng hiển nhiên đến mức không ai c̣n có thể chối căi được. Nếu chỉ đánh Mỹ để giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, tại sao họ đă thi hành các biện pháp đầy đọa, trừng phạt, tẩy năo vô cùng thất nhân tâm như đă làm sau 1975 đối với chính đồng bào máu mủ của ḿnh?

 

Trong quan điểm đó, Đảng Cộng sản không có công trạng hay ơn nghĩa ǵ với dân tộc Việt Nam cả. Họ chỉ là những người cho vay lấy lăi nặng bằng máu xương của bao nhiêu thế hệ Việt Nam. Hăy so sánh cách sống của những ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên trung ương đảng và cuộc đời của những người được gọi là chủ nhân đất nước đang lay lắt dưới gầm cầu Long Biên để thấy cái mức lăi mà dân tộc ta phải trả cho Đảng Cộng sản Việt Nam cao đến bao nhiêu. Bất cứ người Việt Nam có một chút kiến thức kinh tế, chính trị và nh́n lịch sử một cách khách quan phải công nhận rằng, nếu không có ư thức hệ cộng sản, Việt Nam không những vẫn là một dân tộc thống nhất mà c̣n có đời sống tự do, dân chủ, nhân bản và giàu mạnh gấp trăm lần hơn hôm nay.

 

TRẦN TRUNG ĐẠO

(Sưu tầm liên mạng chuyển)

 

website counter