BÀI VIÊ'T 4

Home
CHUYÊ.N THIÊ`N
CHUYÊ.N THIÊ`N (tt)
VA(N
VA(N (tt)
VA(N 1
VA(N 2
Va(n 3
VA(N 4
VA(N 5
VA(N 6
VA(N 7
VA(N 8
VA(N 9
THO'
CHUYÊ.N LA.
TIÊ?U LUÂ.N
BÀI VIÊ'T
BÀI VIÊ'T (tt)
BÀI VIÊ'T 1
BÀI VIÊ'T 2
BÀI VIÊ'T 3
BÀI VIÊ'T 4
TA`I TU'?
VA(N TÊ'

THẰNG CON LANG BẠT

 

THẰNG CON LANG BẠT

(Hà Huyền Chi)

 

 

Ở thời điểm 1954, cả Hà Nội bừng lên cơn sốt với nhiều dấu hỏi lớn: Di cư vào Nam hay ở lại với Việt Cộng ?

 

Tuổi 16 cũng đang bừng lên cơn sốt vỡ da: Ta sẽ làm ǵ đời ta? Ở lại cùng đói nghèo hay phiêu lưu t́m một chân trời mới?

 

Vào một buổi sáng cuối tháng 3, gă trai 16 ngờ nghệch là tôi đă làm một việc phi thường. Gă viết nguệch ngoạc hai câu thơ của ai đó lên trang giấy học tṛ:

"Ôm mộng ra đi bàn tay trắng

Chí lớn không về bàn tay không."

 

Gă phóng cây bút ng̣i lá tre ghim mảnh giấy lên mặt bàn viết, và khăn gói quả mướp ra đi cùng thằng bạn học. Gă cố ư đảo một ṿng qua khu chợ chồm hổm để nh́n người mẹ lần cuối. Gă không dám lại gần, bởi có thể mẹ gă sẽ nh́n được nét thay đổi lớn trên gương mặt thằng con ngờ nghệch ấy. Bằng giác quan thứ sáu.

 

Chợ nhà nghèo, người bán nhiều hơn kẻ mua. Người mẹ lam lũ ngồi bó gối sau những thúng mủng, quang gánh. Hắn bậm môi thầm nói lời chia biệt:

-"Mẹ ơi ! Con đi đây. Mẹ đừng buồn nhé mẹ ! Con sẽ cố gắng sống cho ra một con người. Con hứa với mẹ như thế .."

 

Khi thằng con lêu bêu trên bờ biển Nha Trang, chờ đợi một cái ǵ không rơ tên, không rơ mặt ở tương lai gần, ước vọng xa th́ người mẹ  khốn khổ kia đă gần mù v́ khóc. Khóc v́ thương thằng con ngờ nghệch. Khóc tới khô lệ. Khóc tới chảy máu mắt tội t́nh.

Và đó cùng là lần cuối cùng tôi nh́n thấy mẹ. Cho đến khi người qua đời với bệnh đau dạ dày cấp tính.

 

Khi thầy tôi tê liệt nằm một đống với cứt đái, th́ mẹ tôi cần chút rượu trắng dằn cơn lợm giọng lúc qua bữa. Cũng chỉ là những cút rượu ngang cháy cổ ấy thôi đă gây thành chứng nghiện, và những cơn đau dạ dày. Chọt một cái, không nhâm nhi, không thức nhắm. Cữ rượu đầy đọa mẹ tôi ở cơn đau ngày một tăng dần, và cũng ở cảnh bần hàn không đủ tiền ăn, nói ǵ mua rượu. Mẹ tôi là người suốt đời cung cúc tận tụy lo  chồng con nào biết đến thú vui riêng. Vậy mà phải nhín đầu này, xén đầu kia để có tiền mua rượu.

 

Khi thầy tôi mất, cữ rượu vẫn không mất. Chọt một cái, mẹ tôi đă như một người nào khác. Mẹ gọi tên thằng con lang bạt tội t́nh. Rượu chảy theo nước mắt ở Mậu Thân, ở Lam Sơn, Hạ Lào ..

-"Biết nó c̣n sống nổi hay không hả giời?"

 

Sau tháng Tư, 1975 tôi đă có những thư từ và tiếp tế đều đặn bằng tiền khô. Kèm theo những lời hứa hẹn sẽ trở về thăm mẹ một ngày không xa. Mẹ tôi hẳn vui lắm, khi ấy. Những bữa rượu đă đều đặn, thoải mái hơn và cơn đau dạ dày cùng tăng trưởng mạnh hơn. Mẹ dấu, nhưng lũ em tôi đă phát hiện, và đều "nhất trí" rằng liều thuốc hay nhất, công hiệu nhất là năn nỉ mẹ tôi đừng uống rượu nữa. Vô ích. Thiếu rượu, mẹ như người chết rồi. Đúng hơn là một thây sống biết đấm ngực nằm vạ, biết chửi rủa lũ con bất hiếu.

 

Từ Mỹ, tôi cố khuyên lũ em, hăy để mẹ yên vui nốt những ngày già. Uống hay kiêng cũng vậy thôi. Đừng làm cho mẹ buồn, tội nghiệp. Những chai thuốc bổ gửi về được tôi đổ đầy rượu mạnh. Hẳn là mẹ tôi chăm uống thứ "thuốc bổ" ấy hơn. Và thương thằng con lang bạt chí hiếu này hơn.

 

Những lần chậm tiền, mẹ tôi đă biết đem mấy cái thư ra ngoài quán dùng như một tín vật:

-"Cho một cút đi ông chủ. Thằng con tôi sắp gửi tiền về rồi đó. Không tin ông đọc thử coi."

Khi lănh tiền, mẹ tôi cầm cả nắm vung vẩy khoe cùng xóm:

-"Tao có tiền rồi. Nhiều lắm. Mả mẹ đứa nào khinh tao nghèo chứ ?"

Tôi không nghĩ rằng mẹ khoe tiền, khi ấy. Cái mẹ tôi nắm được trong tay và muốn khoe chỉ là một chút h́nh ảnh thằng con lang bạt bên trời.

 

Vợ chồng tôi phải lănh việc chùi dọn tư sở, ban đêm, để có thêm tư tiền tươi mua thuốc bệnh, và "thuốc bổ" biếu mẹ. Nhưng rồi mẹ tôi cũng không thể ép ḷng chờ thằng con lang bạt được lâu hơn. Mẹ khóc thầm ở những lúc cuối đời. Sinh lực c̣m cơi mẹ, theo ḍng lệ thương tủi ứa ra không ngớt. Mẹ muốn đi từ tháng Chạp, nhưng vẫn ráng chờ thằng con, tới Tết, rồi Giêng, Hai. Mẹ thảm thiết gọi tên thằng con lang bạt nhiều lần trước khi tắt thở. Khi ấy, ngôn ngữ loài người chỉ c̣n thu gọn lại bằng một chữ, tên người. Tên thằng con lang bạt.

 

HÀ HUYỀN CHI

 

Mời nghe tâm bút của HHC qua giọng diễn cảm của Hoàng Lan Chi .

 

http://www.vietnam-on-line.com/ct/lanchi/thangconlangbat.mp3

 

From Sony Tran :


From Sony Tran :

 

Văn hóa, văn chương, ngôn từ Việt Nam ngày nay


NGÔN SỬ


Hắn đem gia đ́nh sang du lịch Paris. Khi hắn vừa tốt nghiệp C Nhân Văn Khoa th́ miền Nam thay đổi chế độ, mọi người trở thành thất nghiệp. Hắn may mắn thừa hưởng một miếng đất rất rộngngay ngoại ô Sài G̣n, hắn canh tác miếng đất đó, trồng rau quả, nuôi vịt, mở một quán phê nhỏ để sống qua ngày. Th́ giờ rảnh rỗi hắn nghiên cứu về một môn học hắn gọi môn "ngôn sử".

Hắn nói ngôn sử tiếng Pháp philologie, tôi chẳng hiểu cả. Hắn giải thích đó môn học nghiên cứu lịch sử, cấu trúc cách tạo thành của ngôn ngữ. Tôi vẫn tịt. Năm 1980, hắn nhờ tôi t́m mối bán nhà đất lấy mười lượng vàng vượt biên. Tôi t́m không ra, hắnlại. Không ngờ như thế lại may. Gần đây nhà đất vùn vụt lên giá, hắn bán một phần khu đất trở thành triệu phú đô la. Hắn bảo tôi :


- Bôn ba không qua thời vận. Mày xông xáo như thế cuối cùng lại chẳng ra so với tao. Cái nhà mày hơi bị nhỏ đấy. Tao một sản phẩm của tệ đoan hội. Chúng ăn hối lộ buôn lậu, nhiều tiền bẩn quá phải mua nhà đất để tẩy, nhờ thế tao giàu sụ. Tao bán hơn năm ngàn mét đất được vài ngàn cây, sau khi
lịch sự mất vài trăm cây.


- Lịch sự ?


- À, đó một tiếng mới - hắn cười to. Bây giờ người ta không nói đút lót hay đưa hối lộ nữa, xưa rồi ! Bây giờ người ta nói "lịch sự". Lịch sự trở thành một động từ. Làm cái cũng phải lịch sự mới xong; không biết lịch sự th́ không sống được. Tao nhờ một thằng bạn lanh lẹ lịch sự giùm mới bán được miếng đất đấy. Thằng bạn nhờ đó được một trăm cây
tiền lùi.


- Tiền lùi ?


- Đó cũng một từ mới nữa. "Lùi" nghĩa tiền kẻ được lịch sự bớt cho, c̣n gọi tiền lại quả, cũng một tiếng thời thượng mới. đ̣i năm trăm cây nhưng lùi cho một trăm cây.

Hắn tặng vợ tôi một cái túi xách tay Louis Vuiton nói đó một
túi mố. Hắn giải thích "mố" cũng tiếng mới xuất hiện, dùng thay cho "thời trang", hay "mốt" trước đây. Hắn cho tôi một -mi lụa nói đó lụa thực chứ không phải lụa đểu.

 

Tôi hỏi lụa đểu th́ hắn phá lên cười :


- Mày lỗi thời quá rồi. Bây giờ trong nước người ta không nói "giả" nữa nói "đểu". Hàng đểu, bằng đểu, rượu đểu, thuốc đểu.

 

Tôi, sực nhớ ra hắn một nhà ngôn sử, bèn hỏi hắn:


- Thế mày nghĩ về những từ mới này ?


Hắn bỗng trở thành nghiêm trang, trầm mặc một lúc rồi nói :


- Ngôn ngữ của dân tộc nào cũng gắn liền với lịch sử. Cái thường trực lâu dài cũng trở thành ám ảnh rồi đi vào ngôn ngữ. Mày thử xem, ngôn ngữ của nước nào cũng xoay quanh hai từ "" "", être et avoir, to be and to have. Người Việt th́ không cả cũng chẳng cả, chỉ cái thân phận lệ, bị bóc lột đói triền miên, thế động từ căn bản của tiếng Việt "ăn".


Thắng bại th́ gọi ăn thua, thằng nào thắng th́ ăn, thằng nào thua th́ đói; sinh hoạt nghề nghiệp th́ gọi làm ăn, vợ chồng ăn ở, ăn nằm với nhau, nói chuyện ăn nói, rồi ăn ư, ăn ảnh, ăn khớp... Ngay cả lúc chửi nhau cũng cho ăn cái này cái kia, rủa nhau đồ ăn mày, ăn nhặt, ăn cắp, ăn giật. Cái cũng ăn cả đói quanh năm, lúc nào cũng bị miếng ăn ám ảnh. Bây giờ cũng thế, cái cũng đểu cáng cả. Chính quyền đểu, nhà nước đểu, nhà trường đểu .. Cái cũng đểu cả nên "đểu" hiện diện một cách trấn áp qua ngôn ngữ.

 

Hắn dừng lại một lúc rồi nói tiếp :


- Nhân loại tiến triển qua các thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt. Chúng ta c̣n
thời kỳ đồ đểu. Nước ḿnh đangthời kỳ đồ đểu đấy.

 

 

SONY TRẦN sưu tầm

(Vntvnd chuyển)

THƠ BÙI GIÁNG

 

THƠ BÙI GIÁNG

và TUỔI TRẺ LANG THANG TRÊN HÈ PHỐ SÀI G̉N.

(Thích Phước An)

 

 

Vào khoảng đầu năm 1973, Bùi Giáng dọn về ở luôn trên lầu 3, thuộc khu nội xá Viện đại học Vạn Hạnh ở đường Trương Minh Giảng. Dù đă đến Sài G̣n trước đó nhiều năm, nhưng chỉ khi được ở gần Bùi Giáng th́ tôi mới có dịp biết nhiều hơn về những con đường phố ở Sài G̣n.

 

Có lẽ, cũng như hầu hết những người trẻ tuổi thời bấy giờ, Sài G̣n đối với tôi có sức quyến rũ lạ thường. Dường như chính từ thành phố ấy, mà tuổi trẻ của tôi mới cảm nhận được một cách mông lung rằng, có một mùa xuân tràn đầy hương sắc trên cuộc đời này, mà tuổi trẻ của tôi vẫn muốn đưa tay vói bắt, nhưng chưa được, hay có lẽ sẽ chẳng bao giờ được. V́ có bao giờ ta đưa tay bắt được một tia nắng mong manh trong buổi chiều xuân bao giờ đâu?

 

Chạy đi em! Và bắt vội giùm cho

Ta em nhé, ta chờ tay em bắt

Giùm chút nắng chiều ngọn cây lay lắt

Nắm và cầm đưa lại giúp cho ta

(Mưa nguồn)

 

Bài "Những nhành mai" của Bùi Giáng là bài mà dạo đó tôi đă đọc một cách say sưa, v́ đă khơi dậy được tất cả những hoài vọng triền miên của tuổi trẻ tôi:

 

Buồn phố thị cũng xa bay như gió

Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu

Bờ cơi dựng xuân xanh em c̣n đó

Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

(Mưa nguồn)

 

Nhưng Sài G̣n mà tôi thường đi lang thang với Bùi Giáng lại không phải là Sài G̣n dưới cái nh́n của đám đông thiên hạ, nghĩa là với những thị dân lúc nào cũng ăn mặc chải chuốt, tập trung ở các nhà hàng, hoặc nối đuôi nhau đứng đợi mua cho được một vé ciné, mà Sài G̣n ở đây là, tại các hẻm hay những góc phố vắng người. Tại những nơi ấy có các quán cóc bán café và các thức ăn rẻ tiền mà chỉ có giới đạp xích lô hay những người lao động chân tay là thường lui tới. Bùi Giáng hay đến ngồi những quán này, v́ người lao động chân tay ít biết đến ông, v́ ông cũng lam lũ như chính họ. Nhưng điều quan trọng nhất đối với Bùi Giáng vẫn là, những người lao động họ ít khi nói về họ. Tôi biết chắc rằng, Bùi Giáng rất khó chịu khi phải ngồi nói chuyện với những người mà từ lời nói đến cử chỉ lúc nào cũng đạo mạo, lúc nào cũng chứng tỏ cho mọi người biết ḿnh là thế này, ḿnh là thế kia.

 

Dường như mỗi người trong chúng ta, không nhiều th́ ít, đều thích khoác cho ḿnh một chiếc áo thật đẹp, hay tự sửa soạn cho ḿnh một chiếc ghế thật lộng lẫy, để rồi tự cảm thấy thỏa măn khi ngồi vào chỗ ngồi ấy?

 

C̣n thi nhân? Chẳng phải thi nhân là kẻ đă can đảm phá tan tành những công ước giả tạo ấy, để chỉ cho con người thấy được vẻ đẹp mênh mông của cuộc đời đó sao ?

 

Nhưng ta có nên đem chuyện riêng tư của một người cô độc để nói ra đây không ? Theo tôi, th́ chẳng hề có ǵ là riêng tư đối với Bùi Giáng. Tất cả những ǵ có thể gọi là riêng tư, thật ra chỉ có cái đẫy trên vai, trong đó đựng xấp giấy, quyển vở và mấy cây bút để làm thơ trên bước đường lang thang phiêu bạt mà thôi.

 

Có lẽ ít có nhà thơ nào của Việt Nam (trừ Hàn Mặc Tử) đă sống hết ḿnh, sống tận cùng với cát bụi và thơ như Bùi Giáng đă dám sống một cách trọn vẹn như vậy.

 

Và có thể nói rằng, chính từ đời sống như vậy, mà tiếng thơ Bùi Giáng đă ra đời. Qua tiếng thơ đó, Bùi Giáng có quyền khẳng định với chúng ta rằng, không phải cuộc đời này chỉ có thống khổ và bóng tối vây phủ không thôi, mà vẫn c̣n có bầu trời cao rộng nữa, nếu chúng ta c̣n biết ngẩng mặt lên để mà nh́n:

 

Trần gian hỡi! Tôi đă về đây để sống

Tôi đă t́m đâu ư nghĩa của lầm than

Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng

Tôi cúi đầu nh́n mặt đất thấp đen

(Mưa nguồn)

 

Và cuộc đời, với hầu hết chúng ta là săn đuổi để bắt cho được cái mà chúng ta thường gọi là hạnh phúc. Nhưng chúng ta t́m hạnh phúc ở đâu ? Hạnh phúc trong sự tích lũy cho thật nhiều của cải? Hạnh phúc có nghĩa là có nhiều tiện nghi vật chất cho đời sống ? Hay cao hơn một mức nữa là, phải đấu tranh hay nhiều khi phải sát phạt lẫn nhau để có một địa vị nào đó trong xă hội ? Nhưng chắc chắn rằng, những thứ này đều không đem lại hạnh phúc lâu dài, v́ một ngày nào đó không xa, nó sẽ tuột khỏi tầm tay, và sự thống khổ cùng thất vọng sẽ lập tức đến ngay với chúng ta.

 

Nhưng điều tác hại nguy hiểm nhất, theo tôi vẫn là, v́ suốt đời ta cứ chạy theo những h́nh ma bóng quế này, mà trái tim của ta dễ bị bại liệt. Khi trái tim đă bị bại liệt rồi, th́ chúng ta sẽ không c̣n biết rung động trước mọi vẻ đẹp của cuộc đời nữa. Và phải chăng khi con người không c̣n rung động trước cái đẹp, th́ con người sẽ chỉ sống trong ích kỷ, từ ích kỷ đưa đến tàn bạo sẽ không xa mấy ?

 

C̣n thi nhân th́ ngược lại, mỗi một giây phút sống trên đời này, đều là mỗi giây phút thiêng liêng. Vạn vật đối với họ như có linh hồn, và đang cùng với trái tim của họ rung lên bao nỗi chờ mong:

 

Tôi đă gởi hồn tôi biết mấy bận

Cho mây xa cho tơ liễu ở gần

Tôi đă đặt trong bàn tay vạn vật

Quả tim ḿnh nóng hổi những chờ mong

(Mưa nguồn)

 

Và theo tôi, sở dĩ người thi sĩ ấy tự chọn cho ḿnh một đời sống lao đao lận đận như vậy, cũng chẳng có mục đích nào khác hơn là, muốn chia sẻ với con người một chút đau khổ giữa cái khổ lớn lao mà con người đang phải gánh chịu, với hy vọng sẽ đốt lên được ngọn lửa yêu thương mà vốn dĩ đă quá nguội lạnh trên cuộc đời này, như thi nhân đă một lần phát lên đại nguyện:

 

Xin măi yêu và yêu nhau măi

Trần gian ơi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn

Con kiến bé cùng hoa hương cỏ dại

Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn

(Mưa nguồn)

 

T́nh yêu ấy sẽ vượt thắng tất cả. Kẻ nào đă từng cưu mang t́nh yêu đó trong trái tim ḿnh, th́ mai này dù biết rằng ḿnh sẽ chết đi, nhưng t́nh yêu ấy vẫn c̣n nguyên vẹn:

 

C̣n ở lại một ngày c̣n yêu măi

C̣n một đêm c̣n thở dưới trăng sao

Th́ cánh mộng c̣n tung lên không ngại

Nếu trời xanh tay vói kiễng chân cao

(Mưa nguồn)

 

Và khi một kẻ đă sống v́ sự đau khổ của con người th́ đời sống của họ cũng rất giản dị. Họ sống ḥa đồng với những sự vật vô danh và im lặng giữa đất trời. Những sự vật mà chúng ta đă vô t́nh đánh mất giữa đời sống thường nhật. Sở dĩ chúng ta đánh mất, có lẽ tại v́ chúng ta cứ nghĩ rằng nó chẳng giúp ích ǵ cho đời sống quá thực dụng của chúng ta. Nhưng với thi nhân, th́ tất cả đều là thơ, và tất cả đều là mộng:

 

Đường cong có cỏ mọc ven bờ

Cây đứng trong vườn lá chuối tơ

Chó sủa sớm chiều đi qua ngơ

Gà con mất mẹ chạy bâng quơ

(Mưa nguồn)

 

Đời sống th́ giản dị như vậy, nhưng hoài vọng của thi nhân cho cuộc đời th́ lại mănh liệt vô cùng:

 

Sầu một thuở đất ṃn không tiếng nói

Một ngàn năm trăng giải tuyết băng buông

Anh gởi đi ngàn sóng cuộn thác nguồn

Để thấy măi rằng thơ không đủ gọi

 

Vào một buổi trưa hè nóng bức, cũng tại một quán cóc trên vỉa hè gần chợ Trương Minh Giảng của Sài G̣n thời đó. Bùi Giáng đang ăn tô ḿ Quảng (món ăn đặc sản Quảng Nam, cũng là quê của ông). C̣n tôi th́ ngồi nh́n qua lại trên đường phố. Đang ăn, bỗng Bùi Giáng ngừng lại và nói với tôi: "Ta ăn hai ngàn tô ḿ Quảng nữa ta chết".

 

Câu nói chỉ là nói đùa, nhưng đối với tôi th́ không đùa tí nào, v́ tôi nghĩ rằng, câu nói ấy đă vô t́nh thể hiện tất cả nỗi ưu tư dằn vặt của Bùi Giáng về cái chết của chính ông và của tất cả chúng ta, những người đang sống trên mặt đất phù du này nữa.

 

Đă gần 20 năm trôi qua rồi, vậy mà từ giọng nói đến cái nh́n thật xa xôi của Bùi Giáng vào buổi trưa hè năm ấy đến nay vẫn c̣n đọng lại trong hồn tôi. Những khi ngồi nhớ lại những năm tháng đă sống bên Bùi Giáng, cùng với hàng ngàn bài thơ mà ông đă làm trên bước đường lang thang phiêu bạt đó, th́ bài thơ đă tác động mănh liệt nhất đối với tôi, có lẽ vẫn là bài Bùi Giáng viết về cái chết.

 

Có lẽ tôi nghĩ, chúng ta phải tập lân la trú ngụ với cái chết, th́ may ra mới thấy được thế nào là sự thiêng liêng của cái sống chăng:

 

Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết

Đỗ Quang ơi và có lẽ Quyên ơi

Đi ĺa xa xứ sở của mặt trời

Th́ chuyện cũ cũng như từng chưa biết

Tôi chẳng rơ cội nguồn tôi ly biệt

Dấu tiên sa và ngấn tích tiên nga

Bờ giạt bèo hay bến lạnh trôi hoa

Ngày ngóng mộng hay đêm ngờ máu chảy

Xuân thơ dại hay Đông tàn Thu găy

Chút t́nh xưa Đông Á mất đâu rồi

Rồi mai đi về xứ nào chẳng biết

Những người em hăy ở lại bên đời

Nô hay đùa xin cứ mỉm hai môi

(Sa mạc thác tiết)

 

Và đâu phải v́ cái chết, mà chúng ta không c̣n hy vọng vào cuộc đời. V́ sao? Đây có lẽ là thông điệp mà Bùi Giáng muốn gởi đến cho những người trẻ tuổi hôm nay chăng?

 

Em bảo rằng,

Đừng tuyệt vọng nghe không

C̣n trang thơ thắm lại với trời hồng

(Mưa nguồn)

 

 

 

THÍCH PHUỚC AN

Nha Trang, 1997

(LÊ VĂN TÀI sưu tầm)

website counter