HƯƠNG DON
(Hạo
Nhiên Nguyễn Tấn Ích)
Đến định cư
tại miền Bắc California Hoa Kỳ hơn nửa
năm, bỗng một hôm, tôi nhận được cú
điện thoại của Thung từ Texas gọi qua. Thung
vừa là bạn học cũng vừa là chiến hữu
ngày xưa. Hắn đề nghị gởi vé máy bay mời
tôi qua Houston chơi. Nhân tiện tham quan khu vực dễ làm
ăn và giá nhà cửa cũng dễ thở hơn nhiều
so với San José. Tôi đồng ư.
Một tuần lễ sau, một
vé máy bay và một cái check 500 USD trong b́ thư gởi
đến. Đây là một món quà quá lớn ở
đất lạ quê người. Nhận được
tiền nhưng ḷng tôi lại ngại ngùng, bởi biết
bao giờ ḿnh trả lại cái nợ nầy đây. Ba ngày
sau, tôi lên máy bay của hăng Continental Airlines đi Texas.
Bốn tiếng đồng hồ sau, máy bay đáp
xuống phi trường Houston. Thung đón tôi tại
lối ra của khu hành khách.
Trước ngày "tan hàng
1975" chúng tôi cùng thụ huấn khóa 1 Cao cấp Chiến
Tranh Chính Trị tại trường Đại Học CTCT
Đà Lạt, năm 1974. Ngày ấy, trông hắn rắn
rỏi mà hôm nay, sau 16 năm định cư tại
Mỹ hắn hoàn toàn lột xác. Nước da trắng
hồng đỏ au, cái bụng căng tṛn, dáng
người bệ vệ "rất ông chủ". Mà
chủ thực. Thung làm chủ cái chợ bán toàn đồ
biển. Vợ và con hắn quản lư, c̣n Thung lo chạy
ṿng ngoài.
Ngày hôm sau Thung đưa tôi
đến thăm cơ sở làm ăn của gia đ́nh.
Nào pḥng mạch nha sĩ của đứa con trai
đầu ḷng, pḥng dịch vụ về Bảo lănh Di trú
của đứa con gái. Sau đó Thung mời tôi đi
ăn trưa.
Nhà hàng đồ biển có tên
Cổ Lũy Restaurant tọa lạc tại khu sầm
uất nhất của người Việt và Hoa tại
thành phố Houston. Vào giờ xế trưa, nhà hàng hơi
vắng khách nên chúng tôi chọn chiếc bàn đặt
gần quày thu tiền. Người bồi bàn trao cho chúng
tôi bản thực đơn. Cái tên Cổ Lũy nghe quen
thân quá. Tôi nghĩ, có lẽ chủ nhà hàng là người
Quảng Ngăi. Bởi Cổ Lũy là tên một cửa
biển thuộc tỉnh Quảng Ngăi. Nơi đây
thuyền bè tấp nập ra vào bến tàu Phú Thọ. Trong
tờ thực đơn có món "Hến xúc bánh tráng".
Nh́n thấy hến ḿnh lại
nhớ đến món don. Chẳng cần xem tiếp tờ
thực đơn, tôi gọi ngay cho ḿnh một tô don.
Cô bồi bàn giọng miền Nam
nh́n tôi ngạc nhiên hỏi:
- Món don là món ǵ vậy ông? Thực
đơn nhà hàng nầy không có món đó.
- Cái món "Hến xúc bánh
tráng" trong thực đơn có ghi, th́ tại sao lại
không có món don.
Tôi vừa cự nự vừa
chỉ cho cô chạy bàn cái món ruột hến, rồi
tiếp:
- Nếu không có don th́ cho tôi món
số 15 nầy.
Cô gái bồi bàn đi vào bếp.
Ngay sau đó, một phụ nữ đứng tuổi
ăn mặc sang trọng từ quày thu tiền đi
thẳng đến bàn chúng tôi. Bà có mái tóc ngắn làm
nổi bật khuôn mặt trái soan đầy đặn
với làn da mịn màng. Thung khều chân tôi nói nhỏ
"Bà chủ"
- Chào hai anh.
Người đàn bà nở
nụ cười thân thiện.
- Chào bà chủ, Thung đáp lễ.
- Vị nào thích món don? bà chủ
tươi cười hỏi.
- Thưa bà, tôi ạ.
- Xin lỗi, anh là người quê
Quảng Ngăi ?
- Tại sao bà biết ?
- Tôi chỉ đoán thôi, bởi v́
chỉ có dân sống tại Quảng Ngăi mới thấy
thích thú món don.
- Thế bà cũng là người
Quảng Ngăi, đúng không?
- Anh nghĩ sao mà đoán ra
thế?
- Chỉ nh́n cái tên hiệu Cổ
Lũy của nhà hàng là biết ngay.
- Nầy ông anh, trước kia
ở Quảng Ngăi, anh sống ở huyện nào vậy?
- Tôi ở thị xă, trên
đường Quang Trung.
Người đàn bà nh́n tôi
một chặp lâu rồi quay vào bên trong nhà hàng.
Lát sau, món ăn được
bưng ra. Một tô bún chả cá cho Thung và một dĩa
ruột hến xúc bánh tráng cho tôi. Lâu lắm rồi tôi
mới nghe lại mùi hến. Hến ở quê nhà ruột
nhỏ, dai và thơm. C̣n hến đóng hộp nhập
cảng con lớn, mềm lại mất hết mùi vị.
Ngày xưa, mỗi lần đi Huế, tôi nhất
định phải ăn cho được một lần
cơm hến. Đi đâu xa trở về Quảng Ngăi,
tôi không thể nào quên ăn một bữa don cho đă
cơn ghiền. Cô bồi bàn bưng hai ly nước cam
vắt đến bàn chúng tôi nói của bà chủ mời, có
kèm theo một tấm danh thiếp trao cho tôi. Mặt sau danh
thiếp là chữ viết của bà chủ nhà hàng mời
riêng tôi đến nhà vào chiều thứ Bảy.
Đặc biệt, bà khoản đăi món don do bà nấu.
Phần dưới là số phone và địa chỉ nhà.
Trên đường về, tôi
hỏi Thung.
- Cậu nghĩ sao cái
trường hợp lạ lùng nầy ?
- Ở quê người, nhớ
cố hương, gặp người Việt đă
mừng rồi huống chi lại là đồng
hương Quảng Ngăi. Bà ấy mời cậu đến
nhà có lẽ để hỏi thăm tin tức bà con ở
quê nhà. Cứ nh́n dáng dấp bà ấy với cái cơ
ngơi nầy là cậu hiểu ngay bà ta là dân trụ ở
đây khá lâu. Biết đâu cơ may đem đến cho
cậu công ăn việc làm ở thành phố nầy.
Bạn tôi suy luận như
thế. Riêng tôi, v́ lạ đất lạ người nên
có phần bồn chồn, áy náy.
*
Hương vị của món don
-hến xúc bánh tráng- làm tôi nhớ thời mới lớn
ở Quảng Ngăi. Tôi từ trên quê xuống tỉnh
học, ở trọ nhà người chị thứ Tư trên
đường Quang Trung Thị xă Quảng Ngăi. Anh chị
dành cho tôi căn pḥng trên căn gác lửng. Có ban- công nhô ra
làm mái hiên cho tầng dưới.
Thông thường mỗi sáng, tôi
thức dậy học bài rất sớm. Đường
phố vẫn c̣n sương mù vướng mắc đó
đây. Hàng cây bên đường trĩu nặng những
hạt sương khuya, dấu kín bóng đêm trong ṿm lá sum
sê.
Khi chân trời vừa rựng
đỏ khuất sau hàng tre hướng đông, là
tiếng rao hàng ăn buổi sáng bắt đầu râm ran
trước đường nhựa. Nào xôi, bánh bột
lọc, cháo gà, bánh canh, bánh ḿ, vân vân .. đủ các loại
hàng ăn vặt, và cũng đủ các loại âm thanh.
Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng hơi khàn,
giọng Huế, giọng Bắc, giọng Nam .. Duy có
tiếng rao: "Ai ăn don ho .. o .. o .. ông" khiến tôi
để ư. Tiếng "ho .. o .. o .. ông" sau cùng kéo dài
không đủ hơi chứng tỏ người rao hàng
không phải giọng của người đứng
tuổi. Tiếng rao nghe lánh lót như chim non mới tập
hót, âm điệu ngây thơ rời rạc.
Tôi ngồi học mà vẫn
để ư đến tiếng rao bán don vang lên
trước nhà. Tiếng rao như bị sương
lạnh buổi sáng sớm làm quánh lại không thoát ra được,
nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi hút mất ngoài xa.
Một hôm, tôi đang đứng
tập mấy động tác hít thở trên ban-công, chợt
tiếng rao "Ai ăn don ho .. o .. ông" quen thuộc vang
lên phía dưới đường. Tôi vạch bức mành
nh́n xuống thấy một người con gái mặc
chiếc áo bà ba trắng thân h́nh mỏng mảnh với gánh
don trên vai.
"Ê don", tôi gọi cô nàng đứng
lại rồi vộï vàng xuống thang gác.
Gánh don đă được
đặt trước hiên nhà, nàng đứng đó
chờ tôi mở cửa.
- Anh ăn don? Nàng hỏi khi tôi
nhẹ nhàng lách ḿnh qua cánh cửa sắt.
Đó là một cô bé ước
chừng mười ba mười bốn. Mái tóc vừa
chấm vai che một bên khuôn mặt trái soan c̣n măng
tơ. Tôi nh́n vào ngực cô bé, đôi nhủ hoa hồng
hồng như hai núm quả cau nhú bên trong làn vải
mỏng không áo lót, khiến cô bé cúi mặt thẹn thùng.
Bạn học của tôi, những cô nữ sinh cùng cỡ
tuổi đă bắt đầu chưng diện se sua, áo
ngoài áo trong, phần trên phần dưới đủ
cả, không khác chi người lớn. C̣n cô bé, với
chiếc quần đen, áo bà ba trắng mộc mạc
nổi bật nét đẹp của người con gái chân
quê.
- Anh ăn don?
Cô bé nhắc lại lần
nữa, tôi sực tỉnh trả lời:
- Không ăn don, kêu cô lại làm ǵ
?
Cô bé chợt hiểu nở
miệng cười chữa thẹn khoe hàm răng
trắng đều như những hạt ngô. Nụ
cười hồn nhiên khiến người đối diện
cũng thấy ḷng dạt dào, xao xuyến. Cô bé, hai tay
thoăn thoắt múc don. Mùi don thơm nồng pha chút
hương biển từ ui don bay lên ngào ngạt.
Cô bé trao cho tôi tô don c̣n bốc
hơi cùng với chiếc bánh tráng nướng và hai trái
ớt xiêm tươi xanh. Ăn don đâu cần phải
bàn ghế. Tôi đặt bát don xuống nền xi măng,
bẻ bánh tráng bỏ vào tô giằm luôn hai trái ớt.
Nước don ngọt và béo. Cái
ngọt độc đáo không phải vị ngọt
của thịt, cá mà vị ngọt rất đậm
đà hương vị quê hương. Lại thêm vị
nồng cay của ớt, mùi thơm của bánh tráng
nướng nó quyện vào lưỡi, ngấm vào chân
răng, kích thích tận cùng tế bào vị giác.
Nước don nuốt tới đâu ấm tới đó.
Trời lạnh mà ta ăn don vào buổi sáng th́ mới
thưởng thức được hết cái thú ăn don
ở quê nhà. Miếng don cuối cùng để lại trong
miệng, trong cổ của ta vị ngọt ngọt, cay
cay, nồng nồng, thơm thơm quyến rũ lạ
kỳ. Nó khiến người ăn don không muốn
dừng ở tô thứ nhất.
Tôi ăn ngon lành. Miệng hít hà v́
ớt cay. Cái lưỡi tê tê, mắt mũi xông lên mùi cay
nồng của loại ớt xiêm vô cùng hấp dẫn làm
cho nước mắt nước mũi tuôn ra. Nh́n cách
ăn rất thật t́nh của tôi, cô bé cứ che miệng
cười. Một tô, hai tô rồi ba tô. Cô bé trợn
trừng đôi mắt, đôi mắt bồ câu đen lay
láy. Cô kêu lên:
- Coi chừng bể bụng
đó, anh Hai !
Ô, lần đầu tiên tôi
được một người con gái gọi bằng
anh. Anh Hai.
Mười sáu tuổi, học
lớp đệ Tứ rồi đấy nhé. Thế mà cha
mẹ, anh chị cứ gọi tôi là Út Đẹt. Mẹ
tôi thường nhắc chuyện hồi tôi c̣n nhỏ.
Đă bốn, năm tuổi rồi mà vẫn c̣n bú và ăn
cháo. Các bà chị tôi chế nhạo hoài mỗi lần tôi ôm
vú mẹ. Chị Hai tôi hay trách mẹ tôi nhiều nhất :
- "Mẹ ơi, mẹ cưng chiều nó quá làm sao nó
thành người lớn". Mẹ tôi cười, nhỏ
nhẹ bảo:
- "Các chị lớn cả
rồi c̣n em nó út ít mà".
Chị tôi bực ḿnh bảo:
- "Chừng đó tuổi mà
chưa chịu dứt sữa.
Chẳng lẽ đến khi
đi học, mẹ phải mang vú đến trường
cho Út sao?"
Chị Hai nói xong bỏ đi.
Mẹ ṿ đầu tôi, tóc c̣n ướt nhẹp mồ hôi,
âu yếm :
- "Giàu út ăn, khó út
chịu", "Mẹ có sữa con nhờ".
Cái ḥn đá bàn dưới bến
sông, nơi để giặt áo quần là chỗ ngủ
của tôi trong những buổi trưa hè. Nền nhà lót
gạch trước bàn thờ là giường ngủ
của tôi trong những đêm nóng bức. Các chị tôi
thường hay đùa cợt:
- " Thằng Út cứ ăn chay
nằm đất kiểu nầy, lớn lên nó trở thành
thầy chùa cái chắc". Tôi là đứa con thứ
bảy trong gia đ́nh. Những tá điền, người
làm cho cha mẹ tôi đều gọi tôi là cậu Bảy
Út. Thế mà bác Tám Đang ở xóm dưới dám
đặt cho tôi biệt danh "Bảy Thưa"
chỉ v́ mấy cái răng cửa của tôi mọc hơi
sưa một chút.
Cái thân h́nh của tôi hồi đó
mỏng như thân con nhái lá. Da dẻ sần sùi khô khốc
bởi suốt ngày cứ để lưng trần
chạy ngoài nắng. Mỗi lần bạn bè rủ tôi
đá banh trên ruộng lúa mới cắt, chúng nó cứ la
oang oang cái tên "Bảy Thưa" nghe chẳng
đẹp tư nào ấy:
-"Ê Bảy Thưa đưa
banh qua cho tao. Nào, "Bảy Thưa" banh đây sút vào
..". Tức lắm, tôi bèn ra một điều kiện:
- "Nếu bọn bay c̣n gọi
cái tên "Bảy Thưa" nữa là tao bỏ chơi.
Nhóm thằng Thới xóm Thọ Đông đang chiêu dụ
tao đó. Liệu hồn!"
- Nầy cô bé, sao không múc tiếp
một tô nữa?
- Anh à, em chưa hề thấy
người nào ăn đến ba tô don mà c̣n kêu thêm
nữa, ăn no quá mất ngon, thôi để ngày mai nghe anh.
Tiếng "nghe anh" của cô
bé sao mà êm đềm quá, ngọt ngào quá. Bỗng nhiên tim tôi
đập rộn ràng. Tôi muốn hỏi tên cô bé nhưng
cứ ngại ngùng, đành phải móc tiền ra trả.
Cô bé đi rồi, tiếng rao
"Ai ăn don ho .. o .. ông" đă văng vẳng ngoài xa
mà tôi vẫn c̣n đứng nh́n theo thẫn thờ.
Sáng hôm sau, cô bé cất tiếng rao
hàng rồi đặt gánh don trước hiên nhà chờ
đợi. Tôi lại vội vàng mở cửa :
- Nầy, đằng ấy tên ǵ
vậy ?
- Em tên Thuyền, cô bé trả
lời, rồi dạn dĩ nh́n tôi hỏi: - Thế c̣n tên
anh?
- Hạo.
- Hạo, cái tên lạ quá !
Cô bé nhắc lại tên tôi rồi
cười bẽn lẽn. Đôi tay Thuyền múc don lẹ
làng, vén khéo không hề rơi rớt. Tôi để ư lần
nầy, cô bé đem theo một cái tô cỡ lớn hơn,
khác hẳn với những cái tô khác chồng trên miệng
ui. Cô tự ư bẻ bánh tráng cho vào tô trước khi
đổ don vào. Vừa làm cô bé vừa giải thích :
- "Làm thế nầy don c̣n
giữ được độ nóng, và hương don không
bị loăng."
Cô bé trao tô don cho tôi, vô t́nh tôi
đặt bàn tay chạm phải tay nàng. Bé cúi mặt
thẹn thùng khiến hai tai nàng rựng đỏ,
Thuyền bảo :
- Mỗi sáng anh ăn hai tô nầy
là đủ rồi.
Từ đó, sáng nào tôi cũng
ăn don của cô bé Thuyền. Thỉnh thoảng chị
tôi mua ốc don tươi về nấu. Thông thường
chị thêm vào nồi don cả thịt bằm, xác mỡ,
nhưng tôi ăn một cách lơ là chẳng thấy
hấp dẫn tư nào. Chị tôi chế giễu :
"Thằng Út nó đâu có mê don
chỉ mê con nhỏ bán don".
Có lần tôi cố t́nh giữ bàn
tay Thuyền bên dưới tô don, cô bé cứ để
nguyên nh́n tôi với ánh mắt long lanh t́nh tứ. Chặp lâu
sau, nàng rút tay về hối thúc:
- Người ta thấy ḱa, ăn
đi kẻo nguội.
Thế là suốt mùa don, cô bé
Thuyền ít có buổi sáng nào vắng mặt. Ăn hoài tôi
đâm ghiền. Ngày nào Thuyền không đến là suốt
ngày đó tôi thấy trống vắng lạ thường.
Tôi nhớ hương vị của don, tôi nhớ khuôn
mặt của Thuyền. Suốt ba tháng hè tôi không về quê
lấy cớ học bài thi.
Có lẽ nhờ ăn don mà thân
thể tôi đẫy đà. Da dẻ tôi thêm hồng hào
trắng mịn. Bà chị tôi phát hiện sự "thay da
đổi thịt" của thằng em út. Chị
chế nhạo:
"Nghèo nghèo, nợ nợ
kiếm cô vợ bán don.
Mai sau có chết cũng c̣n cặp
ui"
Năm đó tôi đậu
bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, cha mẹ tôi
cho tôi theo người anh họ vào Sài G̣n tiếp tục
học. Tôi từ biệt Quảng Ngăi mà nghe ḷng ḿnh
buồn tê tái. Tôi ra đi lúc trời chớm thu, những
cơn mưa đầu mùa đă làm cho nước sông dâng
cao.
Tôi c̣n nhớ lời Thuyền
dặn: " Khi nào nước sông dâng cao th́ don không c̣n
nữa. Chừng ấy em sẽ không c̣n dịp gặp anh,
chỉ c̣n biết hẹn anh vào mùa don tới đầu
tháng Hai âm lịch". Biết như thế nhưng sáng
nào tôi cũng trông tiếng rao của Thuyền. Tôi mong
gặp nàng để nói lời từ biệt.
Giờ phút chót ngồi trên xe
đ̣ mà tôi vẫn dơi mắt đợi chờ, hy vọng
Thuyền xuất hiện. Khi xe chuyển bánh, mẹ và
chị tôi mắt rưng lệ, nắm tay tôi từ giă. Tôi
không cầm được xúc động đă ̣a khóc.
Lần đầu tiên tôi xa
mẹ, xa gia đ́nh cách hàng mấy trăm cây số. Tôi
cảm thấy nỗi cô đơn như đè nặng lên
lồng ngực ḿnh. Tôi thương mẹ thương
chị. Nhưng t́nh của tôi đối với Thuyền
vừa nồng nàn vừa xót xa.
Tôi thương Thuyền cuộc
sống quá lam lũ. Mới chừng ấy tuổi đă
phải vất vả thay mẹ nghề bán don. Tuổi
vừa lên ba, cha Thuyền đă tử nạn theo tàu
đánh cá ngoài khơi khi bị cơn băo bất ngờ
ập tới. Mồ côi cha, mẹ ở vậy nuôi
Thuyền ăn học hết bậc Tiểu học.
Mới chừng ấy tuổi mà phải từ giă ghế
nhà trường, lăn lộn vào trường đời.
Mẹ nấu don, Thuyền gánh đi bán dạo hàng ngày
đi về trên mười cây số.
Những đêm đầu tiên
ở Sài G̣n, tôi nhớ day dứt nụ cười
rạng rỡ của Thuyền. Nhớ đôi bàn tay
nhỏ nhắn của nàng run run trong bàn tay tôi. Nhớ
đến hương vị thơm lừng của tô don
với chất béo của ruột don trộn mùi cay nồng
của ớt, mùi bánh tráng nướng, mùi hành ng̣. Nó
tổng hợp thành hương vị không có món ăn nào so
sánh được. Don Quảng Ngăi chiếm lĩnh
cương vị độc tôn đối với
người dân Quảng Ngăi bởi nó là món ăn quê
hương. Và đối với riêng tôi có pha cả mùi
hương con gái của Thuyền.
Xa nơi chôn nhau cắt rún lần
đầu, tôi nhớ nhất là những chuyến đi
chơi với bạn bè trên núi Thiên Ấn. Sau một
hồi leo giốc mệt bở hơi tai, khát nước
khô cả cổ chỉ cần uống mấy ngụm
nước giếng của nhà chùa là cơn mệt cùng
mồ hôi tan đi hết. Có người bảo đó là
nước của Tiên Phật độ tŕ. Một
truyền thuyết kể rằng có một vị sư
đến đào giếng nầy suốt cả năm
trời, khi giếng có nước th́ vị sư ấy
biến mất. Ngôi chùa Thiên Ấn tọa lạc trên
đỉnh núi có mặt bằng vuông vức, cao hơn
mặt nước biển trên trăm mét, nhưng
nước giếng trong và ngọt cung cấp cho chùa không
bao giờ cạn. Quả là điều rất hiếm.
Đây là "Đệ nhất thắng cảnh"
của quê nhà có tên là "Thiên Ấn Niêm Hà" do quan
Tuần vũ Nguyễn Cư Trinh đặt tên trong
mười bài thơ đường luật, mỗi bài ca
ngợi một thắng cảnh của tỉnh Quảng
Ngăi.
Đứng trên đỉnh núi nh́n
bao quát ta thấy ḍng sông Trà Khúc óng ánh bạc uốn ḿnh theo
những lũy tre xanh đến tận cùng cửa Cổ
Lũy trước khi nhập vào biển Đông. Nơi
đây ta có thể thưởng ngoạn thêm "Đệ
nhị Thắng cảnh" của quê hương, đó
là "Cổ Lũy Cô Thôn" nằm im ĺm nơi cửa
biển, nước bủa mênh mông. Nh́n chệch qua bên trái
là mũi Ba-tân-gân phơi ḿnh với sóng băo đại
dương. Để hồn trải rộng đến
cuối chân trời, ta có cảm tưởng như
người được thoát tục về nơi tiên
cảnh. Kẻ nào có tham vọng, mang ư đồ đen
tối mà đối diện với cảnh sắc
nầy, trong thoáng chốc cũng tạm thời quên đi.
Vào những ngày sắp nghỉ Hè,
tôi nhận được thư của chị tôi:
".. Đầu mùa don năm
nầy, con bé bán don trở lại. Sáng nào nó cũng
đặt gánh don trước cửa nhà chị, lâu lâu nó
rao lên "Ai ăn don hông" rồi đứng đó
đợi chờ. Người ta không biết nó
đợi chờ ai, nhưng chị, th́ chị đoán
biết. Thời gian kéo dài cả tháng trời, chị
thấy tội nghiệp nên thỉnh thoảng kêu don
của nó cho cả nhà ăn buổi sáng. Đôi mắt nó
thật buồn, cứ lén nh́n sâu vào trong nhà mà không dám
hỏi. Một hôm, cầm ḷng không được, chị
cho nó biết là em vào Sài G̣n học đă gần một
năm. Sau đó chị không c̣n thấy con bé bán don trên con
đường nầy nữa .."
Đêm đó tôi nằm mơ nghe
thấy tiếng rao: "Ai ăn don ho .. o .. ông" như
tiếng chim cuốc lẻ đôi khắc khoải gào khan
suốt mùa Hè thương nhớ rồi cuối cùng
chết khô theo con trống, chung t́nh. Thuyền ơi, hăy tha
thứ cho tôi. Những rạo rực t́nh yêu đầu
đời đă làm cho con tim em phải se thắt v́ phân ly.
Rồi thời gian trôi qua, ba
năm miệt mài đèn sách đă giúp tôi quên h́nh ảnh cô
gái bán don ngày nào. Sau khi lấy xong bằng Tú Tài toàn phần,
tôi về thăm Quảng Ngăi. Vào buổi sáng, tôi dậy
sớm cùng chị tôi chuẩn bị về quê thăm cha
mẹ. Đang xếp áo quần vào va-li chợt tôi nghe
tiếng rao "Ai ăn don ho .. o .. ông". Tôi vội vàng
chạy ra ban-công gọi:
- Cô bán don.
Tôi nhanh chân xuống thang gác mở
cửa. Cô bán don đứng đợi dưới mái hiên
nhà. Thoáng nh́n, tôi tưởng một thiếu phụ nào khác
không phải Thuyền. Nhưng không, làm sao tôi nhầm
lẫn được. Âm thanh tiếng rao của Thuyền
như mọc rễ trong kư ức của tôi. Cũng thân
h́nh mảnh khảnh đó nhưng cao hơn và già dặn
hơn. Chính là Thuyền của ba năm về
trước. Tôi hỏi:
- Thuyền phải không?
Nàng nh́n tôi đăm đăm,
rồi những giọt nước mắt lăn tṛn trên
má. Tôi thấy loáng thoáng trên ngực áo nàng vết ố
của những giọt sữa đă khô. Đứng sát vào
Thuyền, tôi đặt tay lên vai nàng bảo:
- Em để gánh xuống đây,
múc don cho anh ăn nhé.
- Không. Don em đă cuối mùa,
gặp luồng nước bạc (nước lụt), em
không bán cho anh đâu.
Nói xong, nàng đưa tay áo
quệt nước mắt, trở gánh quay lại con
đường cũ. Tôi đứng nh́n theo nàng mà nghe
hồn trĩu nặng. Tôi cố lắng nghe tiếng rao
"ai ăn don ho .. o .. ông" lần cuối cùng của
Thuyền lẫn lộn với tiếng rao hàng khác nhưng
tuyệt nhiên im lặng , chỉ c̣n sót lại hương
don thoảng bay trong gió.
* * *
Chiều thứ Bảy, Thung
bỏ tôi trước căn nhà số 28 .. trên
đường White Forge thành phố Sugarland. Căn nhà
lầu ở khu mới xây khá đồ sộ. Vách tường
áp gạch màu nâu đỏ trông thật mát mắt.
Tôi đứng tần ngần
một hồi lâu mới bấm chuông. Người phụ
nữ ở quán Cổ Lũy hôm trước mở
cửa, gật đầu chào rồi mời tôi vào khu pḥng
khách trang hoàng lộng lẫy. Bộ sô-pha da màu vàng nhạt
choán cả một góc pḥng. Chiếc TV cỡ lớn cùng dàn
hệ thống âm thanh karaoke chiếm trọn góc pḥng
đối diện.
Bà chủ rót trà:
- Mời anh dùng nước.
Nàng trao tôi tách nước rồi
tự giới thiệu:
- Tôi tên là Marry, chồng tôi là
người Mỹ đưa tôi sang đây từ năm
1972. Xa quê ḿnh lâu quá, nay gặp người đồng
hương tôi mừng lắm. Và đặc biệt là dân
ở Quảng Ngăi mà lại thích ăn don như anh.
- Bà ở huyện nào? tôi ṭ ṃ
hỏi.
- Huyện Tư Nghĩa xă Tư
Nguyên.
Bà Marry nh́n tôi định hỏi
tiếp điều ǵ, nhưng bà lại đổi thế
ngồi, xoay người sang hướng khác bưng b́nh trà
rót thêm nước vào tách cho tôi. Bà nói:
- Thôi, để lát sau ḿnh nói
chuyện tiếp, giờ mời anh dùng món ăn quê nhà
kẻo nguội mất.
Tôi theo nàng đến pḥng ăn.
Mùi don từ trên bếp bốc hơi thơm lừng. Bà
chủ nhà bưng hai tô don hơi lên nghi ngút đặt trên
bàn có cả bánh tráng nướng, hành ng̣ và đĩa ớt
xiêm. Tôi ăn ngon lành, ăn thật t́nh. Ớt cay, don nóng,
tôi hít hà, nước mắt nước mũi chảy ra.
Bà chủ nhà đưa tissues cho tôi với ánh mắt
đầy xúc động. Một tô rồi hai tô, bà
ngồi nh́n tôi ăn và khuyến khích thêm tô nữa nhưng
tôi vỗ bụng lắc đầu từ chối. Nàng
bảo:
- Anh sợ vỡ bụng
đấy à ?
Câu nói của bà chủ khiến
tôi sực nhớ đến Thuyền, cô gái bán don thời
tôi c̣n trung học ở Quảng Ngăi. Cô bé đă từ
chối bán cho tôi tô thứ tư với câu: "Coi
chừng bể bụng".
Tôi ngước nh́n bà Marry, tâm
sự:
- Ăn don hôm nay khiến tôi
nhớ đến kỷ niệm thời niên thiếu
ở quê nhà. Tôi là khách ăn thường xuyên của cô gái
bán don tên Thuyền. Tôi thương cô ấy và tội
nghiệp hoàn cảnh cô ấy. Mới mười mấy
tuổi đầu đă phải bỏ học thay Mẹ
đi bán don dạo. Buổi sáng nào cô ấy cũng gánh don
đến trước hiên nhà tôi trọ học và chăm
sóc tô don cho tôi như người chị lo cho em. Sau nầy
tôi vào Sài G̣n học đă quên lăng cô bé bán don. Ba năm sau
trở về Quảng Ngăi, tôi t́nh cờ gặp lại nàng
cũng với gánh don trên vai, nhưng cô bé đă trở thành
thiếu phụ. Thuyền đă từ chối không bán don
cho tôi c̣n bảo ..
Nói đến đây, chợt bà
Marry cướp lời tôi, lên tiếng:
- "Em không bán cho anh đâu. Don em
cuối mùa lại gặp luồng nước bạc!"
Bà chủ nhà đă nói lên nguyên
văn câu nói của Thuyền ngày xưa, ẩn chứa
sự trách móc giận hờn, khiến tôi giật ḿnh
sửng sốt.
Tôi nh́n vào mắt bà Marry, h́nh
như long lanh ánh nước. Tôi kêu lên:
- Thuyền phải không?
Thuyền ngày xưa đă
đưa tay quệt nước mắt, không trả
lời câu hỏi của tôi. Marry bây giờ với
giọng ngậm ngùi:
- Vâng, em là Thuyền của 37
năm về trước. Em đă nhận ra anh ngay khi anh
cho biết chỗ ở trước kia là đường
Quang Trung. Đó là con đường dạt dào hạnh phúc
trên mỗi bước đi của em hồi đó, mà
cũng là con đường mang đầy xót xa
thương nhớ ngày anh rời xa.
Thuyền đứng dậy
đến ôm vai tôi :
- Cảm ơn anh đă cho em một t́nh
cảm trân quư, dù là đối với một cô gái bán don
nghèo hèn. Suốt quăng đời đen tối về sau
nầy, t́nh anh là ngọn đèn thắp sáng cho em trong
những đêm mịt mù sương tuyết. Hạo
ơi - cái tên nghe lạ quá - ngày đó em đă nói với anh
như thế. Nhưng sau nầy mỗi khi gặp
những đau khổ chất chồng, chính cái tên Hạo
trở nên thân thương sưởi ấm ḷng em.
Tôi nắm lấy tay nàng, nói
như một triết gia:
- Đời như một ḍng
sông, chuyển đổi không ngừng. Xưa kia Thuyền
là cô gái bán don, ngày nay Marry là chủ một nhà hàng lớn
nhất nh́ ở đây. Chúc mừng em. Chúc mừng
người đồng hương Quảng Ngăi đă
nắm bắt được cơ hội vươn lên
trên xứ người.
Sau buổi hàn huyên, Thuyền
đích thân đưa tôi ra tận xe khi bạn tôi
đến đón. Lên xe rồi, tôi thấy nàng c̣n quyến
luyến nh́n theo, đưa mấy đầu ngón tay áp vào
môi hôn. Tôi hít một hơi thật sâu vào lồng ngực,
chợt nghe hương don c̣n nồng trong hơi thở.
HẠO NHIÊN NGUYỄN
TẤN ÍCH
(SONY
TRẦN sưu tầm, Vntvnd chuyển)