DẠ CỔ HOÀI LANG
(Đoàn Dự)
VNNB- Tôi đọc sách, thấy
trong các tác phẩm tiếng Anh có một truyện ngắn
mang tên Những con diều tại Bắc Kinh, họ
đề là của Lu Hsun (Lỗ Tấn). Truyện rất
hay, nhẹ nhàng, đề cập tới những ngơ ngách
sâu kín trong tâm hồn con người. Nhưng tôi nghi ngờ
không biết có phải của Lỗ Tấn hay không,
bởi v́ trong các bản dịch tiếng Việt tôi không
thấy nhà văn danh tiếng này có truyện như
vậy. Bằng một
giọng trầm tư, tác giả kể rằng khi ông
đă lớn tuổi, sống tại Bắc Kinh, cứ
mỗi lần đến mùa người ta thả
diều, nh́n thấy những con diều trên thành phố Bắc Kinh ḷng ông
thường bâng khuâng, ray rứt nhớ lại một kỷ
niệm cũ.
Ngày ấy ông c̣n nhỏ. Ở quê
ông người ta có thói quen thả diều. Từ trẻ
con tới người lớn ai cũng mê diều. Riêng ông,
cha ông bắt ông học, bởi vậy ông quen với sách
vở hơn quen với những con diều. Cậu em trai
ông th́ khác, nó cũng mê diều, có lần một ḿnh
trốn vào trong căn nhà kho, đóng kín cửa lại
ở biền biệt trong đó
làm trộm con diều suốt hai ngày liền. Ông
đi t́m, bắt gặp, bèn tức giận tát bốp cho em
một cái muốn đổ đom đóm mắt rồi
liệng con diều xuống
đất, giẫm hai chân lên, giậm tan nát
trước cặp mắt thất thần, đau
đớn v́ tiếc của đứa em trai.
Mấy năm sau, ông rời gia
đ́nh đi học xa. Thời thế đảo điên,
anh em xa cách. Khi ông sống tại Bắc Kinh th́ đă
lớn tuổi, mỗi lần nh́n thấy những con
diều trên thành phố ông lại khổ sở v́ cái nh́n
đau đớn của đứa em trai đáng
thương ấy. Cặp mắt nó lúc nào cũng đeo
đuổi khiến ông ân hận về sự tàn nhẫn
của ḿnh.
Hơn chục năm sau, anh em
bất ngờ gặp nhau. Bây giờ tóc ông đă bạc,
mái tóc em ông th́ cũng đă bạc và cậu đă có vợ
con, gia đ́nh êm ấm. Ông mời em về nhà ḿnh ăn cơm.
Trong bữa ăn, ông gợi
lại chuyện xa xưa và lúng túng t́m cách xin lỗi em. Em
ông tỏ vẻ ngạc nhiên, cười x̣a vui vẻ:
"Hầy à! Có chuyện đó sao anh? Vậy mà em không
nhớ ǵ hết. Thú vị
quá phải không anh?".
Bị tát vỡ mặt mà c̣n thú
vị. Ông kết luận rằng đó là t́nh anh em. V́ cùng
máu mủ, ruột thịt nên anh em sẵn sàng tha thứ cho
nhau từ trong tiềm thức, trong khi người có
lỗi không biết, vẫn nhớ không quên.
Lỗ Tấn là một bậc
thầỵ Các nhà văn bậc thầy thường có
lối viết đơn giản rất "con
người" như vậy. Họ viết bằng tâm
hồn họ, hết sức nôm na, chân thật, chẳng
cần uốn lượn ng̣i bút, chẳng cần đao to
búa lớn "mặt trăng nuốt mặt trời"
mà vẫn cứ hay. Tôi nghiệm ra trong ḷng mỗi con
người chúng ta thường có những ngơ ngách sâu kín và
âm thầm thật. Nó làm cho cuộc sống của chúng ta
phong phú hơn hay nhức nhối hơn ? Không thể
biết được. Nhưng dù phong phú hay nhức nhối
th́ ta vẫn cứ là ta. Chỉ riêng ta biết lấy ta mà
thôi.
Cũng như tôi, đến nay
đă ba mươi mấy năm rồi - vâng, đă ba
mươi mấy năm - vậy mà trong ḷng tôi đôi khi
vẫn u uẩn, băn khoăn thắc mắc về
một chuyện nho nhỏ. Rất nhỏ. Tôi sợ
rằng một vài em học tṛ cũ nào đó của tôi
cách đây hơn ba mươi năm không hiểu, khinh tôi.
Nhà giáo, tội ǵ th́ tội, không thể để học
tṛ khinh được. Nếu để học tṛ khinh
hoặc hiểu lầm th́ hỏng, ḿnh sẽ ân hận
suốt đời.
*
Năm ấy tôi hăm hai
tuổi, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm,
được bổ về dạy tại một tỉnh
khá xa. Người ta hăm hai th́ khôn, c̣n tôi có lẽ
rất ngốc. Ngốc chứ không phải ngu. Tôi chưa
bao giờ nhận là ḿnh ngu cả. Nếu ngu th́ làm sao mà
dạy học được ?
Tôi ngốc đến nỗi
buổi tối hôm sắp xuống tỉnh nhận
nhiệm sở, mẹ tôi bảo để mẹ tôi đi
theo, xuống đấy sắp xếp chỗ ăn
chỗ ở cho tôi. Em gái tôi bảo thôi, mẹ đừng
đi, anh ấy đi dạy có mẹ đi kèm người
ta cười cho đấy. Mẹ tôi bảo việc ǵ mà
cười, con ta đẻ ra từ tấm bé, lớn lên
th́ ta phải trông nom cho nó chứ, dễ ǵ một lúc mà sanh
ngay được đứa con bằng ấy. Tôi nói vâng
ạ.
Sáng hôm sau quả nhiên tôi bị
cười thật. Ra bến xe đ̣, bạn bè cùng khóa
sư phạm với tôi nhiều người cũng
được bổ về các tỉnh dưới đó,
bất ngờ gặp gỡ, đi cùng một chuyến.
Họ chào hỏi mẹ tôi rồi một cô cười,
khen mát: "Anh sướng thiệt, tốt nghiệp
sư phạm, đậu Cử Nhơn rồi mà đi
đâu cũng có mẹ đi theo, sướng quá". Tôi
đáp: "Vâng, tôi mồ côi cha từ nhỏ nên việc ǵ
mẹ tôi cũng trông nom. Tôi sống nhờ mẹ".
Xuống tỉnh, mẹ tôi ở
lại khách sạn, tôi vào trường tŕnh diện. Lúc
ấy là buổi chiều, trời mới mưa lớn nên
sân trường ngập nước có lẽ tới
mắt cá chân, trong sân có cỏ và hai cái ao. Đôi giầy
của tôi mới toanh. Chiếc cra-vát cũng mới
nữa. Tôi t́m không thấy có chỗ nào len chân
được, rất ngại ngùng nên bèn ngồi xuống
tháo giày, tháo cả vớ, xách trên tay rồi xắn quần
lên cao, lội lẹp bẹp trong khi ngực vẫn đeo
cra-vát.
Ông Hiệu Trưởng đón tôi
trên hiên, trông tôi chắc kỳ dị lắm. Đợi tôi
đi lại đôi giày xong, ông mời tôi vào văn pḥng, nói
chuyện, trao thời khóa biểu đă chia sẵn
đề tên tôi, cho mượn trước hai tháng
lương rồi mời tôi sang pḥng giáo sư.
- Tôi đă nhận được
sự vụ lệnh của Nha Trung Học cho biết
năm nay có bảy anh em mới tốt nghiệp
được bổ về trường. Anh xuống
sớm, rất tốt. May quá, nay nhân có buổi họp hàng
tháng để chuẩn bị khai trường. Họp xong
rồi nhưng mời anh sang để tôi giới
thiệu với anh chị em luôn.
- Vâng ạ.
Tôi đứng dậy, đi theo.
Ông Hiệu Trưởng giới thiệu xong, mọi
người vỗ tay. Sau cùng, anh Giám Học đứng
lên:
- Tôi đề nghị hôm nay có
giáo sư mới, chúng ta ai đi được th́ đi,
ai không đi được th́ thôi, ta ra Xừng Kư,
nhậu.
Tôi vội vàng đứng dậy:
- Dạ thưa thôi ạ, em không
đi được đâu ạ.
Anh Giám Học ngạc nhiên. Tôi
giải thích:
- Dạ thưa tại v́ bà cụ
em xuống, hiện đang ở khách sạn Thanh Sơn. Em
phải về kẻo mẹ em mong.
Mọi người trợn tṛn
mắt nh́n tôi như nh́n một con vật kỳ lạ
họ chưa từng thấy. Nhất là các cô, nhiều
người đưa tay che miệng cười.
Anh Giám Học hỏi:
- Thưa anh, thời khóa biểu
trong trường tôi đă chia rồi. Riêng của anh,
đa số toàn lớp Mười Một với lớp
Mười Hai bởi v́ anh sẽ thay tôi, đổi về
Đà Lạt. Học sinh tụi nó lớn lắm, vậy
từ mai trở đi bác có phảI vào trong lớp trông coi
cho anh dạy không ạ ?
Các cô cúi gầm mặt, lại
cười hơn nữa. Tôi lắc đầu:
- Dạ không ạ, mẹ em
chỉ xuống trông nom, sắp xếp chỗ ăn
chỗ ở cho em xong th́ về, không vào trong lớp.
Ít lâu sau, khi đă quen nhau, anh Giám
Học tên Phùng Văn Hưởng đă đổi lên
Đà Lạt, một anh bạn kể với tôi rằng
anh Hưởng nói cái thằng đó nó ngốc ghê cơ, tao
hỏi xỏ nó ngay giữa hội đồng mà nó
đứng dậy trả lời tỉnh bơ:
"Dạ không, mẹ em chỉ xuống trông coi, sắp
xếp chỗ ăn chỗ ở cho em thôi ạ, không vào
trong lớp". Tao chưa thấy ai ngốc bằng nó.
Thế đấy, tôi chỉ ngốc chứ không có ngu,
thầy giáo mà ngu th́ không dạy học được.
Lúc ấy tôi đang viết
tiểu thuyết đăng fơi-ơ-tông cho hai tờ
báo lớn ở trên Sài G̣n, để tên thật nên học
tṛ biết, thân với tôi lắm. Nhất là các em có máu
văn nghệ văn gừng, thường hay chuyện tṛ
với tôi. Một hôm, tan học, thầy tṛ đang đi
trên con đường nhựa chạy dọc theo mé sông
trước cửa khách sạn Thanh Sơn, một em
bỗng dừng lại, chỉ tay sang phía xa xa ở bờ
bên kia:
- Kia ḱa thầy, thầy có nh́n
thấy căn nhà trăng trắng dưới chỗ
đám cây kia không ? Nhà ông Sáu Lầu đó thầy !
Một em khác nh́n theo, phụ
họa:
- Bữa nào thầy rảnh không
phải viết tiểu thuyết, tụi em sẽ dẫn
thầy qua bển thăm ổng. Ông Sáu dễ tánh, cũng
thích văn nghệ, gặp thầy chắc ổng mầng
lắm.
Tôi nh́n kỹ, chỉ thấy
những ngôi nhà nho nhỏ thấp thoáng dưới
những bụi cây, không có ngôi nào cao tới sáu, bảy
tầng một cách đặc biệt đến nỗi
học tṛ phải dẫn tôi sang coi, làm quen với gia
chủ. Ở Sài G̣n nhà có sáu tầng lầu là một
chuyện thường, không quan trọng như ở
dưới này.
- Các em nói ổng tên Sáu Lầu hay
nhà của ổng có sáu tầng lầu, sao thầy không trông
thấy ǵ hết ?
Học tṛ ngạc nhiên nh́n tôi.
Trong cái nh́n đó tôi thấy các em hết sức thất
vọng. H́nh như các em coi ông Sáu Lầu là một nhân
vật vĩ đại trong khi tôi tỉnh bơ, không
hiểu ǵ hết.
- Dạ thưa tên ổng là ông Sáu
Lầu, tức ông Cao Văn Lầu, ổng làm ra bản
Dạ Cổ Hoài Lang.
Hừ, làm một bản vọng
cổ th́ đă ăn nhằm ǵ. Người nhà quê
thường hay quan trọng hóa vấn đề chứ
tôi ở Sài G̣n, ngày trước coi cải lương hoài,
thấy các soạn giả như Thu An, Hà Triều, Hoa
Phượng .. viết nhiều tuồng lắm. Trong khi
soạn tuồng tất nhiên họ phải sáng tác vọng
cổ, mỗi vở hàng bao nhiêu bài chứ đâu phải
chỉ có một bản Dạ cổ hoài lang như ông Sáu
Lầu.
Tuy nghĩ như vậy nhưng
vốn quư mến học tṛ, tôi nói cho các em vừa ḷng:
- Dạ cổ là tiếng
trống đêm. Dạ cổ hoài lang là nghe tiếng
trống đêm nhớ chàng hay nhớ chồng ǵ đó,
phải không các em ?
- Dạ.
- Thôi được, để
lúc nào rảnh thầy nhờ các em dẫn qua giới
thiệu với ổng. Thầy cũng thích t́m hiểu
phong tục tập quán địa phương.
Học tṛ thấy tôi không sốt
sắng lắm nên im lặng, thôi không nói nữa. C̣n tôi,
vừa bận viết lách lại vừa dạy học,
tôi cũng quên đi, không nghĩ tới nữa.
*
Bảy năm sau, tức năm
1972, tôi được đổi về một
trường gần Sài G̣n. Ông Lê Dân, đạo diễn
điện ảnh, có quay của tôi một cuốn truyện
cùng lúc với cuốn Hồng Yến của nhà văn B́nh
Nguyên Lộc. Trong cuộc liên hoan "bấm máy", hai bác
cháu được xếp ngồi bên cạnh nhau,
chuyện tṛ với nhau. Ông Lê Dân đi ngang qua, dừng
lại bắt tay, giới thiệu tôi là thầy giáo. Bác
B́nh Nguyên Lộc hỏi tôi dạy trường nào, tôi nói
Trường Trung Học Bạc Liêu, mới
được đổi về Sài G̣n.
Bác ngạc nhiên:
- Ủa, Bạc Liêu, vậy là quê
hương của ông Sáu Lầu ?
Tôi giật ḿnh, sửng sốt.
Bản Dạ cổ hoài lang hay tới mức nào mà vừa
mới nghe hai tiếng Bạc Liêu là bác B́nh Nguyên Lộc
đă nhắc ngay tới tên ông Sáu Lầu ?
Tôi đem việc đó ra hỏi.
Nhà văn miền Nam có cái bút hiệu đổi ra từ
hai tiếng "Đồng Nai" mỉm cười
lắc đầu:
- Không phải vậy đâu,
cậu giáo lầm rồi. Ông Cao Văn Lầu không phải
chỉ sáng tác ra bản Dạ cổ hoài lang theo cách cậu
giáo hiểu mà c̣n là người phát minh ra điệu
vọng cổ. Miền Nam trước đây không có
vọng cổ, phải sau
khi bản Dạ cổ hoài lang
của ông Sáu Lầu ra đời nó mớI biến
đổi dần và biến ra điệu vọng cổ.
Có thể nói ông Sáu Lầu là cha đẻ của
điệu vọng cổ.
Bác giải thích rất kỹ.
Người tôi lạnh đi. Thôi chết, ḿnh lầm to
rồi. Ông Sáu Lầu là người khai sinh ra điệu
vọng cổ chứ không phải chỉ làm ra một
bản vọng cổ. Việc này rất lớn chứ
không phải nhỏ. Tôi kể cho bác B́nh Nguyên Lộc nghe câu
chuyện lầm lẫn của tôi bảy năm về
trước và phàn nàn rằng ḿnh kém cỏi, học tṛ
thất vọng về ḿnh.
Bác lắc đầu:
- Không sao đâu cậu giáo. Làm
thầy, kém về chuyên môn nó mới coi thường
chớ chuyện ngoài đời, ai cũng có cái biết cái
không, biết hết làm sao được. Lúc đó có
lẽ tụi nó cũng có thất vọng thiệt nhưng
không khi dễ thầy. Đối đế lắm là nó
cười thầm với nhau là thầy hổng biết
vậy thôi.
Tuy bác đă an ủi nhưng trong
ḷng tôi vẫn có một cái ǵ đó áy náy, thắc mắc
bâng quơ. Tôi mong có dịp và có th́ giờ trở lại
Bạc Liêu, được gặp lại những
người học tṛ cũ năm xưa để xin lỗi
về chuyện tôi đă lầm lẫn. Nhưng lúc xảy
ra chuyện đó tôi mới đi dạy, chưa biết
hết mặt học tṛ, họ là ai, tên ǵ tôi cũng không
nhớ rơ.
*
Ba năm sau, đất
nước đổi thay. Mười năm sau nữa,
công lao của ông Sáu Lầu được nói tới
nhiều hơn. Nhất là sau khi ông qua đời, hội
Nghệ sĩ Sân khấu Miền Nam làm lễ tưởng
niệm rất lớn, coi ông như một bậc thầy
và Đài Truyền H́nh Sài G̣n phát các h́nh ảnh về ông. Tôi
đă được đọc trên tờ Sân Khấu &
Kịch Trường những bài nói chuyện về ông, và
họ thận trọng đăng cả nguyên văn
bản Dạ cổ hoài lang do ông sáng tác. Tôi không hiểu ǵ
về vọng cổ nên không biết bài đó hay như
thế nào.
Nhưng theo tôi nghĩ, một tác
phẩm đă làm nên cả một tiết điệu
lưu truyền ngàn đời của một dân tộc;
vĩnh viễn, bao trùm, thấm trong ḍng máu hàng bao nhiêu
người từ thế hệ nọ sang thế hệ
kia th́ đó không phải là một chuyện dễ. Cứ
như tôi đấy, lúc di cư vào Nam th́ tôi c̣n nhỏ,
chưa biết người ta hát cô đầu như
thế nào và cũng chưa xem hát chèo nhiều, nhưng cho
đến bây giờ, đầu hai thứ tóc, vậy mà
cứ nghe đâu đó có tiếng trống chèo hay hát "cô
đầu": "Hồng Hồng Tuyết Tuyết,
mới ngày nào c̣n chưa biết cái chi chi .." là tự
nhiên người tôi cứ tỉnh hẳn ra, mắt sáng
hẳn lên như đói thèm ăn, khát thèm uống. Th́ ra
những tiếng trống chèo, những câu hát ả đào
đă ăn sâu trong ḷng tôi như điệu ca vọng
cổ ăn sâu trong ḷng dân miền Nam từ thế hệ
này sang thế hệ khác, điệu đó do ông Sáu Lầu
sáng tạo.
*
Tôi và đứa con trai nhỏ
đi xem kịch ở số 5B đường Vơ Văn
Tần, tức đường Trần Quư Cáp cũ,
gần Hồ Con Rùa. Nhà tôi và thằng con trai lớn đă
đi từ hai tuần trước. Phải chia ra hai
đợt mà đi chứ cùng lúc họ không bán cho bốn
vé. Ấy là đă phải đến tận nơi mua
từ tuần trước chứ khán giả đông
lắm, "sân khấu nhỏ" có hơn trăm
ghế, ai cũng muốn coi th́ đâu đủ chỗ ?
Ngoài ra, đi xem kịch Thành Lộc là phải đến
đúng giờ. Tám giờ bắt đầu diễn,
đến trễ dù chỉ một phút người ta
cũng không cho vào. Trong lúc xem không được nói
chuyện; phải tắt
điện thoại di động để khỏi reo
chuông; không ăn uống, không hút thuốc; nếu không
đă có các nhân viên nhà hát đến nhắc nhở,
lịch sự mời ra ngoài. Pḥng kịch nghiêm trang
lặng lẽ giống như trong cung thánh. Ấy vậy
mà mọi người lại thích. Nhất là "Việt
kiều", họ quen với việc lịch sự
ở nước ngoài nên nói chuyện cho nhau nghe, chẳng
ai ăn mặc cũn cỡn tỏ ra khinh thường
người khác. Khi kịch đă bắt đầu
diễn, cả pḥng im lặng như muốn nín thở.
"Ông già" Việt kiều
Thành Lộc khe khẽ lắc đầu, mỉm
cười đứng dậy ca cho "ông già" Việt
kiều Việt Anh nghe bản Dạ cổ hoài lang.
Chiếc áo bà ba màu trắng quê mùa miền Nam - loại
vải Mỹ mềm và sang trọng - rộng thùng th́nh phong
lưu tiêu sái. Từng dáng điệu, từng cử
chỉ cộng với tài năng dễ sợ làm cả
pḥng im phăng phắc, không một tiếng động.
Nhiều người đưa tay lên kín đáo chùi
nước mắt ..
Ta ơi đừng khóc, ta ơi
đừng khóc, con ta ngồi bên cạnh ta, nếu biết
bố khóc nó sẽ không yên tâm xem tiếp được
vở kịch rất hay này.
Tuy đă trấn tĩnh nhưng
cổ họng tôi vẫn nghèn nghẹn, hai lỗ mũi cay
cay và nước mắt tôi ứa ra. Cách đây hơn ba
mươi năm, một đêm cũng như đêm nay,
mẹ tôi chuẩn bị đưa tôi xuống tỉnh
để rồi học tṛ chỉ cho tôi thấy ngôi nhà nho
nhỏ trăng trắng của ông Sáu Lầu ở bên kia
sông và tôi lầm lẫn. Bây giờ mẹ tôi đă mất,
ḿnh tôi c̣m cơi với những kỷ niệm xa xưa như
nhớ như quên. Đầu tôi đă hai thứ tóc.
Ngay sau đó là mười lăm
phút ăng-trắc. Tôi ra đầu cầu thang,
đứng bên cửa sổ hút thuốc lá. Một gia
đ́nh có lẽ Việt kiều đang xuống cầu
thang. Người chồng dừng lại dặn vợ con
điều ǵ rồi ở lại, ngập ngừng
đến trước mặt tôi, làm bộ mồi nhờ
điếu thuốc:
- Xin lỗi, ông có phải là giáo
sư X. ngày trước dạy ở trường Trung
học Bạc Liêu ?
Tôi ngạc nhiên, đă bao lâu nay
chúng tôi không c̣n phải là giáo sư nữa mà là giáo viên,
một thứ hạng bét dưới đáy xă hội,
cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con
người không phải con người. Anh này chắc là
Việt kiều nên mới quen miệng, gọi tôi bằng
hai tiếng "giáo sư" như vậy.
- Vâng. Xin lỗi ..?
Anh ta mừng rỡ nắm
chặt tay tôi:
- Em nè thầy ! Em cũng là
học sinh cũ trường Trung học Bạc Liêu, ngày
trước học thầy. Thầy có nhớ hồi
đó thầy c̣n trẻ, mới đổi về tỉnh,
mấy thầy tṛ đi với nhau tụi em chỉ cho
thầy thấy ngôi nhà của ông Sáu Lầu ở bên kia sông
?
Ôi, em đấy ư, những
người học tṛ cũ thân yêu bao nhiêu năm nay tôi
vẫn mong gặp lại đấy ư ? Quả
đất này tṛn thật, thầy tṛ không ngờ gặp nhau.
- Ghê thật, em nhớ dai
thật, bao nhiêu năm rồi mà vẫn c̣n nhận ra
thầy.
- Dạ không. Tại em ngồi
ngay ghế phía đằng sau thầy. Lúc đầu,
thầy mới bước vô em ngờ ngợ v́ trông
thấy thầy hơi quen quen. Sau, nghe thầy giải thích
với em nhỏ ngồi bên cạnh về cái tên Dạ
cổ hoài lang, giọng thầy vẫn y chang nên em mới
chợt nhớ ra.
Hai thầy tṛ hàn huyên với nhau.
Tôi gợi lại câu chuyện ngày xưa và xin lỗi
rằng hồi đó tôi c̣n ít tuổi, mới ra
trường nên chưa biết ǵ về ông Sáu Lầu và
nguồn gốc bản Dạ cổ hoài lang.
Người học tṛ cũ
ngạc nhiên:
- Dạ thưa có ǵ đâu
thầy ? Hồi đó tụi em cũng biết là thầy
không biết nhưng có ai trách móc ǵ thầy đâu ? Ở
bển lâu lâu có dịp gặp nhau, mấy đứa
tụi em vẫn nói chuyện với nhau về thầy.
"Hồi đó tụi em
cũng biết là thầy không biết nhưng có ai trách móc
ǵ thầy đâu, tụi em vẫn nói chuyện với nhau
về thầy" âm thanh nào đó tôi nghe rất giống
với câu nói của ông B́nh Nguyên Lộc, và hơi giống
"Những con diều tại Bắc Kinh " mà
người ta đề là của Lu Hsun, Lỗ Tấn.
ĐOÀN DỰ
(/O-O/ sưu tầm)