Trích đoạn bài
viết của GS. NGUYỄN CHÂU
Nhân mùa Lễ
Tạ Ơn,
bàn về:
CÁC THỨ
ƠN NGHĨA TRONG CUỘC ĐỜI
Trong cuốn "VĂN MINH VIỆT NAM"
ở phần Sinh hoạt t́nh cảm, tác giả Lê Văn
Siêu đă băn khoăn đặt câu hỏi:
- Cái ǵ làm cho con người thành một con
người ?
Câu hỏi mới nghe qua thấy có phần
ngờ nghệch, v́ đă gọi là "con
người" sao lại c̣n hỏi: cái ǵ làm "con
người thành một con người?".
Trong quá tŕnh tiến hóa của của muôn
loài trên trái đất, có lẽ loài người là phức
tạp nhất. Và v́ sự phức tạp này mà từ
thời thượng cổ, người ta đă đi t́m
một định nghĩa cho con ngườị Câu
hỏi: Thế nào là người ? đă được
đặt ra. Và trong Lịch sử Triết học đă
có khá nhiều chuyện lư thú về định nghĩa con
người.
Chuyện thứ nhất: "Một hôm, nhà
hiền triết Platon khi giảng sách cho các môn đệ,
đă bảo rằng "người là một con vật
có hai chân, mà không có lông vũ." Triết gia Diogène châm
biếm câu nói đó một cách tài t́nh, dí dỏm. Hôm sau, ông
mang đến một con gà sống, vặt trụi lông,
quăng ra giữa lớp học của Platon mà bảo:
- Đấy ! Con người của Platon !
Platon bị Diogène chế nhạo là v́ đă
đưa ra một định nghĩa quá ư thô
thiển và thiếu sót về con người.
Diogène là một nhà hiền triết Hy
Lạp một thời được nhiều
người biết đến, v́ ngay giữa ban ngày sáng
sủa, ông cầm đèn đi lang thang ở ngoài
đường; hỏi đi đâu, Diogène đáp:
- Tôi đi t́m con người.
Thái độ này của Diogène đă làm cho
nhiều người đương thời nghĩ
rằng ông ta là một kẻ khùng. V́ đối với
đa số th́ chung quanh Diogène toàn là người cả sao
lại c̣n đi t́m người ? Diogène khùng điên, ngớ
ngẩn hay Diogène quá sâu sắc? Thế nào là một con
người đầy đủ nhân tính? Những sinh
vật gọi là người trong xă hội đầy tranh
chấp, hận thù, ngu muội, kiêu căng, hung tàn,
độc ác và đầy dục vọng chung bản
năng với loài thú có xứng đáng với danh nghĩa
con người chăng?
Th́ ra công cuộc cầm đèn lang thang
giữa ban ngày đi t́m "con người" của
Diogène là một hành tŕnh t́m nhân tính, t́m một con
người đầy đủ đặc tính làm
người.
Cũng nên biết thêm: Diogène là một
hiền triết không có nhà cửa, vợ con, ông sống
lang thang như một người tiền sử, mọi
rợ, chỗ ở là một cái thùng đựng
rượu trống.
Triết thuyết của Diogène là thuyết khinh
thường cuộc đời. Ông không có dụng
cụ, đồ đạc ǵ ngoài cái bát để ăn
cơm và uống nước. Nhưng, một hôm, nhân khi
đi qua một con suối, ông thấy một người
đàn bà chụm tay lại vốc nước lên uống,
ông đă suy tư và nhận thấy cái bát của ông là không
cần thiết, ông đập vỡ cái bát và từ đó
bốc cơm bằng tay, vốc nước uống.
Đông phương xưa, Khổng Phu
tử đă từng than:
- Vi nhơn nan! Vi nhơn nan! Làm
người khó thay!
CÁI G̀ LÀM CHO CON NGUỜI THÀNH NGƯỜI
Trở lại với nỗi băn khoăn
của nhà nghiên cứu Văn Hóa dân tộc, Lê Văn Siêu.
Sau khi đặt câu hỏi, cụ Lê Văn Siêu đă
đưa ra câu trả lời rằng:
- "Không phải cái mặt, mà là cái ḷng
người ta ăn ở với nhau.
- Vậy th́ cái ǵ làm cho xă hội loài
người thành một xă hội của loài người?
- Nhất định cũng không phải
những dụng cụ chứng tỏ một tŕnh
độ tiến hóa kỹ thuật mà là những t́nh
người khi sử dụng những dụng cụ
ấy trong cuộc sống chung với nhau." (Lê Văn
Siêu, Văn Minh Việt Nam, trang 101)
Trên đây là đoạn "Khai lối"
của Lê Văn Siêu vào nếp sinh hoạt t́nh cảm
của xă hội Việt Nam. Lê Văn Siêu đă bắt
đầu từ T́nh Vợ chồng, thứ đến là
t́nh Cha con, thứ ba là t́nh anh em, họ hàng, thứ tư là
t́nh Thầy tớ, thứ năm là t́nh Thầy tṛ và bè
bạn.
Nội dung của năm chương sách tác
giả Lê Văn Siêu đă phân tích và làm nổi bật
những nét độc đáo và đặc thù của
những mối liên hệ t́nh cảm và cách bộc lộ
t́nh cảm trong cuộc sống. Theo Lê Văn Siêu nếp
sống tế nhị này của người Việt
chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim trong khung
cảnh tế nhị của nếp sống dân tộc
không thể dùng phương pháp duy lư Tây phương
để phân tích một cách gọi là khoa học thực
nghiệm được...
Theo Lê Văn Siêu th́ "cái ḷng
ăn ở với nhau" là yếu tố cần thiết để
con người thành người nghĩa là biểu lộ
đầy đủ nhân tính.
Cái ḷng ăn ở với nhau ở đây
phải chăng là T́nh, Nghĩa và Ḷng Biết Ơn?
ƠN LÀ G̀ ?
ƠN cũng thường gọi là ÂN
(gốc Hán Việt). ƠN là những việc làm, những
hành vi giúp ích, đem lại phúc lợi cho người khác
(tha nhân) do ḷng thương yêu, từ ái thúc đẩy,
chứ không bắt nguồn từ một ư chí vụ
lợi nào cả. ƠN là một biểu lộ cao quư
của t́nh yêu, một t́nh cảm ban bố vô điều
kiện...
Chữ ÂN này Hán tự viết theo lối
hội ư gồm chữ Nhân (có nghĩa là: do từ, bởi
do...) phía dưới là chữ Tâm (có nghĩa là trái tim, là
ḷng yêu thương) như vậy "ơn" là hành
động phát xuất từ ḷng. Hán tự c̣n một
chữ ÂN có bộ Tâm nữa vói ư nghĩa là sự lo
lắng, là t́nh cảm đậm đà như trong từ
ngữ "ân cần". Một chữ đồng âm
"ân" khác có nghĩa là thịnh vượng,
đầy đủ, chẳng hạn: "ân phú" là giàu
có. Chữ "ân" này không có bộ tâm, nghĩa là không
thuộc về t́nh cảm.
NHỮNG THỨ ÂN HAY
ƠN TRONG CUỘC ĐỜI
Đời sống t́nh cảm của con
người ở đời rất phong phú và phức
tạp. Sự phức tạp của t́nh cảm
thường phát xuất từ vấn đề t́nh
nghĩa. T́nh là ḷng yêu thương và nghĩa là ư thức về
điều hay lẽ phải, về những cái nên làm,
đáng làm. T́nh là những biểu lộ của trái tim,
nghĩa là những hành vi từ khối óc, trí tuệ. Con người
có đủ Tâm Trí th́ t́nh nghĩa mới điều ḥa và
cuộc đời mới hạnh phúc an vui.
Xưa nay, người đời sợ
nhất là những kẻ vô t́nh và bất nghĩa, hoặc
những người bội nghĩa vong ân. V́ nhân loại
đă chịu biết bao nhiêu nỗi đau thương do
hành vi vô ơn bạc nghĩa gây nên! Do đó vấn
đề "ƠN NGHĨA" rất cần t́m hiểu
sâu xa.
Tuy xuất phát
từ Tâm, nhưng mỗi hoàn cảnh biểu lộ
đều có một số dị biệt, cho nên cần
khảo sát xem có bao nhiêu thứ ƠN trong cuộc
đời.
1.- ƠN CHA MẸ
Ca dao Việt Nam ghi nhận:
Ơn cha như núi
Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trongnguồn chảy ra
Một ḷng thờ mẹ kính cha
Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con.
Ơn cha mẹ
thường được nói đến một cách
tổng quát như "ba năm dưỡng dục, chín
tháng cưu mang" hoặc "Cha sinh mẹ dưỡng
đức cù lao"... Chúng ta có thể tạm liệt kê
như sau:
Ơn sinh sản: mẹ mang thai 9 tháng 10
ngày... chịu đủ thứ nhọc nhằn vất
vả khi con nằm trong bụng. Khi con ra đời mẹ
phải chịu nhiều đau đớn, khổ sở.
Cha th́ phải lo ngược xuôi để nuôi sống và
sắm sửa vật dụng cho đứa con tương
lai, lo chu toàn cấp dưỡng cho người mẹ,
cầu mong cho "mẹ tṛn con vuông".
Ơn nuôi nấng: bú mớm, bồng
ẳm, chăm sóc, nâng niu... mẹ cha phải thường
trực lo lắng cho đứa bé.
Ơn thuốc thang, canh thức, dỗ dành
khi ốm đau.
Ơn dạy bảo: từ sơ sinh
đến lớn khôn cha mẹ đều luôn luôn lo
uốn nắn, dạy bảo để trau dồi
đức hạnh và trí tuệ để con nên
người.
2.-ƠN THẦY VÀ BẠN
Ơn Thầy: con người sinh ra
nếu không được giáo dục th́ đời
sống sẽ rất gần với bản năng thú
vật, do đó con người phải học tập, phải
được giáo huấn. (Sách xưa có câu
"Dưỡng nam bất giáo như dưỡng lư,
dưỡng nữ bất giáo như dưỡng trư:
nuôi con trai mà không dạy th́ như nuôi lừa, nuôi con gái mà
không dạy th́ như nuôi heo!"). Trong quá tŕnh giáo huấn
để nên người, thầy là người nhiều
công lao và hao tổn tâm trí nhất. Thầy khai sáng kiến
văn và đạo lư.
Ơn Bạn: trong quá tŕnh thành nhân,
bạn cũng là một thành phần rất cần
thiết. Con người cần có bạn như "chim có
đàn cùng hót, tiếng hót mới hay, ngựa có bạn cùng
đua, nước đua mới mạnh". Bạn là
người đồng trang lứa, cùng thanh khí tức là
cùng một ước mơ, sở thích, chí hướng
với ḿnh ... thường chung vui, chia buồn, khuyến
khích, cổ vũ ḿnh trong những lúc gặp trở
lực, nghịch cảnh hoặc thất bại. Trong học
vấn, bạn có khi giúp ta hữu hiệu hơn thầy:
Học thầy không tầy học bạn. T́nh bạn càng
thắm thiết chân thành bao nhiêu th́ ơn bạn càng sâu xa
bấy nhiêu.
Ở đây cũng cần phân biệt rơ hai
thành phần thường hay bị nhầm là một,
đó là bạn và bè. Người ta thường gọi
chung là bạn bè, nhưng thực sự th́ BẠN và BÈ
rất khác nhau.
BÈ, nghĩa đen là
nhiều khúc gỗ, nhiều cây tre, cây nứa kết
lại với nhau trong lúc khẩn cấp hoặc cần
cấp để vuợt qua sông, để chạy
nước lụt... Qua cơn khẩn cấp th́ bè không
cần thiết nữa, người ta ră bè ra, gỗ tre
rời sẽ đem về làm những việc khác. Trong
cuộc sống con người cũng vậy, lúc nguy nan
khẩn cấp, v́ vấn đề sống c̣n và tự
vệ, nhiều người khác nhau về nhiều mặt
vẫn có thể kết bè với nhau để giải
quyết hoặc đối phó với những việc
xảy ra trước mắt. Chẳng hạn, mọi
người trong khu vực bị nước lũ đe
dọa kêu gọi nhau ra cùng đào đất đắp
bờ ngăn nước; trên đường dài nhiều
ngựi tụ với nhau thành bè nhóm để cuộc
đi đỡ lẻ loi, để vui, để
đối phó với những bất trắc trên hành
tŕnh... Khi thủy nạn đă qua, cuộc đi đă
đến nơi, đến chốn... nhóm người
đă đồng hành này sẽ tan ră, ai lo phận nấy,
ai về nhà nấỵ không có trách nhiệm ǵ với
cuộc sống của nhau cả. Đó là tính chất
của "Bè": kết hợp với nhau v́ một
mục đích và tư lợi nhất thời và
trước mắt. Trái lại, BẠN đúng nghĩa phải
là những nguớ đồng cảm, đồng tâm, cùng
một chí hướng, kết hợp với nhau v́ t́nh
nghĩa, có trách nhiệm hỗ tương đối
với cuộc sống của nhau, chia buồn, chung vui,
vinh quang cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia ...
Kinh nghiệm và sách sử đă cho ta
thấy rất nhiều t́nh bạn cao quư, keo sơn, ân
nghĩa tṛn đầy, thủy chung như nhất.
3.- ƠN T̀NH NHÂN.- (ƠN L̉NG)
Sau ơn sinh thành, dưỡng dục, ơn
thầy, ơn bạn là ơn người t́nh. Đây là
một loại ân sâu nặng nhưng người
đời thường ít quan tâm để nhắc
nhở. Thật vậy, b́nh thường, con người
khi đến tuổi yêu đương ai cũng khao khát
có được một T̀NH NHÂN đích thực, nghĩa là
một người bạn khác phái "tâm đầu, ư
hiệp" tức là có chung một tần số rung
cảm của tâm hồn trước cuộc đời và
vũ trụ. Một đôi t́nh nhân đích thực phải
là hai tâm hồn ḥa hợp một cách tự nhiên chứ không phải là
cố gắng điều chỉnh cá tính của ḿnh cho
thích hợp với cá tính khác biệt của người
kia nhằm mục đích chiếm hữu cho
được những ǵ ḿnh thích nơi người mà
ḿnh cho là yêu.
(Sự điều
chỉnh để cho vừa ḷng đối tượng
đang chinh phục, qua thời gian sẽ bị lệch
lạc trầm trọng hơn, v́ tính t́nh cố hữu
chỉ có thể che dấu chứ không thể nào thay
đổi được. Một nhà tâm lư học Pháp
đă nhận định rằng: "La nature chassée, revient
au galop" nghĩa là "Bản tính tự nhiên bị xua
đuổi nó sẽ phi nước đại trở
về". Thật vậy, tính t́nh con người bị ư
chí khống chế v́ hoàn cảnh, khi có dịp bộc
lộ nó sẽ rất vũ băo.)
T́nh nhân hoặc
vợ chồng là những nguồn ân ngọt ngào và tha
thiết nhất trong cuộc sống của một con
người b́nh thường. Người t́nh đích
thực là một người biết cho và biết
nhận, sẵn sàng ban ơn và chịu ơn của
đối tượng. Ân t́nh là sự thông cảm, bao dung,
tha thứ, an ủi, vỗ về ... khi gặp gian nan
nghịch cảnh ...
"Xin chàng chớ có
giận hờn,
Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em
che"
Ơn ḷng là ơn của
sự tương tri ... biết nhau một cách chân
thật.
Kiều
đă nói Thúc Kỳ Tâm:
"Nàng rằng:" Muôn đội ơn ḷng..."
Và Thúc sinh đă khẩn khoản:
Sinh rằng:"Từ thuở tương tri
Tấm riêng những nặng v́ nước non..."
Câu chuyện "Phạm Công-Cúc Hoa" là
một điển h́nh về ơn ḷng: Phạm Công là
một học tṛ nghèo, Cúc Hoa là con một quan Tri Phủ
bề thế, cao sang. Trọng tài, mến đức và
thương cảm hoàn cảnh người học tṛ
mồ côi cha đang lo nuôi đưỡng mẹ già ... Cúc
Hoa đă đem ḷng yêu thương tha thiết. T́nh yêu mănh
liệt của Cúc Hoa đă buộc quan Tri Phủ phải
gă nàng cho Phạm Công. Cúc Hoa đă giữ đúng đạo
làm vợ, làm dâu ... để chồng rảnh rang lo
học hành. Truyện kể rằng đến ngày lên Kinh
đô ứng thí, Cúc Hoa đă dốc hết tiền của
dành dụm đưa cho chồng làm lộ phí. Phạm Công
đă rớm nước mắt chia đôi với vợ
số tiền nhỏ ấy để cả hai cùng sống
c̣n ... Cái khăn quàng cho đỡ rét Cúc Hoa trao cho, Phạm
Công cũng xin vợ được xé làm đôi mỗi
người một nửa ... Ôi! Ân t́nh này làm sao quên
được! Cho nên, sau khi đỗ Trạng Nguyên, Vua ép
gả công chúa hai lần, Phạm Công đều xin vua tha
mạng v́ đă có người vợ nghèo và hai con nhỏ
ở quê nhà. Tức giận, vua đă toan dùng đến
cực h́nh để trị tội "khi quân"
nhưng Phạm Công vẫn một mực từ chối...
Phạm Công-Cúc Hoa là truyện hư cấu
để nói lên những ân t́nh sâu nặng của t́nh yêu
đích thực. Chuyện thực xảy ra trong
đời, chúng ta có bà Trần Tế Xương và
nhất là bà Phan Bội Châu. Cụ Phan đă khóc và kể
ơn người bạn đời một cách thảm
thiết! Cụ Phan đă viết thư cho con trước
khi cụ bà mất như sau:
"Này con! Chúng con ôi! Cha mày e chết ở
rày mai, có lẽ mẹ mày không được một phen
gặp nhau nữa! Nhưng nếu Trời thương ta,
cho hai ta đồng chết, th́ gặp nhau ở suối
vàng cũng vui thú biết chừng nào!
"Nhưng đau đớn quá! Mẹ mày
e chết trước ta, Ta hiện giờ nếu không chép
sơ những việc đời mẹ mày cho chúng con nghe,
thời chúng con rồi đây không biết rơ mẹ mày là
người thế nào, có lẽ bảo mẹ ta cũng
như người thường thảy cả.......
"Bây giờ ta ư lúc sắp sửa
chết, mà chưa chết, đem lịch sử mẹ mày,
nói với mày:
"Mày nên biết,
nếu không có mẹ mày thời chí của cha mày đă
hư hỏng những bao giờ kia! .....................
"Bây giờ nhắc lại, trước
khi ta xuất dương, khoảng hơn mười
năm, nghèo đói mà lại bạn bè nhiều, khốn cùng
mà chí vững, thiệt một phần nửa là nhờ
ơn mẹ mày...."
Mối ân t́nh ấy làm sao cầm
được giọt nước mắt biết ơn?
Ôi! những người t́nh, người vợ,
người chồng ... t́m nhau, đến với nhau,
chẳng phải v́ tiền, v́ của, hay v́ những hào
nhoáng bên ngoài ... mà là v́ những t́nh cảm cao cả và cao
quư, v́ những rung động tâm thức chung, riêng giữa
trường đời thường dẫy đầy
vị kỷ, nhỏ nhen!
Ôi! những người t́nh, những
cặp vợ chồng đă chỉ biết trải ḷng ra
để thương yêu và thông cảm nhau, không hề
mảy may đặt vấn đề quyền lợi
với nhau mà chỉ thấy có một trời thương
yêu không bờ giới, Không những chỉ lo cho thân
thể và linh hồn của nhau mà c̣n lo lắng cho cả
ḍng họ của nhau để rồi tự nguyện hy
sinh hết thân tâm v́ nhau. Người t́nh đích thực
thường cảm thấy vui thú, hạnh phúc khi
được hy sinh cho người ḿnh yêu.
Xin trích vài câu khóc vợ của cụ Phan
Bội Châu để tạm kết phần "ÂN
T̀NH":
"T́nh cờ gặp khách năm châu, hơn
ba mươi năm, chồng có như không, cố
đứng vững mới ghê, ngậm đắng,
nuốt cay tṛn đạo mẹ.
"Khen khéo giữ nền tứ
đức, ngoài bấy chục tuổi, sống đau
hơn chết, thôi về mau cho khỏe, đền công
trả nợ nặng vai con.
"Ba mươi năm cầm sắt khéo
xa nhau, mưa sầu gió thảm chỉ bóng làm chồng,
ngồi ngó trẻ con rơi lệ nóng.
"Dưới chín suối thân bằng
như hỏi đến, lấp biển dời non, nào ai
giúp bác, chỉ c̣n ḿnh lăo múa tay không".
4.- ƠN TRI NGỘ
Đây cũng là một nguồn ân đem
lại nhiều hạnh phúc và lạc thú trong cuộc
đời, nhất là đối với những ai
từng gặp đổ vỡ v́ nhầm lẫn hoặc
bị nhiều ngộ nhận.
Có một người bạn tâm
giao là
điều mà hầu hết mọi người
đều ao ước. Bạn tâm giao không phải là
để nhờ vả ǵ nhau trong cuộc sống vật
chất. Đây là sự gặp gỡ kỳ diệu
giữa phần tâm linh của hai người tuy sống
riêng biệt mỗi người một phương,
một cảnh khác nhau, cách xa, nhưng cứ nghĩ
đến nhau th́ lại thấy vui, thấy
được ấm ḷng và không thấy ḿnh cô đơn,
trống vắng. Trông thấy nhau th́ vui, vắng nhau th́
nhớ, cùng vui, cùng buồn...
Trong các ngành thuật như cầm, kỳ,
thi, họa... có một tri kỷ là điều thật
cần thiết. V́ nếu không gặp được tri
kỷ th́ lấy ai mà "tỏ nỗi hàn ôn", lấy
ai "gởi gắm niềm tâm sự", t́m đâu ra
người hiểu được ḿnh qua một khúc
đàn, một nước cờ, một lời thơ,
một nét họa.
Không có ơn tri ngộ, ta sẽ rơi vào
tâm trặng cô đơn khắc khoải của Tố
Như:
"Cổ kim
hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngă tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"
(Xưa nay những
buồn hận trời khó hỏi
Thời thế vần xoay ta vẫn trong nỗi oan này
Không biết ba trăm năm sau
Trên đời có ai sẽ khóc Tố Như chăng?)
Gặp được một người
bạn hiểu được tâm sự của ḿnh ai mà
không cảm thấy sung sướng, thấm thía t́nh
người và biến ơn tri ngộ?
Ơn tri ngộ sẽ làm cho cửa ḷng ta
mở rộng đến những t́nh yêu bao la và cho ta
gặp được chính ḷng ta ... giúp ta trở thành con
người đầy đủ nhân tính hơn...
Cuộc tri ngộ của Nguyễn
Khuyến và Dương Khuê trong văn học sử
Việt Nam là một t́nh bạn tâm giao thắm thiết
đến nỗi khi Dương Khuê tạ thế,
Nguyễn Khuyến đă cảm thấy mất đi
hầu hết hứng thú của cuộc đời:
"Rượu ngon
không có bạn hiền
Không mua, không phải không tiền, không mua!
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa ?
Giường kia treo những hững hờ
Đàn kia có gảy, ngẩn ngơ tiếng đàn..."
(Nguyễn Khuyến khóc
Dương Khuê)
Ơn tri ngộ
cũng có tác dụng xóa hết biên thùy của giai cấp.
5.- ƠN XĂ HỘI - QUỐC GIA
Đây là những ơn thiên về lư trí.
Không ai có thể sống mà không cần đến xă hội
v́ sống đích thực là sống-cùng và
sống-với người khác. Do đó, mọi người trong xă hội
đều phải biết ơn lẫn nhau. Cơm ăn,
áo mặc, nhà ở, xe cộ, thuốc thang, giải trí ...
vân vân đều là những công ơn trong cuộc
đời. Trong cảm thức này, người đời
đă luôn luôn cảm ơn nhau trong các sinh hoạt hỗ
tương hàng ngày.
ƠN QUỐC GIA tức là ơn những
người khai quốc và trị quốc, lo mở mang
bờ cơi, giữ ǵn an ninh, thăng tiến cuộc
sống v́ phúc lợi của muôn người. Ngày xưa
trong thời quân chủ ơn này được gọi là
"ơn vua lộc nước" hoặc là "ơn
mưa móc" v́ vua thường được
đồng hóa với quốc gia, vua là con trời cho nên có
mưa, có sương (móc) ...
thấm nhuần thần dân.
6.- ƠN TRỜI, ƠN THIÊN NHIÊN, SÚC VẬT
Hầu hết người Việt Nam
thuần túy đều tỏ ra biết ơn tất
cả những ǵ đem lại an sinh cho loài người.
Ca dao ghi nhận:
"Ơn Trời
mưa nắng phải th́
Nơi th́ bừa cạn, nơi th́ cày sâu..."
Và đối với Trâu, người nông dân
đă xem như một thành viên trong sản xuất, một
"người" bạn:
"Trâu ơi! ta
bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cái cày với nghiệp nông gia,
Ta đây, trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa c̣n bông,
Th́ c̣n ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn."
Súc là những con vật được
thuần hóa và nuôi trong nhà. Súc vật hỗ trợ rất
đắc lực cho sự sống con người từ
sức lao động đến thực phẩm, thuốc
men...
Trong nhiều xă hội, nhất là xă hội
Âu, Mỹ ... súc vật có một vị trí khá đặc
biệt trong gia đ́nh. Chó, mèo, lợn ... thường
trở thành "bạn" gần gũi của con người,
được nâng niu và thương quư rất mực ...
Trong tinh thần biết ơn thiên nhiên
vũ trụ này, người Việt xưa đă tôn
thờ và tạ ơn cả Ngũ Hành. Mỗi làng theo
truyền thống đều có miếu Ngũ Hành thờ
năm bà: KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ (Cây cối
mùa màng tốt tươi th́ tạ ơn Bà Thủy, Bà
Mộc; Thợ rèn th́ cúng tạ ơn Bà Hỏa, Bà Kim; c̣n Bà
Thổ th́ nhà nào cũng phải cúng v́ tất cả
đều nhờ ơn đất mới có chỗ
nương tựa).
7.- ƠN THIÊNG LIÊNG:
Về mặt
tôn giáo có các ân sau đây:
Ân Tam Bảo:
Giáo lư Phật có nói đến bốn ân
lớn. "Thượng báo tứ trọng ân, hạ
tế tam đồ khổ". Tứ trọng ân gồm:
Ơn Cha mẹ, Ơn thầy bạn, Ơn quốc gia, xă
hội và ân Tam Bảo.
Ân Tam Bảo là ơn Phật, Pháp và Tăng.
a.- Ân Phật Bảo: ơn trường
từ bảo vị vương cung, thê tử quyến
thuộc để xuất gia t́m đạo giải thoát
cho chúng sanh, chịu sáu năm khổ hạnh tu tŕ, tham
thiền 49 ngày dưới gốc cây Tát-ba-la để chứng
ngộ và ơn thuyết pháp giáo hóa trong 49 năm.
b.- Ân Pháp Bảo: nhờ Pháp ta mới
biết lối tu hành, khử ác, hành thiện ... để
thoát ly khổ đau, sanh tử ... được thanh
tịnh an vui.
c.- Ân Tăng Bảo: ơn các bậc
xuất gia tu hành phiên dịch, diễn giảng kinh
điển giữ Pháp luân thường chuyển ...
Ơn Chúa:
Thiên Chúa Giáo có "Kinh Lạy Ơn"
nội dung có những ơn như sau: "Chúng tôi lạy
ơn đức Chúa trời thiêng liêng sáng láng vô cùng đă
cho tôi đặng làm người, cùng chịu nhiều
ơn nhiều phép Hội Thánh nữa, và lại cho phần
xác tôi ngày hôm nay đặng mọi sự lành, lại cho
ngôi hai xuống thế làm người chịu chết trên
cây thánh giá v́ tôi...
Tóm lại, con người sinh ra và sống
ở đời là đă chịu rất nhiều những
ơn huệ của nhau. Đối với người có
tấm ḷng thanh cao rộng mở th́ sự ghi ơn
rộng khắp muôn nơi. Trái lại đối với
người ích kỷ, ḷng dạ lúc nào cũng mưu
cầu lợi lộc cho bản ngă của riêng ḿnh th́ không
có ǵ gọi là ân nghĩa cả, mọi tương giao
chẳng qua chỉ là trao đổi, lợi dụng nhau ...
Khi không c̣n giá trị để lợi dụng, hoặc nhận
thấy không thể lợi dụng được nữa
th́ xoay lưng, sấp mặt, thậm chí t́m cách triệt
hạ người đă giúp ḿnh từ những ngày
"vạn sự khởi đầu nan" để
chứng tỏ là tôi không hề mang ơn ai.
Nhân Ngày Lễ Tạ Ơn của Hoa Kỳ,
chúng tôi xin t́m hiểu sơ lược các thứ ơn trong
cuộc đời và xin nhắc lại một vài
điều ân nghĩa trong truyền thống dân tộc
Việt qua hành vi làm ơn và đền ơn.
THI ÂN & BÁO ÂN
Hầu như đa số người
đời khi thi ân đều do sự thúc đẩy t́nh
cảm, của ḷng nhân ái, của cái mà Mạnh Tử
gọi là "Trắc ẩn chi tâm," hành động giúp
đỡ đồng loại bộc phát, không bao hàm mong
cầu sự báo đáp nào cả. Câu nói mà bà phiếu
mẫu "mắng" Hàn Tín là một biểu lộ
cụ thể. Người làm ơn nhằm mục đích
buộc người ta biết ơn ḿnh th́ thực
chất đây không phải là ơn mà chỉ là một
loại nợ, tạm ứng mà thôi. Người làm ơn
đích thực không cần báo. Làm ơn không cầu báo,
"thi ân rồi quên đi" không bao giờ nhắc
lại, không kể cho người thứ ba nghe biết th́
chắc chắn không có oán.
Trong Kinh Luận Bảo Vương Tam
Muội, trích dẫn bởi Mười Điều Tâm
Niệm, điều thứ 8 ghi rằng: "Thi ân
đừng cầu đền đáp, v́ cầu đền
đáp là thi ân có mưu đồ".
"Đức Phật đă dạy
bằng một h́nh tượng rất cụ thể:
"COI THI ÂN NHƯ ĐÔI DÉP BỎ" nghĩa là xem
việc giúp đỡ kẻ khác là một cách "Thi ân
mạc niệm." Đừng bao giờ nhớ là ḿnh
đă có làm ơn cho ai. Kinh Phật c̣n có nói: "Người
bố thí hàm ân người được bố thí." Thế th́ vấn
đề ân nghĩa và báo đền không c̣n ǵ quan trọng
nữa.
Thế nhưng, về mặt đạo lư
làm ơn là một hành vi thuộc t́nh cảm, dù
người làm ơn không nghĩ đến chuyện
được biết ơn, đền ơn,
người nhận ơn vẫn thường không quên
ơn. Đó là nguyên ủy của ngày Thanksgiving tại
Bắc Mỹ.
Thật vậy, người da đỏ
bản xứ khi giúp đỡ cho di dân Anh đang đói
lạnh, bệnh và chết trong mùa đông khắc
nghiệt vào năm 1620, họ không có một ư tưởng
lợi lộc nào, hành vi này khởi từ ḷng nhân mà thôi.
Lễ Tạ Ơn đầu tiên mà di dân Anh cử hành
ở Plymouth vào mùa thu năm 1621, đă kéo dài nhiều ngày
chung vui giữa di dân và người da đỏ bản
xứ.
Thanksgiving là
ngày vừa tạ ơn trời vừa tạ ơn
người.
GIÁO SƯ NGUYỄN CHÂU
(THI
ĐÀN VIỆT NAM chuyển)